Vùng đất Hậu Giang đã được hình thành như thế nào
PHẦN I KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI HẬU GIANG I. SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÙNG ĐẤT, VỊ TRÍ ĐỊA LÝ, ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH QUA CÁC THỜI KỲ. Theo những chứng liệu về khảo cổ và lịch sử, các nhà nghiên cứu đã xác định: tại vùng đất phương Nam, vùng đất được trải qua sự tích tụ lâu đời từ phù sa bồi lắng của các dòng sông, Vương quốc Phù Nam được thành lập từ đầu Công nguyên. Cộng đồng dân cư ở đây đã bắt đầu hình thành và biết tổ chức những hoạt động giao thương rộng rãi với một số khu vực trong vùng biển Đông lúc đó. Văn hoá Óc Eo là đỉnh cao của nền văn hoá cổ trong giai đoạn này, nó được phân bố rộng khắp ở vùng đất phương Nam. Tại Lung Cột Cầu, thuộc ấp Nhơn Nghĩa, xã Nhơn Nghĩa, huyện Châu Thành A là nơi vẫn còn lưu dấu tích. Vùng đất Hậu Giang được hình thành và phát triển trải qua nhiều giai đoạn gay go, nhất là trải qua gần 100 năm bị thực dân Pháp cai trị, bóc lột. Miền đất Hậu Giang lúc đó bao gồm từ hữu ngạn sông Hậu (sông Cái, sông Sau, sông Ba Thắc) qua Tây Nam, theo duyên hải biển Nam Hải và vịnh Xiêm La, bao gồm các hải đảo, có thể thông thương mau chóng bằng đường biển đến Căm–bốt (Campuchia), Thái Lan, Mã Lai (Malaysia), Nam Dương (Myanma). Diện tích khoảng 20.000km2, dân số khoảng 1 triệu người. Cuối thế kỷ XVIII, khi miệt trên (Đồng Nai – Sài Gòn) đã lập xong làng ấp, bộ máy hành chính cai trị cấp phủ, huyện của triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã chính thức được thiết lập từ những năm 1698 thì toàn vùng châu thổ sông Cửu Long vẫn còn là rừng rậm hoang sơ hàng ngàn dặm. Trong vùng đất hoang vu ấy, đã có những lưu dân kéo đến khai khẩn, mở ra một tiến trình lịch sử mới. Trong tiến trình đó, vùng đất Hậu Giang được khai phá có phần muộn màng hơn. Đến năm 1708, khi chúa Nguyễn sắc phong cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên thì dân cư ngày càng đông đúc hơn. Năm 1732, toàn bộ đất phương Nam được chúa Nguyễn phân định làm 3 Dinh và 1 Trấn: Trấn Biên Dinh (vùng Biên Hoà), Phiên Trấn Dinh (vùng Gia Định), Long Hồ Dinh (vùng Vĩnh Long) và Trấn Hà Tiên. Đến khi Mạc Cửu qua đời, con trai ông là Mạc Thiên Tích (còn có tên là Mạc Thiên Tứ) được phong làm Tổng trấn nối nghiệp cha. Đến năm 1793, Mạc Thiên Tích hoàn thành việc khai mở vùng đất hữu ngạn sông Hậu và lập thêm 4 vùng đất mới: Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ) và Trấn Di (Bắc Bạc Liêu) để sáp nhập vào Hà Tiên. Do vị thế quan trọng, Trấn Giang được tập trung chú ý xây dựng và phát triển mọi mặt về quân sự, kinh tế, thương mại, văn hoá… và trở thành một vùng đất có tiềm lực mạnh ở miền Hậu Giang, đặc biệt từ sau cuộc lấn chiếm của quân Xiêm năm 1771. Như vậy, Hậu Giang được hình thành từ năm Kỷ Mùi (1739), là vùng đất thuộc Trấn Giang. Năm 1813, dưới Triều Gia Long thứ 12, chính quyền nhà Nguyễn lập thêm huyện Vĩnh Định (Cần Thơ) thuộc phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), triều đình ban chiếu dụ đổi “trấn” thành “tỉnh” và hình thành nên Lục tỉnh Nam kỳ gồm: Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên (Hậu Giang thuộc An Giang). Ngày 23/2/1876, Soái phủ Sài Gòn ra nghị định tái lập lại hạt Cần Thơ (trong đó có Hậu Giang) trên cơ sở lấy huyện Phong Phú, một phần huyện An Xuyên và Tân Thành, đặt lỵ sở tại thôn Tân An. Năm 1889, Pháp đổi các đơn vị hành chính cấp hạt thành tỉnh. Địa giới hành chính tỉnh Cần Thơ trong thời Pháp không thay đổi, gồm có thị xã Cần Thơ và các huyện: Ô Môn, Châu Thành, Phụng Hiệp, Trà Ôn và Cầu Kè (Hậu Giang ngày nay là vùng Châu Thanh và Phụng Hiệp). Trước khi Pháp xâm lược, giữa Rạch Giá và Cần Thơ là một vùng đất rộng mênh mông, bạt ngàn rừng rậm (tức vùng Giồng Riềng, Vị Thanh, Long Mỹ, Phụng Hiệp ngày nay) gần như chưa được con người lui tới. Quan chủ tỉnh Cần Thơ Ben Noist đã mô tả phần đất này: “Xuồng phải chống trên cỏ, lướt tới như bàn trượt. Dùng sào mà chống, gặp chỗ dày bịt thì cắt cổ. Rạch Cái Cau là nơi tụ họp trâu rừng… Lâu lâu phải cõng nhau để nhìn hướng đi cho rõ. Sậy, đế cao những hai thước. Muỗi bu ào ào… Chống xuồng liên tiếp bốn tiếng đồng hồ mới qua khỏi cánh đồng lúa ma… Choại mọc um tùm, gặp đàn voi trên mười con, phải bắn súng hăm doạ…” (Cần Thơ trước năm 1899 – tài liệu tại Thư viện Cần Thơ) Như vậy, trước 1899, Hậu Giang còn là một vùng đất hoang vu, trừ tỉnh lỵ Cần Thơ và các vùng lân cận như thị xã Ngã Bảy và một phần Phụng Hiệp thuộc Hậu Giang ngày nay thì phần còn lại của Hậu Giang vẫn chưa được khai phá. Từng lúc, lưu dân miệt trên đổ về càng nhiều mà phần lớn là dân nghèo, dân bị áp bức, rời bỏ quê hương ra đi để tìm vùng đất mới sinh nhai lập nghiệp. Nhiều cư dân Cần Thơ cũng muốn mở rộng thêm phần đất của mình nên tiếp tục đi về hướng Nam, hoặc phía giáp vịnh Xiêm La, tức vùng U Minh thượng để khai khẩn. Những nhóm lưu dân khác đi theo hướng biển (cửa sông Cái Lớn, Cái Bé) khẩn hoang vùng đất bạt ngàn thuộc Gò Quao (Kiên Giang) và vùng Long Mỹ (Hậu Giang), Hồng Dân (Bạc Liêu). Lúc này, vùng Hoả Lựu – Vị Thanh còn gắn liền với rừng tràm U Minh. Qua thời gian, với bàn tay và ý chí của con người Việt Nam, với sự cần cù, nhẫn nại cùng với quá trình xâm lược và khai thác, vơ vét kinh tế của thực dân, vùng đất Hậu Giang được khai phá (đào kinh, khai ngòi) đã trở nên mầu mở và trở thành một trong những vựa lúa lớn nhất của đồng bằng sông Cửu Long sau này. Tỉnh Hậu Giang ngày nay là quận Phụng Hiệp và quận Long Mỹ lúc đó. Quận Phụng Hiệp thuộc tỉnh Cần Thơ gồm 3 tổng, 13 làng. Quận Long Mỹ thuộc tỉnh Rạch Giá cũng có 3 tổng với 17 làng. Diện tích của các huyện Châu Thành,Châu Thành A, Phụng Hiệp và thị xã Ngã Bảy ngày nay là của quận Phụng Hiệp; diện tích của các huyện Long Mỹ, Vị Thuỷ và thị xã Vị Thanh là của quận Long Mỹ. Sau Cách mạng tháng Tám và đến hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, để phù hợp với tình hình và địa bàn hoạt động, các huyện trong tỉnh Cần