Vì sao con người đặt tên cho những cơn bão

Tại sao mọi cơn bão đều có tên và ai là người đặt tên cho bão?

Xem thêm:

Tin liên quan

Chú chim nhỏ phát ra mùi lạ - Tuyệt đối không chạm tay vào!

  • Infographics
  • Video
  • Magazine
  • Quiz

Nguồn: //tienphong.vn/tai-sao-moi-con-bao-deu-co-ten-va-ai-la-nguoi-dat-ten-cho-bao-post1384031.t...Nguồn: //tienphong.vn/tai-sao-moi-con-bao-deu-co-ten-va-ai-la-nguoi-dat-ten-cho-bao-post1384031.tpo

sự kiện Clip hot

Săn nghé con, sư tử dính đòn kinh hoàng từ trâu rừng

Câu hỏi:Vì sao con người đặt tên cho các cơn bão?

Trả lời:

Không như ở Việt Nam nơi các cơn bão được đặt tên theo số thứ tự của nó trong năm, trên thế giới, mỗi cơn bão ngày nay đều có tên riêng, thậm chí còn có những cái tên rất hay mỹ miều và thơ mộng như Harvey, Irma hay Katrina... Các cơn bão nhiệt đới bắt đầu được đặt tên từ đầu thế kỷ 20, lý do là để tạo thuận lợi, dễ dàng cho việc liên lạc giữa các nhà dự báo thời tiết và công chúng trong việc theo dõi và chú ý đến các cảnh báo về bão hơn, tránh nhầm lẫn giữa các cơn bão.

Các em cùng tìm hiểu về những cơn bảo lớn nhất lịch sử nhé!

1. Bão là gì?

Bãolàxoáy thuậnquy mô synop [500−1000km] không có front, phát triển trên miền biểnnhiệt đớihaycận nhiệt đớiở mực bất kỳ và có hoàn lưu xác định.

Trong không gian ba chiều, bão là một cột xoáy khổng lồ, ở tầng thấp [khoảng 0−3km] không khí nóng ẩm chuyển động xoắn trôn ốc ngược chiều kim đồng hồ [ở Bắc Bán Cầu] hội tụ vào tâm, chuyển động thẳng đứng lên trên trong thành mắt bão và tỏa ra ngoài ở trên đỉnh theo chiều ngược lại. Ở chính giữa trung tâm của cơn bão không khí chuyển động giáng xuống, tạo nên vùng quang mây ởmắt bão. Các thành phần chính của bão bao gồm các dải mưa ở rìa ngoài, mắt bão nằm ở chính giữa vàthành mắt bãonằm ngay sát mắt bão.

Giá trị khí áp nhỏ nhất tại tâm bão và tăng dần ra phía rìa bão. Càng vào gần tâm, cường độ gió bão càng mạnh, khu vực tốc độ gió mạnh nhất cách tâm bão khoảng vài chục km. Vào vùng mắt bão gió đột ngột yếu hẳn, tốc độ gió gần bằng không. Khi qua khỏi vùng mắt bão gió lại đột ngột mạnh lên nhưng có hướng ngược lại, đây chính là tính chất ảnh hưởng nguy hiểm nhất của bão

2. Quá trình hình thành và phát triển của bão

BãoIrmanăm 1971, tại thời điểm đó, cơn bão giữ kỷ lục tăng cường độ nhanh nhất trong vòng 24 giờ, với áp suất giảm từ 980 mbar xuống 885 mbar

Bão chỉ có thể hình thành khi có đủ ba điều kiện: nhiệt độ, độ ẩm và động lực để tạo xoáy.

Trên biển phía tây bắcThái Bình Dương, dải vĩ độ 5−20 hai bên xích đạo có nhiệt độ cao [từ 26−27°C trở lên] đảm bảo cung cấp đủ lượng hơi nước khổng lồ bốc hơi mạnh để cung cấp năng lượng ngưng kết cho bão hình thành,lực Coriolisđủ lớn để tạo xoáy.

Đới gió cơ bản vùng nhiệt đới mà trong đó bão hình thành cần phải có độ đứt thẳng đứng nhỏ, vìđộ đứt thẳng đứng của gióngăn cản sự phát triển của xoáy thuận. Thực tế cho thấy, ở khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương, khi đới gió tây trên cao bao trùm lên trên đới tín phong [có hướng đông bắc] thì bão khó hình thành. Trái lại, bên trên tín phong có gió đông dày, thường tới 6 km, thì bão dễ hình thành và phát triển. Đới gió đông càng dày thì bão càng dễ hình thành và phát triển.

