Vì sao cần bảo vệ quan điểm của đảng

[thitruongtaichinhtiente.vn] - Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nội dung cơ bản, hệ trọng, có ý nghĩa sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Trong giai đoạn hiện nay, để tăng cường và không ngừng nâng cao hiệu quả công tác này, cần nhận diện rõ bối cảnh mới, những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, từ đó đề ra định hướng, giải pháp phù hợp.

Thực tiễn cách mạng của Đảng ta chỉ rõ, ở bất kỳ giai đoạn cách mạng nào, công tác tư tưởng, lý luận luôn đứng ở vị trí hàng đầu trong các mặt công tác của Đảng, có những vai trò quan trọng. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, mạng xã hội, việc phát tán các quan điểm sai trái, thù địch trở nên rất dễ dàng, nên công tác đấu tranh phản bác các quan điểm này cũng được đặt ngang hàng với bảo vệ nền tảng tư tưởng.

Thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” cần phải lấy bảo vệ là chính kết hợp với đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Nghị quyết có hai hoạt động cơ bản là bảo vệ và đấu tranh, phù hợp với phương châm “xây” và “chống” trong công tác tư tưởng, lý luận. Trong đó, bảo vệ nền tảng tư tưởng là vấn đề quan trọng hàng đầu, được đặt lên trước.

Vì vậy, thực hiện Nghị quyết này phải lấy bảo vệ là chính. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều này đã được Cương lĩnh và Điều lệ Đảng khẳng định. Bảo vệ nền tảng tư tưởng là việc nghiên cứu, bổ sung, phát triển, hoàn thiện chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới và phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đồng thời, trong bảo vệ phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, hiện thực hóa hệ tư tưởng của Đảng vào đời sống và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch.

Một số giải pháp nhằm tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nâng cao hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới:

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tạo sự thống nhất, quyết tâm cao trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và cả hệ thống chính trị trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền gắn với việc phòng ngừa, ngăn chặn các biểu hiện suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Cùng với đó, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để mỗi cán bộ, đảng viên tự giác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch và trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên là thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết 35.

Thứ hai, tăng cường gắn kết hơn nữa giữa việc thực hiện Nghị quyết 35 với thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Chỉ thị số 05-CT/TW “Về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Quy định số 08-QĐ/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên”…

Thứ ba, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác tư tưởng, lý luận theo hướng khoa học, thiết thực, kịp thời, hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục trong tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Coi trọng lấy gương “người tốt, việc tốt” để tuyên truyền, giáo dục, tạo hiệu ứng tích cực, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Xử lý nghiêm các vi phạm chuẩn mực đạo đức cách mạng của đảng viên, đồng thời cổ vũ, biểu dương các tấm gương đạo đức để tạo ảnh hưởng lan tỏa trong Đảng và xã hội.

Thứ tư, tổ chức tốt cuộc đấu tranh vạch trần những quan điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho mọi tầng lớp nhân dân, trước hết là cán bộ, đảng viên nhận rõ mục tiêu sâu xa của các quan điểm sai trái. Tích cực chống lại các khuynh hướng đem đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, hòng phủ nhận vai trò của cả chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh việc nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách có hệ thống, bài bản, đi vào chiều sâu.

Thứ năm, chủ động nắm bắt tình hình diễn biến tư tưởng, dư luận xã hội; xử lý kịp thời những vấn đề bức xúc nảy sinh; tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng, tạo sự đồng thuận trong xã hội. Phát huy vai trò của các cơ quan báo chí trong đấu tranh vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, góp phần định hướng dư luận xã hội. Mặt khác, mỗi cơ quan, đơn vị cần duy trì tốt chuyên trang “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”, “Đấu tranh phản bác luận điệu sai trái, thù địch”, chuyên mục chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Cùng với đó, cấp ủy, chính quyền các cấp cần tích cực thông tin và tăng cường đối thoại với nhân dân; chủ động, linh hoạt tham gia giải quyết các vấn đề của xã hội.

