Truyện ngắn Làng có bao nhiều nhân vật

GD&TĐ - Làng là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Kim Lân, được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn 9.

Lâu nay, khi phân tích, bình giải tác phẩm Làng, hầu như chúng ta chỉ tập trung vào nhân vật nam trung tâm là ông Hai. Tuy nhiên, trong truyện, tác giả còn rất thành công khi xây dựng hình tượng các nhân vật nữ. Đây là các nhân vật quy tụ nhiều giá trị tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm mà việc cắt nghĩa, lí giải sẽ đem đến những khám phá mới mẻ, thú vị khi  thưởng thức cũng như hoạt động dạy và học tác phẩm này.

Đi theo chiều dọc của tác phẩm Làng, nhân vật nữ gồm có những người đàn bà ở Gia Lâm, mụ chủ nhà, bà Hai, đứa con gái lớn. Các nhân vật này đều không có tên tuổi cụ thể. Đến sau này, khi tác phẩm Vợ nhặt ra đời, chúng ta cũng một lần nữa gặp lại những người đàn bà không tên riêng như: thị, bà cụ Tứ. Một số nhân vật có tên gọi như bà Hai, bà cụ Tứ thì đó cũng không phải là tên cha sinh mẹ đẻ đặt cho mà là tên gọi theo chồng. Điều này phản ánh phần nào cách gọi tên người phụ nữ trong xã hội Việt Nam trước đây.

Nhưng quan trọng hơn, đây còn là một dụng ý nghệ thuật khi xây dựng các nhân vật nữ của tác giả. Không đặt tên riêng cho nhân vật, nhà văn dường như muốn xây dựng họ trở thành những con người thầm lặng. Họ thầm lặng từ tên gọi, lai lịch đến cuộc đời để rồi bất ngờ bộc lộ tình cảm, tính cách. Tính bất ngờ của diễn biến truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật nhờ đó được thực hiện. Các giá trị tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm cũng từ đó được thể hiện một cách độc đáo, ấn tượng.

Những người đàn bà ở Gia Lâm lên

Tuy không tên không tuổi nhưng các nhân vật nữ lại có sự ảnh hưởng lớn đến lời nói, hành động, suy nghĩ, tính cách của nhân vật chính. Trong tác phẩm, những người phụ nữ làm ông Hai đau khổ trước tiên là những người đàn bà ở Gia Lâm lên. Họ đã cắt đứt nguồn cảm hứng tự hào về quê hương của ông Hai. Khi ông Hai hỏi thăm tình hình Chợ Dầu, người phụ nữ cho con bú đã trả lời: “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa”. Lời nói cộng thái độ khinh miệt của người đàn bà ấy đã chấm dứt phút giây sảng khoái, yêu đời, tự hào về làng trước đó của ông Hai. Giờ đây “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”.

Rõ ràng, xuất hiện thoáng qua rồi vụt biến mất nhưng các nhân vật nữ này lại giữ vai trò hết sức quan trọng trong tổ chức truyện.Với nhiệm vụ đưa tin, họ là những mấu chốt của tình huống truyện có vai trò làm thay đổi hoàn toàn diễn biến truyện cũng như tâm lí của nhân vật chính. Hơn nữa, dù chỉ xuất hiện một lần nhưng qua thái độ trong lời nói của những người phụ nữ từ Gia Lâm lên này, ta thấy rõ trong họ sự căm giận, khinh thường bọn Việt gian bán nước. Đây chính là những nhân vật đầu tiên trong thủ pháp tạo tính bất ngờ như trên đã nói của tác giả Kim Lân. 

Kim Lân, nhà văn của những phận đời bé mọn.

Mụ chủ nhà

Một trong những nhân vật không chỉ ảnh hưởng mà còn trở thành nỗi ám ảnh với ông Hai đó là mụ chủ nhà của ông. Mụ luôn thích làm khổ ông Hai với những “câu nói bóng gió xa xôi, khía vào thịt ông lão”.

