Ưu điểm của công cụ đánh giá hồ sơ học tập

Câu hỏi: Thế nào là hồ sơ học tập? Mục đích của việc xây dựng hồ sơ học tập là gì? Trong dạy học thường sử dụng những loại hồ sơ học tập nào?

Trả lời:

Khái niệm: Hồ sơ học tập là tập tài liệu về các sản phẩm được lựa chọn một cách có chủ đích của HS trong quá trình học tập môn học, được sắp xếp có hệ thống và theo một trình tự nhất định.

Mục đích sử dụng

Hồ sơ học tập có thể được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau, nhưng hai mục đích chính của hồ sơ học tập là:

- Trưng bày/giới thiệu thành tích của HS: Với mục đích này, hồ sơ học tập chứa đựng các bài làm, sản phẩm tốt nhất, mang tính điển hình của HS trong quá trình học tập môn học. Nó được dùng cho việc khen ngợi, biểu dương thành tích mà HS đạt được, cũng có thể dùng trong đánh giá tổng kết hoặc trưng bày, giới thiệu.

- Chứng minh sự tiến bộ của HS về một chủ đề/lĩnh vực nào đó theo thời gian. Loại hồ sơ học tập này thu thập các mẫu bài làm liên tục của HS trong một giai đoạn học tập nhất định để chẩn đoán khó khăn trong học tập, hướng dẫn cách học tập mới, qua đó cải thiện việc học tập của họ. Đó là những bài làm, sản phẩm cho phép GV, bản thân HS và các lực lượng khác có liên quan nhìn thấy sự tiến bộ và sự cải thiện việc học tập theo thời gian của HS.

Qua mục đích của hồ sơ học tập có thể nhận thấy: hồ sơ học tập mang tính cá nhân rất cao, mỗi hồ sơ có nét độc đáo riêng. Nó không dùng vào việc so sánh, đánh giá giữa các HS với nhau. Hồ sơ học tập tập trung vào hỗ trợ và điều chỉnh việc học của HS. Nó cho phép HS cơ hội để nhìn nhận lại và suy ngẫm về sản phẩm và quá trình mà họ đã thực hiện, qua đó họ phát huy điểm mạnh và khắc phục hạn chế trong học tập.

Hồ sơ học tập được sử dụng trong nhiều thời điểm khác nhau của năm học. Với hồ sơ đánh giá sự tiến bộ của HS thì sẽ được sử dụng thường xuyên. Sau mỗi lần lựa chọn sản phẩm để đưa vào hồ sơ, GV có thể tổ chức cho HS đánh giá cho từng sản phẩm đó. Vào cuối kì hoặc cuối năm, toàn bộ các nội dung của hồ sơ học tập sẽ được đánh giá tổng thể, khi đó GV cần thiết kế các bảng kiểm, thang đo hay rubric để đánh giá. GV cũng có thể sử dụng hồ sơ học tập trong các cuộc họp phụ huynh cuối kì, cuối năm để thông báo cho cha mẹ HS về thành tích và sự tiến bộ của HS.

Trong dạy học thường sử dụng những loại hồ sơ học tập:

Các loại hồ sơ học tập gồm:

- Hồ sơ tiến bộ: Bao gồm những bài tập, các sản phẩm HS thực hiện trong quá trình học và thông qua đó, người dạy, HS đánh giá quá trình tiến bộ mà HS đã đạt được. Để thể hiện sự tiến bộ, HS cần có những minh chứng như: Một số phần trong các bài tập, sản phẩm hoạt động nhóm, sản phẩm hoạt động cá nhân [giáo án cá nhân], nhận xét hoặc ghi nhận của thành viên khác trong nhóm.

- Hồ sơ quá trình: Là hồ sơ tự theo dõi quá trình học tập của HS, học ghi lại những gì mình đã học được hoặc chưa học được về kiến thức, kĩ năng, thái độ của các môn học và xác định cách điều chỉnh như điều chỉnh cách học, cần đầu tư thêm thời gian, cần sự hỗ trợ của giảng viên hay các bạn trong nhóm,…

- Hồ sơ mục tiêu: HS tự xây dựng mục tiêu học tập cho mình trên cơ sở tự đánh giá năng lực bản thân. Khác với hồ sơ tiến bộ, hồ sơ mục tiêu được thực hiện bằng việc nhìn nhận, phân tích, đối chiếu nhiều môn với nhau. Từ đó, HS tự đánh giá về khả năng học tập của mình nói chung, tốt hơn hay kém đi, môn học nào còn hạn chế…, sau đó, xây dựng kế hoạch hướng tới việc nâng cao năng lực học tập của mình.