Bão thường phát triển lên từ một vùng áp thấp nhỏ ban đầu. Trên vùng Tây Bắc Thái Bình Dương, các vùng áp thấp thường hình thành trênITCZ[dải hội tụ nhiệt đới], rãnh xích đạo hay từ các nhiễu động ở rìa đới tín phong nhưsóng đônghay sóng xích đạo.

Giai đoạn phát triển:

Đặc điểm của giai đoạn này là khí áp bề mặt vùng bão tiếp tục giảm và tốc độ giảm áp ngày càng tăng, trung bình 15−20 hPa/ngày, cá biệt lên tới 97 hPa/ngày và 51 hPa/8 giờ [cơn bão Irma năm 1971 trên Tây Bắc Thái Bình Dương], cho đến khi đạt giá trị khí áp thấp nhất. Gió bão cũng càng ngày càng mạnh thêm một cách nhanh chóng với vùng gió mạnh nhất được hình thành và thu hẹp lại trong vách bão với bán kính chỉ chừng 100 km trở lại. Tốc độ gió mạnh nhất ở vùng gần trung tâm bão thường xuất hiện vào cuối giai đoạn này.

Giai đoạn chín muồi:

Giai đoạn này bắt đầu khi sự phát triển của bão đã hoàn tất, khí áp trung tâm bão không tiếp tục giảm thêm và tốc độ gió cực đại ở vùng gần trung tâm bão cũng không tăng thêm nữa. Nhưng ở giai đoạn này phạm vi bão và vùng gió mạnh ở gần trung tâm bão thường mở rộng hơn. Đặc biệt bán kính vùng gió mạnh từ khoảng trong 100 km có thể mở rộng tới 200 km hoặc hơn nữa. Giai đoạn này thường kéo dài vài ba ngày, có khi tới cả tuần lễ ở trênđại dương.

Giai đoạn tan rã:

Khi bão đi vào đất liền, do ảnh hưởng của địa hình và đặc biệt là do không được cung cấp đầy đủ hơi ẩm nên bão bị mất tiềm nhiệt ngưng kết năng lượng để tồn tại, kích thước thu hẹp, khí áp đầy lên nên nó bị suy yếu và tan rã sau 1−2 ngày. Bão cũng có thể suy yếu và tan rã trên biển khi gặp những điều kiện bất lợi như: đi vào vùng nước lạnh, bị không khí lạnh xâm nhập vào, kết cấu hoàn lưu trên cao không thuận lợi,...

3. 12 cơn bão lớn nhất ghi nhận trong lịch sử thế giới

1. Bão Tip - 1979

Cơn bão Tip xuất hiện vào năm 1979 gần Micronesia, phía Tây Thái Bình Dương. Với áp suất không khí thấp kỉ lục ở mức 870hPa và có đường kính 2.200 km, bão Tip đã phá vỡ mọi kỷ lục về quy mô và cường độ trong lịch sử. Ngày 12/10/1979, bão Tip hình thành trên Thái Bình Dương với sức gió 305km/giờ nhưng khi đến khu vực đất liền thuộc đảo Honsu chỉ còn ở mức 130 km/giờ. Bão Tip tạo nên 600 trận lở đất ở Nhật Bản, phá hủy 22.000 ngôi nhà và khiến 86 người chết

2. Siêu bão Nora - 1973

Siêu bão Nora xuất hiện ở phía Đông Philippines vào ngày 1/10/1973. Cơn bão nhanh chóng mạnh lên trong 4 ngày với sức gió 298km/giờ. Áp suất không khí khi đó ở mức 877 hPa, mức thấp nhất từng được ghi nhận tại thời điểm đó. Siêu bão Nora đổ bộ vào hòn đảo của Luzon của Philippines 6 ngày sau đó. Khi cơn bão đến khu vực phía Đông Nam Trung Quốc vào ngày 10/10, cơn bão đã suy yếu đi đáng kể. Siêu bão Nora khiến 18 người thiệt mạng và gây ra tổng thiệt hại trị giá khoảng 2 triệu USD.

Siêu bão Yasi gây nên sóng to và gió lớn tại Cairns

3. Siêu bão June - 1975

Siêu bão June được ghi nhận vào năm 1975 với sức gió mạnh nhất lên tới 297km/giờ. May mắn rằng cơn bão đã không thể tiếp cận đến khu vực đất liền và biến mất trên Thái Bình Dương. Siêu bão June cũng là cơn bão đầu tiên có ba vòng tròn đồng tâm xung quanh mắt bão.

4. Siêu bão Ida - 1958

Ida xuất hiện phía phía Tây Thái Bình Dương vào ngày 20/9/1958. Siêu bão nhanh chóng đạt tới sức gió 321km/giờ chỉ sau 3 ngày. Tuy nhiên đến khu vực đảo Honsu của Nhật Bản, siêu bão Ida chỉ còn sức gió 129km/giờ. Cơn bão tạo nên trận mưa xối xả ở phía Đông Nam Nhật Bản và phá hủy hai ngôi làng nhỏ. Mưa lớn khiến 888 người chết và 1900 trận lở đất .