Chỉ trong 6 lời thoại, nhà văn Kim Lân đã khắc họa hình ảnh mụ chủ nhà “phảng phất những nét tham lam tai ác của những nhân vật đàn bà nông thôn trước Cách mạng tháng Tám trong truyện ngắn của Nam Cao” [Nhà văn trong nhà trường - Kim Lân, Hoài Việt biên soạn, NXB Giáodục, 1999, tr.48]. Bởi lẽ, trong hoàn cảnh đói khổ, người phụ nữ phải gồng gánh, bằng mọi cách phải nuôi sống được gia đình. Dần dần họ trở nên ích kỉ, chao chát với đời và với những người xung quanh mình. Ta hẳn chưa quên lời biện minh của ông giáo về hành động toan tính, nhỏ nhặt của vợ mình trong tác phẩm Lão Hạc của nhà văn Nam Cao: “Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta quá khổ thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi buồn đau, ích kỷ che lấp mất”.

Mụ chủ nhà của ông Hai cũng như vậy. Thế nhưng, khi nghe được tin cải chính rằng làng Chợ Dầu không theo giặc thì mà mụ cũng vui sướng, niềm nở, hạnh phúc không kém gì ông Hai. Tâm trạng ấy thể hiện rõ trong lời nói của mụ: “A, thế chứ! Thế mà tớ cứ tưởng dưới nhà đi Việt gian thật, tớ ghét ghê ấy… Thôi, bây giờ thì ông bà lại cứ ở tự nhiên ai bảo sao. Ăn nhiều chứ ở hết là bao nhiêu”. Đây là lần đầu tiên mụ thân mật thật sự với gia đình ông Hai.

Bỏ qua những tủn mủn ngày thường, người đọc có thể thấy tận sâu bên trong bản chất người đàn bà này không phải là người chua chát như vẻ bên ngoài. Trái lại, người phụ nữ này cũng là người hết lòng yêu nước, yêu quê hương, có niềm tin kiên định vào ngày thắng lợi của cách mạng. Không khó để nhận ra điều này qua sự thay đổi về ngôn ngữ, thái độ đến tình cảm ở nhân vật. Có thể nói, nhân vật mụ chủ nhà là một bất ngờ độc đáo của tác phẩm. Đây có thể xem là một trong những nhân vật nữ thành công nhất của truyện ngắn Kim Lân.

Người vợ

Đối lập với hình ảnh mụ chủ nhà là nhân vật bà Hai hiền hậu, vợ của ông Hai. Tuy xuất hiện trong chốc lát nhưng nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật bà Hai với tổng hòa những nét phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Bà là người sắt son, chung thủy, hy sinh, tần tảo vì gia đình. Công việc của bà là bán hàng rong. Trong gia đình, bà Hai là một người vợ, người mẹ đảm đang, chịu đựng, nhẫn nhục.

Bà Hai cũng là người hiểu và đồng cảm với tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc. Vì vậy lúc nói chuyện với chồng, bà luôn dùng những lời lẽ rất nhẹ nhàng, tế nhị. Có thể thấy, nhân vật này có những phẩm chất giống với bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt. Họ đều là những người phụ nữ đôn hậu, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho chồng con trong những lúc cuộc sống bế tắc nhất.

Với 7 lời thoại, bà Hai đều nói những câu nói ngắn, lấp lửngcùng giọng nói thủ thỉ như muốn lắng nghe, sẻ chia nhiều hơn cùng chồng: “Này, thầy nó ạ”; “Thầy nó ngủ rồi à”; “Tôi thấy người ta đồn…”; “Thầy nó ngủ rồi ư? Dậy tôi bảo cái này đã”. Khi nói chuyện với mụ chủ nhà, bà Hai cũng hết sức từ tốn: “Vâng… thôi thì dân làng đã chả cho ở nữa, chúng tôi đành phải đi nơi khác chứ biết làm thế nào. Nhưng xin ông bà trên ấy nghĩ lại thư thư cho vợ chồng chúng tôi vài ba hôm nữa. Bây giờ bảo đi, vợ chồng chúng tôi cũng không biết là đi đâu”. Hơn thế nữa, qua các lời thoại, từng suy nghĩ, cảm xúc của bà Hai, chúng ta còn thấy người phụ nữ này lòng tự trọng rất cao.