Thứ sáu, tăng cường trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn, bồi dưỡng lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ chủ chốt; bảo đảm việc học tập các môn lý luận chính trị được tiến hành một cách thực chất hơn, để người học nắm được những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cơ sở xem xét, phân tích, đánh giá thấu đáo các vấn đề chính trị – xã hội diễn ra trong đời sống hiện thực. Mặt khác, xử lý nghiêm các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ Ðảng, Nghị quyết, Chỉ thị, Quy định của Ðảng. Các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ bí mật của Ðảng, Nhà nước, lan truyền những thông tin sai lệch hoặc có nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích động…, làm nguy hại an ninh quốc gia.

Thực tiễn suốt hơn 90 năm đã cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn kiên trì, kiên định với nền tảng tư tưởng của Đảng và luôn kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Sự kiên trì, kiên định và kiên quyết ấy chính là những bài học kinh nghiệm quý báu cho mỗi cơ quan, đơn vị, tổ chức; mỗi cán bộ, đảng viên khi tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Nhiệm vụ này tuy ngày càng có nhiều khó khăn, thử thách nhưng nếu mỗi chúng ta luôn kiên định về lập trường tư tưởng, vững vàng về bản lĩnh chính trị, đồng sức, đồng lòng sẽ tiếp tục đạt được những thành quả to lớn.

6/13/2016 8:37:58 AM

Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm tới; trong đó, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là một nội dung quan trọng. Quán triệt sâu sắc tinh thần đó sẽ là cơ sở quan trọng để xác định phương hướng, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, bảo vệ Tổ quốc trong thời gian tới.

Kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc và thực tiễn bảo vệ Tổ quốc qua 30 năm đổi mới; đồng thời, tiếp thu tinh hoa trí tuệ nhân loại, Đại hội XII của Đảng kiên định và xác định những vấn đề cơ bản về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, thể hiện sâu sắc tư duy mới về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa của Đảng ta.

1. Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên” của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đại hội XII của Đảng xác định: “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”1. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng ta, tạo cơ sở quan trọng cho Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị, toàn dân và toàn quân ta xác định và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh theo chức năng, nhiệm vụ của mình nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Khẳng định củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên”, Đảng ta nhấn mạnh nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ phát triển kinh tế, nhưng không coi nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là thứ yếu. Bởi, củng cố quốc phòng, an ninh là cơ sở trực tiếp tạo thuận lợi cho nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế; ngược lại, kinh tế phát triển, đất nước mạnh lên sẽ là “phương thức hữu hiệu” để bảo vệ Tổ quốc. Đây là quan điểm lý luận cơ bản, chi phối, quy định toàn bộ các nội dung, quan điểm của Đảng về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

2. Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là toàn diện, cả phương diện tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội trong chỉnh thể thống nhất. Đại hội XII của Đảng xác định: “Mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”2. Trong tình hình mới, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc phải bảo đảm được lợi ích quốc gia, dân tộc khi nước ta tham gia hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tạo thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường ổn định, hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho các nước trên thế giới hợp tác với Việt Nam. Các nội dung bảo vệ Tổ quốc quan hệ chặt chẽ biện chứng với nhau trong chỉnh thể thống nhất; bảo vệ lĩnh vực này cũng có nghĩa là góp phần bảo vệ lĩnh vực khác và ngược lại, không xem nhẹ hoặc tuyệt đối hóa một lĩnh vực nào.

3. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp; củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lực lượng bảo vệ Tổ quốc là toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Đó là sức mạnh tổng hợp của các yếu tố: chính trị, quân sự, kinh tế, khoa học và công nghệ, văn hóa, đối ngoại; biểu hiện sức mạnh vật chất, tinh thần của toàn bộ nhân dân trong nước và kiều bào Việt Nam định cư ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc. Đó còn là sự kết hợp chặt chẽ sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Để phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang, Đảng ta xác định: tập trung xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng quan trọng; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; phải “Tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, sẵn sàng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc trong mọi tình huống”3. Quan điểm sức mạnh tổng hợp và lực lượng toàn diện bảo vệ Tổ quốc, phản ánh sâu sắc tính chất toàn dân, toàn diện của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới được Đảng ta tiếp tục khẳng định với nội hàm sâu, rộng thêm.