5 . Siêu bão Kit - 1966

Siêu bão Kit hình thành ở Thái Bình Dương vào ngày 25/6/1966. Báo cáo xác nhận rằng cơn bão đạt tới sức gió 313km/giờ nhưng khi đó công nghệ đo sức gió vẫn còn ở mức sơ khai. Siêu bão Kit đổ bộ vào đảo Honsu ngày 28/6 khiến 64 người chết.

6 . Siêu bão Rita - 1978

Siêu bão Rita xuất hiện vào ngày 15/10/1978 nhưng chỉ đạt sức gió ở mức 5 sau 8 ngày. Áp suất không khí đo được ở mức 878hPa, ít hơn 8 hPa so với áp suất của cơn bão mạnh nhất từng được ghi nhận. Siêu bão Rita duy trì cường độ này trong vòng 3 ngày. Trong quá trình đổ bộ vào Philippines, siêu bão Rita trở nên suy yếu. Số người chết chính xác do siêu bão Rita cho đến nay vẫn chưa được thống kê đầy đủ.

7. Siêu bão Vanessa - 1984

Vanessa đổ bảo vào đảo Guam, hòn đảo thuộc quyền kiểm soát của Mỹ ở phía Tây Thái Bình Dương với tốc độ gió 109km/giờ. Sau khi vượt qua đảo Guam cơn bão tiếp tục mạnh thêm và đạt tới sức gió 298km/giờ. Siêu bão Vanessa gây nên tổng thiệt hại trị giá 1.700.000 USD trên đảo Guam.

8 . Bão Katrina - 2005

Cơn bão Katrina được đánh giá là một trong những cơn bão gây tổn thất nặng nề nhất từng đổ bộ vào nước Mỹ nhưng vẫn xếp sau cơn bão Wilma. Hình thành trong vùng biển Caribe vào tháng 10 và di chuyển về hướng Tây nam. Bão Wilma đạt sức gió 296km/giờ với áp suất 885hPa. Wilma đổ bộ lần đầu tiên vào khu vực hòn đảo Cozumel ở Mexico và tiếp tục di chuyển sâu vào đất liền. Bão Wilma gây nên thiệt hại nặng nề nhất ở Florida, Mexico và Cuba. Cơn bão đã khiến 62 người thiệt mạng và gây nên tổn thất ước tính trị giá 29 tỷ USD.

Siêu bão Wilma gây nên thiệt hại nặng nề với nước Mỹ

9 . Siêu bão Joan - 1959

Siêu bão Joan xuất hiện từ phía Tây Thái Bình Dương. Ngày 28/8/1959, siêu bão Joan đạt sức gió 314km/giờ. Chỉ một ngày sau, siêu bão Joan đổ bộ vào Đài Loan với sức gió 298km/giờ. Siêu bão di chuyển qua eo biển Formosa trước khi suy yếu và tan rã ở Trung Quốc. Siêu bão Joan gây ra lũ lụt nặng nề, phá hủy 3.308 ngôi nhà và khiến 14 người thiệt mạng.

10 . Siêu bão Irma - 1971

Siêu bão Irma xuất hiện ở phía Tây Thái Bình Dương nhưng không bao giờ có thể đổ bộ vào đất liền. Sức gió mạnh nhất từng được ghi nhận ở mức 290km/giờ vào ngày 11/11. Cơn bão đã gây nên tình trạng giảm áp suất mạnh từ mức 981hPa xuống còn 884hPa chỉ trong vòng một ngày.

11. Siêu bão Megi - 2010

CNN cho biết, bão Megi là một trong những cơn bão lớn nhất hành tinh kể từ năm 2005. Cơn bão đổ bộ vào phía đông bắc Luzon, Philippines, vào năm 2010, với tốc độ 225km/giờ.

Sau khi đổ bộ vào Philippines, bão Megi suy yếu dần, nhưng lại mạnh trở lại trên Biển Đông. Cơn bão hoành hành ở 3 quốc gia là Philippines, Việt Nam và Trung Quốc, ước tính thiệt hại lên đến 693,7 triệu USD.

Megi là siêu bão duy nhất trong năm 2010.

12. Siêu bão Haiyan - 2013

Bão Haiyan đổ bộ vào Philippines vào đầu tháng 11.2013, với sức mạnh đạt 280-285km/giờ. Cơn bão gây thiệt hại về người lớn nhất trong lịch sử Philippines trong khoảng thời gian gần đây, với 6.300 người chết.

Video liên quan

Chủ Đề