- Hồ sơ thành tích: HS tự đánh giá về các thành tích học tập nổi trội của mình trong quá trình học. Thông qua các thành tích học tập, họ tự khám phá những khả năng, tiềm năng của bản thân, như năng khiếu về Ngôn ngữ, Toán học, Vật lí, Âm nhạc… Không chỉ giúp HS tự tin về bản thân, hồ sơ thành tích giúp họ tự định hướng và xác định giải pháp phát triển, khai thác tiềm năng của bản thân trong thời gian tiếp theo.

Phương pháp đánh giá qua hồ sơ học tập, các sản phẩm học tập, hoạt động học sinh

Trả lời:

Ưu điểm:

  • Tạo không gian sáng tạo, cơ hội cho HS thể hiện kiến thức và năng lực của mình.
  • Thúc đẩy HS học tập một cách trách nhiệm và chủ động.

Nhược điểm:

  • GV và HS mất nhiều thời gian trong việc thực hiện sản phẩm và hồ sơ học tập.
  • Mang yếu tố chủ quan vì phụ thuộc vào người đánh giá.

Với cách hiểu này, ThS Nguyễn Thành Ngọc Bảo - Giảng viên Trường ĐHSP HCM - cho rằng, giáo viên có thể sử dụng hình thức hồ sơ học tập để đánh giá sự trưởng thành về năng lực của học sinh cũng như toàn bộ quá trình học tập bằng những công việc học sinh đã hoàn thành và sản phẩm đầu ra cuối cùng.

Có thể chỉ ra rất nhiều lợi ích từ cách làm này, như: Nếu đánh giá một năng lực nào đó của học sinh dựa trên hồ sơ học tập cụ thể, giáo viên có thể nhìn thấy được cả quá trình phấn đấu trưởng thành của học sinh, sự hoàn thiện năng lực của các em được thể hiện cụ thể qua sản phẩm của từng giai đoạn.

Giáo viên cũng có thể thu thập được phản hồi của học sinh từ những lời tự đánh giá về công việc của mình. Bên cạnh đó, hồ sơ học tập có thể giúp giáo viên đánh giá được năng lực tư duy bậc cao của học sinh, tính sáng tạo, khả năng làm việc độc lập của các em.

ThS Nguyễn Thành Ngọc Bảo 

Hồ sơ đọc

Đọc hiểu văn bản theo loại thể là một yêu cầu cơ bản đối với việc dạy đọc hiểu văn bản cho học sinh. 

Ở bậc THPT, học sinh được tiếp cận một số thể loại cơ bản như thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút, kịch,. với một số tiết nhất định theo quy định.

Chương trình sách giáo khoa môn Ngữ văn [bộ cơ bản] lớp 10, 11, 12 số lượng văn bản quy định cho từng thể loại là không nhiều.

Vì lẽ đó, theo ThS Nguyễn Thành Ngọc Bảo, để học sinh có cơ hội vận dụng nhuần nhuyễn các cách thức tiếp cận văn bản theo loại thể cũng như tạo lập một cơ sở để đánh giá năng lực tiếp nhận văn bản của học sinh, cần khuyến khích mỗi học sinh tự xây dựng một hồ sơ đọc cho riêng mình.

Hồ sơ đọc này có thể là một hồ sơ lưu trữ tất cả tài liệu đọc độc lập của học sinh; được học sinh dùng để chuẩn bị bài mới, ghi chép lại nhận xét của mình về từng bài học trong sách giáo khoa; hoặc ở mức độ cao hơn là đọc những tác phẩm bên ngoài sách khoa [theo gợi ý của giáo viên hoặc theo sở thích cá nhân của học sinh].

Hình thức cụ thể của hồ sơ đọc cần được giáo viên hướng dẫn cho học sinh và đảm bảo tất cả các em đều hiểu và có thể làm được.

Chẳng hạn, giáo viên có thể thực hiện một hồ sơ đọc mẫu một văn bản truyện gồm có các đề mục chính như: cốt truyện, tình huống truyện, hệ thống nhân vật, nghệ thuật kể chuyện, lời văn nghệ thuật,...

Sau đó, giáo viên cho học sinh tham khảo, cùng thảo luận với học sinh yêu cầu của từng đề mục cũng như cách thức đọc hiểu văn bản để hoàn thành từng đề mục của hồ sơ đọc.