4. Quốc phòng và an ninh quan hệ chặt chẽ, thống nhất trong mục tiêu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Theo đó, quốc phòng và an ninh đều hướng vào mục tiêu chung là bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; được thể hiện trong sự kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng lực lượng và thế trận của nền quốc phòng toàn dân với xây dựng lực lượng và thế trận của nền an ninh nhân dân. Đại hội XII nhấn mạnh: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc”4. Mối quan hệ biện chứng đó đặt trong tổng thể thống nhất và gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Mối quan hệ đó phản ánh yêu cầu, nhiệm vụ cơ bản của hai lĩnh vực hoạt động đặc thù nhằm mục tiêu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Xây dựng thế trận và lực lượng của quốc phòng và an ninh phải đảm bảo toàn diện, đồng bộ, quan hệ chặt chẽ, có chất lượng và hiệu quả cao trên phạm vi toàn quốc, cũng như trong từng địa bàn, từng lĩnh vực cụ thể.

5. Có kế sách phòng, chống các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, khắc phục các yếu tố tác động tiêu cực đến sự nghiệp củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới. Đây là kinh nghiệm quý, một phương thức giữ nước đặc sắc của dân tộc, được Đảng ta kế thừa và phát huy đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Theo đó, quốc phòng và an ninh phải có đủ sức mạnh để “ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”5, để đất nước “không bị động, bất ngờ”; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và tạo điều kiện thuận lợi cho bạn bè quốc tế trong hợp tác với Việt Nam. Đại hội XII chỉ rõ: phải “Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước”6.

6. Quán triệt và xử l‎ý tốt mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thực tiễn. Đây là quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc. Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới có tầm quan trọng đặc biệt, là quan hệ cơ bản, chi phối, thẩm thấu vào các mối quan hệ khác; được giải quyết trong sự gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ: phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Trong đó, xây dựng, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và phát triển văn hóa. Trong xây dựng Đảng, phải đạt đến mục đích là giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ quốc phòng và an ninh. Trong phát triển văn hóa phải chú ý gia tăng sức mạnh quốc phòng, an ninh, phục vụ cho xây dựng và phát huy các tiềm lực quốc phòng, an ninh, nhất là tiềm lực chính trị tinh thần. Mối quan hệ tác động lẫn nhau đó cần phải được nhận thức thấu đáo và xử lý đúng trong thực tiễn trên tất cả các lĩnh vực. Phải “kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh”7. Việc giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phải được thể hiện cụ thể ở sự kết hợp chặt chẽ giữa các lĩnh vực trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển; trong đó, chú trọng phát triển kinh tế, gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh ở các địa bàn trọng yếu, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo.

7. Sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”8. Trong nhận thức lý luận cũng như trong tổ chức thực tiễn, Đảng ta luôn trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát tình hình, yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng để tổ chức, lãnh đạo và chỉ đạo sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước là cơ sở chắc chắn nhất bảo đảm cho Tổ quốc được bảo vệ vững chắc trong bối cảnh có nhiều biến động phức tạp. Hiện nay, trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, với âm mưu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang hòng làm cho Quân đội và Công an mất phương hướng chính trị, xa rời mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, thì vấn đề tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với Quân đội, Công an và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc càng trở nên quan trọng, cấp bách hơn. Đây không chỉ là sự trung thành với lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của giai cấp công nhân, mà còn là đòi hỏi bức thiết từ tình hình, nhiệm vụ của cách mạng nước ta thời kỳ mới. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trên, vấn đề then chốt là phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ.

Quan điểm về bảo vệ Tổ quốc được Đảng ta khẳng định trong Đại hội XII là sự trung thành, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới và từ tư duy, phát triển lý luận đến tổng kết thực tiễn của Đảng, nhất là 30 năm đổi mới, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc vừa qua. Đây là cơ sở, nền tảng quan trọng để Đảng, Nhà nước và nhân dân ta triển khai, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc mà Đại hội XII của Đảng đã đề ra.

Trung tướng, PGS, TS. NGUYỄN ĐÌNH MINH, Giám đốc Học viện Chính trị

______________       

1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 148.

2 - Sđd - tr. 147 - 148.

3 - Sđd - tr. 150.

4 - Sđd - tr. 148.

5 - Sđd - tr. 149.

6 - Sđd - tr. 148.

7 - Sđd - tr. 149.

8 - Sđd - tr. 150.

Video liên quan

Chủ Đề