Bà Hai cũng là một người yêu cái làng chợ Dầu, yêu Cụ Hồ, yêu cách mạng không kém gì ông Hai. Tâm trạng bà lão cũng chuyển biến rõ rệt. Không như ngày thường, ngày nghe tin sai sự thật, bà đã “bước từng bước uể oải, cái mặt cúi xuống bần thần. Đôi quang thúng thõng thẹo trên hai mấu đòn gánh. Bà đi thẳng vào trong nhà lúi húi xếp hàng vào một xó, rồi lẳng lặng ra bậc cửa ngồi ôm má nghĩ ngợi”. Bà Hai dù không thể hiện sự tự hào về quê hương ra bên ngoài như ông Hai nhưng tận đáy lòng bà vẫn luôn theo dõi những tin tức về làng chợ Dầu. Bà đau cùng nỗi đau của của quê hương. Bài Hai là một hình tượng đẹp về người vợ, người mẹ hết lòng vì chồng con, một người phụ nữ một lòng yêu quê, yêu nước, tin tưởng vào cách mạng mà nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công trong tác phẩm của mình.

Truyện ngắn “Làng”.

Đứa con gái lớn

Người thừa kế những phẩm chất tốt đẹp của bà Hai không ai khác là đứa con gái lớn của bà.

Nhân vật đứa con gái lớn này tác giả cũng không cung cấp cho người đọc bất kì thông tin gì về tuổi tác, tên gọi. Nhưng qua tác phẩm, ta biết được đây là một cô gái rất đảm đang, giàu tình cảm. Trong truyện, nhân vật  đứa con gái lớn không có lời thoại nào. Cô chỉ được nhắc đến qua hai câu: “Đứa con gái lớn gồng đôi thúng không bước vào”; “Mụ chủ nhà đi rồi, bà Hai và con bé lớn nước mắt ròng ròng, lẳng lặng gánh hàng ra quán”. Cô cũng giỏi giang như mẹ của mình. Khi ông bà Hai vắng nhà, cô đã biết lo toan việc nhà, chăm nom em. Cô còn biết phụ mẹ buôn bán, kiếm tiền. Cô đã biết đau khổ và khóc khi biết tin làng theo giặc, nghe những lời mỉa mai của mụ chủ nhà. Cô con gái lớn cũng giống như ông bà Hai, cũng giàu lòng tự trọng, biết yêu gia đình, yêu quê hương, biết tủi nhục khi làng bị mang tiếng Việt gian. Nhân vật này không được miêu tả nhiều nhưng dòng “nước mắt ròng ròng” của cô chắc chắn sẽ để lại những ấn tượng cùng tình cảm sâu đậm trong lòng độc giả.

Làng là tác phẩm rất thành công của nhà văn Kim Lân trên nhiều phương diện, trong đó có nghệ thuật xây dựng nhân vật. Bên cạnh nhân vật nam chính, các nhân vật nữ được nhà văn khắc họa ở những mực độ khác nhau nhưng đều để lại những ấn tượng khó quên. Họ tuy khác nhau về lai lịch, ngôn ngữ, tính cách nhưng đều có chung một phẩm chất yêu nước, căm thù giặc và bọn bán nước, tin tưởng vào cụ Hồ và cách mạng. Đó là những nhân vật nữ thành công mà nhà văn Kim Lân đóng góp vào văn học hiện đại Việt Nam.

Không đặt tên riêng cho nhân vật, nhà văn dường như muốn xây dựng họ trở thành những con người thầm lặng. Họ thầm lặng từ tên gọi, lai lịch đến cuộc đời để rồi bất ngờ bộc lộ tình cảm, tính cách. Tính bất ngờ của diễn biến truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật nhờ đó được thực hiện. Các giá trị tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm cũng từ đó được thể hiện một cách độc đáo, ấn tượng. 

II. Tác phẩm

1. Tìm hiểu chung

a. Ý nghĩa nhan đề

          Nhan đề của truyện là “Làng” không phải là “Làng Dầu” vì nếu là “Làng Dầu” thì vấn đề mà tác giả đề cập tới chỉ nằm trong phạm vi nhỏ hẹp, cụ thể ở một làng tên là Chợ Dầu. Dụng ý của tác giả muốn nói tới một vấn đề mang tính phổ biến ở khắp các làng quê, có trong mọi người nông dân của mọi miền Tổ quốc.

b. Tóm tắt

          Ông Hai là người nông dân yêu và tự hào về làng chợ Dầu của mình nhưng vì chiến tranh và hoàn cảnh gia đình nên ông phải đi tản cư. Một hôm nghe ngóng được tin làng Dầu theo Tây. Tin dữ bất ngờ khiến ông không thể tin nổi rồi chỉ biết cúi gằm mặt xuống mà đi về. Về nhà, ông nằm vật ra, ai nói gì cũng tưởng họ bàn tán về làng mình. Khi cùng đường, ông chớm có ý định quay về làng nhưng rồi ông lại xác định “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Khi chủ tịch xã lên cải chính làng Dầu không theo Tây, ông sung sướng đi khoe với tất cả mọi người.

c. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn Làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948.

d. Bố cục [3 phần]

- Phần 1 [từ đầu ...vui quá!] : Ông Hai trước khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.