Hồ sơ bài viết

Một học kì, theo quy định học sinh THPT phải viết tử 4 - 5 bài viết. Thông thường sau khi nộp bài cho giáo viên và được phản hồi bằng điểm số thì học sinh không còn quan tâm đến bài kiểm tra đó nữa. Thậm chí nhiều học sinh còn không hiểu vì sao mình được hay bị điểm số như vậy.

Vì thế năng lực tạo lập văn bản [năng lực làm văn] của học sinh hầu như không được chính bản thân các em quan tâm. Hay nói cách khác, chính chủ thể cũng không nhận thức và đánh giá được năng lực của chính mình.

Hậu quả là, trong suốt quá trình học ở phổ thông, mặc dù được học rất nhiều về các kĩ năng, quy trình, cách thức tạo lập văn bản nhưng năng lực viết của học sinh không tiến bộ bao nhiêu.

Nguy hiểm hơn nữa là khi phải đối mặt với các tình huống thực tế, học sinh không thể viết được một văn bản đáp ứng được yêu cầu.

Vì lẽ đó,ThS Nguyễn Thành Ngọc Bảo cho rằng, một hồ sơ theo dõi sát sao quá trình tạo lập các loại văn bản được dạy trong sách giáo khoa cũng như sự tiến bộ của chính người học trong suốt học kì hoặc cả năm học là việc cần thiết.

Điều quan trọng cần lưu ý là, giáo viên không chỉ xem hồ sơ bài viết này như một phản hồi của người học mà còn phải xác định rõ với học sinh nó là một căn cứ để đánh giá năng lực tạo lập văn bản của các em.

Theo hình thức đánh giá này, hồ sơ bài viết sẽ được giáo viên xem xét và thảo luận với từng học sinh mỗi cuối học kì để đánh giá mức độ phát triển.

Giáo viên cũng có thể sử dụng kết quả đánh giá này như một cột điểm của bài viết 1 tiết hoặc 2 tiết.

Ưu thế của hình thức đánh giá này so với kiểu bài viết truyền thống thể hiện rất rõ ở chỗ giáo viên có thể đánh giá cả quá trình học của học sinh, cụ thể hơn là sự tiến bộ của học sinh qua từng bài viết.

Quy trình thực hiện việc đánh giá hồ sơ bài viết, theo ThS Nguyễn Thành Ngọc Bảo, có thể tiến hành như sau:

Vào đầu học kì, giáo viên thông báo cho học sinh biết số lượng bài viết cần thực hiện trong suốt học kì. Căn cứ vào đó học sinh sẽ biết số lượng bài viết tối thiểu mình cần thực hiện trong hồ sơ bài viết.

Sau đó, trước mỗi bài viết [trước đây là bài kiểm tra] giáo viên cần xác định rõ yêu cầu của bài viết, tiêu chuẩn đánh giá để làm căn cứ thực hiện cho học sinh.

Sau khi học sinh thực hiện bài viết đầu tiên, giáo viên có thể xem xét và ghi lại lời đánh giá cho học sinh. Lời nhận xét này cần bao gồm hai phần: Phần ưu điểm cần phát huy và phần nhược điểm cần khắc phục trong những bài viết sau thật ngắn gọn và rõ ràng.

Ở giai đoạn này giáo viên có thể cho điểm để học sinh dễ dàng biết được mức độ năng lực của mình hoặc không cho điểm tùy theo mục đích riêng.

Ở bài viết thứ hai, giáo viên cũng tiến hành thao tác nhận xét tương tự. Tuy nhiên ở bước này giáo viên cần so sánh bài viết này với bài viết trước để học sinh nhận ra sự tiến bộ [hoặc giảm sút] của mình qua từng bài viết.

Lần lượt như thế suốt cả học kì, giáo viên sẽ có phần tổng kết nhận xét sự tiến bộ của học sinh qua từng bài viết. Tự bản thân mỗi học sinh cũng sẽ đánh giá được năng lực của mình.

Và kết quả đánh giá cuối cùng có thể là trung bình cộng của tất cả các bài viết hoặc trung bình cộng đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh.

Với lớp ít học sinh [khoảng từ 15 đến 20 học sinh] và học sinh đã quen với việc tự đánh giá năng lực tạo lập văn bản của mình, giáo viên có thể tham khảo thêm kết quả đánh giá lẫn nhau của học sinh.

Video liên quan

Chủ Đề