- Phần 2 [tiếp ... đi đôi phần] : Tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc.

- Phần 3 [còn lại] : Tâm trạng của ông Hai khi tin làng theo giặc được cải chính.

2. Tìm hiểu chi tiết

a. Tình huống truyện

Khái niệm tình huống truyện:

- Tình huống truyện là một hoàn cảnh có vấn đề xuất hiện trong tác phẩm.

- Trong hoàn cảnh đó, nhân vật sẽ có hành động bộc lộ rõ nhất, điển hình nhất bản tính của mình. Tính cách nhân vật sẽ rõ, chủ đề tác phẩm sẽ bộc lộ trọn vẹn.

Tình huống truyện trong truyện ngắn “Làng”

- Đó là khi ông Hai nghe được tin làng Chợ Dầu theo giặc => Tình huống đối nghịch với tình cảm tự hào mãnh liệt về làng Chợ Dầu của ông Hai, khác với suy nghĩ về một làng quê “tinh thần cách mạng lắm” của ông.

- Ý nghĩa:

+ Tình huống tạo tâm lí, diễn biến gay gắt trong nhân vật, làm bộc lộ sâu sắc tình cảm yêu làng,yêu nước ở ông Hai.

+ Xét về mặt hiện thực, tình huống này rất hợp lí.

+ Xét về mặt nghệ thuật nó tạo nên một nút thắt cho câu chuyện; gây ra mâu thuẫn giằng xé tâm lí ông lão đáng thương và đáng trọng ấy, tạo điều kiện để thể hiện tâm trạng, phẩm chất và tính cách của nhân vật thêm chân thực và sâu sắc; góp phần giải quyết chủ đề tác phẩm [phản ánh và ca ngợi tình yêu làng, yêu nước chân thành, giản dị của người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp.]

+ Sự phát triển của câu chuyện sẽ bám theo cái tình huống oái oăm này.

b. Diễn biến tâm trạng của ông Hai

Trước khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc

- Nhớ làng da diết – muốn về làng, muốn tham gia kháng chiến. 

- Mong nắng cho Tây chết.

=> Yêu thương, gắn bó với làng quê, tự hào và có trách nhiệm với cuộc kháng chiến của làng.

- Ở phòng thông tin, ông nghe được nhiều tin hay -> những tin chiến thắng của quân ta -> Ruột gan ông cứ múa cả lên -> Quan tâm tha thiết, nồng nhiệt đến cuộc kháng chiến.

=> Ông Hai là người nông dân có tính tình vui vẻ, chất phác, có tấm lòng gắn bó với làng quê và cuộc kháng chiến.

Tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc

- Khi nghe tin xấu, ông Hai sững sờ, xấu hổ, uất ức:“cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”.

- Từ đỉnh cao của niềm vui, niềm tin ông Hai rơi xuống vực thẳm của sự đau đớn, tủi hổ vì cái tin ấy quá bất ngờ.

- Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rảnh rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin -> Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ, tan tành trước cái tin sét đánh ấy

- Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh day dứt. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông“cúi gằm mặt mà đi”.

- Về đến nhà ông nằm vật ra giường rồi tủi thân nhìn lũ con “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. Bao nhiêu điều tự hào về quê hương như sụp đổ  trong tâm hồn người nông dân rất mực yêu quê hương ấy. Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục của một tên bán nước theo giặc, cả các con ông cũng sẽ mang nỗi nhục ấy.

- Suốt mấy ngày ông không dám đi đâu. Ông quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình hình bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa,ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam – nhông… là ông lủi ra một nhà ,nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”

- Ông Hai rơi vào tình trạng bế tắc, tuyệt vọng  khi nghĩ tới tương lai. Ông không biết đi đâu, về làng thì không được, vì về làng lúc này là đồng nghĩa với theo Tây, phản bội kháng chiến. Ở lại thì không xong, vì mụ chủ nhà đã đánh tiếng xua đuổi. Còn đi thi biết đi đâu bởi ai người ta chưa chấp dân làng Chợ Dầu phản bội.

-> Nếu như trước đây , tình yêu làng và tình yêu nước hòa quyện trong nhau thì lúc này, ông Hai buộc phải có sự lựa chọn.Quê hương và Tổ quốc, bên nào nặng hơn? Đó không phải là điều đơn giản vì với ông, làng Chợ Dầu đã trở thành một phần của cuộc đời, không dễ gì vứt bỏ; còn cách mạng là cứu cánh của gia đình ông, giúp cho gia đình ông thoát khỏi cuộc đời nô lệ.

- Cuối cùng, ông đã quyết định: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Như vậy, tình yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu cũng không thể mãnh liệt hơn tình yêu đất nước. Đó là biểu hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của con người Việt Nam, khi cần họ sẵn sàng gạt bỏ tình cảm riêng tư để hướng tới tình cảm chung của cả cộng đồng.

- Để ông Hai vơi bớt nỗi đau đớn, dằn vặt trong lòng và yên tâm về quyết định của mình, tác giả đã cho nhân vật trò chuyện với đứa con út [thằng cu Húc], giúp ông bày tỏ tình yêu sâu nặng với làng Chợ Dầu [nhà ta ở làng Chợ Dầu], bày tỏ tấm lòng thủy chung son sắt với kháng chiến, với Cụ Hồ [chết thì chết có bao giờ dám đơn sai]. -> Đó là một cuộc trò chuyện đầy xúc động nhớ quê, yêu quê, nỗi đau đớn khi nghe tin quê hương theo giặc cứ chồng chéo đan xen trong lòng ông lão. Nhưng trong ông vẫn cháy lên một niềm tin tưởng sắt đá, tin tưởng vào Cụ Hồ, tin tưởng vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Niềm tin ấy đã phần nào giúp ông có thêm nghị lực để vượt qua khó khăn này. Dường như ông Hai đang nói chuyện với chính mình, đang giãi bày với lòng mình và cũng như đang tự nhắc nhở: hãy luôn “Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh”. Tình quê và lòng yêu nước thật sâu nặng và thiêng liêng.

=> Đau khổ tột cùng khi nghe tin làng mình theo giặc nhưng tấm lòng thủy chung, son sắt với cuộc kháng chiến thì vẫn không hề thay đổi.

Tâm trạng của ông Hai khi tin làng mình theo giặc được cải chính

- Đúng lúc ông Hai có được quyết định khó khăn ấy thì cái tin làng Chợ Dầu phản bội đã được cải chính. Sự đau khổ của ông Hai trong những ngày qua nhiều bao nhiêu thì niềm phấn khởi và hạnh phúc của ông lúc này càng lớn bấy nhiêu.  “bô bô” khoe với mọi người về cái tin làng ông bị “đốt nhẵn”, nhà ông bị “đốt nhẵn”. Nội dung lời “khoe” của ông có vẻ vô lí bởi không ai có thể vui mừng trước cảnh làng, nhà của mình bị giặc tàn phá. Nhưng trong tình huống này thì điều vô lí ấy lại rất dễ hiểu: Sự mất mát về vật chất ấy chẳng thấm vào đâu so với niềm vui tinh thần mà ông đang được đón nhận. Nhà văn Kim Lân đã tỏ ra rất sắc sảo trong việc nắm bắt và miêu tả diễn biến tâm lí của nhân 

=> Từ một người nông dân yêu làng, ông Hai trở thành người công dân nặng lòng với kháng chiến.Tình yêu làng, yêu nước đã hòa làm một trong ý nghĩ, tình cảm, việc làm của ông Hai. Tình cảm ấy thống nhất,hòa quyện như tình yêu nước được đặt cao hơn, lớn rộng lên tình làng. Đây là nét đẹp truyền thống mang tinh thần thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

c. Giá trị nội dung

- Tình yêu làng quê và lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân phải rời làng đi tản cư đã được thể hiện chân thực, sâu sắc và cảm động ở nhân vật ông Hai trong truyện Làng.

d. Giá trị nghệ thuật

- Tác giả đã thành công trong việc xây dựng tình huống truyện, trong nghệ thuật miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật.

Loigiaihay.com

Video liên quan

Chủ Đề