Thơ có nhiều thay đổi: nhiều lần tách nhập với Cầu Kè, Trà Ôn của Vĩnh Long; với Gò Quao, Rạch Giá của Kiên Giang; với Thốt Nốt của An Giang… Khoảng năm 1960, quận Long Mỹ được chính quyền Sài Gòn tách ra thành lập thêm quận mới là Đức Long, cả hai đều trực thuộc tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ). Quận lỵ Đức Long đóng tại Hoả Lựu và tại đây chúng đã xây dựng khu trù mật Vị Thanh – Hoả Lựu. Năm 1963, quận lỵ dời về Vị Thuỷ. Năm 1961, Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh thành lập tỉnh Chương Thiện bao gồm 5 quận: Long Mỹ, Đức Long, Kiến Hưng (Gò Quao của Kiên Giang ngày nay), Kiến Thiện (Hồng Dân của Bạc Liêu ngày nay) và quận Kiến Long (Vĩnh Thuận, Kiên Giang ngày nay). Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tháng 2/1976, Quốc hội nước CHXHCNVN quyết định sáp nhập tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ thành tỉnh Hậu Giang. Ngày 27/12/1991, tại kỳ họp thứ 10, Quốc Hội khoá VIII đã quyết định tách tỉnh Hậu Giang thành hai tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng (Hậu Giang thuộc Cần Thơ). Đến đầu năm 2004, thực hiện Nghị quyết tại kỳ họp lần thứ tư, Quốc hội khoá XI về việc chia tách tỉnh Cần Thơ thành Thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương và tỉnh Hậu Giang, tỉnh Hậu Giang được thành lập bao gồm 6 đơn vị hành chính là: huyện Châu Thành, Châu Thành A, Long Mỹ, Vị Thuỷ, Phụng Hiệp và thị xã Vị Thanh. Đến ngày 01/9/2005 huyện Phụng Hiệp được tách làm hai đơn vị là thị xã Tân Hiệp (nay là thị xã Ngã Bảy) và huyện Phụng Hiệp. Đây cũng là địa giới hành chính của quận Phụng Hiệp và Long Mỹ thời Pháp. Tỉnh lỵ đặt tại thị xã Vị Thanh. Tỉnh chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/2004. Diện tích tự nhiên là 160.772,49 héc –ta. Dân số 766.105 người, hầu hết là người Kinh cùng với khoảng 20.045 người Khmer và 8.859 người Hoa. Sắc thái tôn giáo tại Hậu Giang khá đa dạng, bao gồm 92.023 tín đồ Phật giáo, 36.373 tín đồ Công giáo, 7.890 tín đồ Cao Đài, 6.261 tín đồ Phật giáo Hoà Hảo, 4.800 tín đồ Tịnh độ cư sĩ và 2.014 tín đồ Tin Lành. (Số liệu năm 2005). Cơ cấu kinh tế Hậu Giang chủ yếu là nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ. Каталог: Portal -> Data -> Sites tải về 388 Kb. Chia sẻ với bạn bè của bạn:
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH Vào thế kỷ thứ XVII, ông Mạc Cửu là người Châu Lôi ở tỉnh Quảng Đông - Trung Quốc. Do không thuần phục nhà Thanh nên kéo tùy tùng đến Hà Tiên đầu phục Chúa Nguyễn. Tại đây ông đã chiêu mộ dân phiêu tán khẩn hoang mở vùng đất mới. Chúa Nguyễn Phúc Chu vào năm Mậu Tý (1708) đã sắc phong cho ông làm Tổng binh trấn Hà Tiên và cho ông lập đồn binh ở Phương Thành. Năm 1732, Chúa Nguyễn phân định Nam bộ thành 3 dinh và 1 trấn gồm có: Trấn Biên Dinh thuộc vùng Biên Hòa, Phiên Trấn Dinh thuộc vùng Gia Định, Long Hồ Dinh thuộc vùng Vĩnh Long và 1 trấn là Hà Tiên. Sau khi Mạc Cửu mất, con là Mạc Thiên Tứ tiếp tục sự nghiệp của cha đẩy mạnh công cuộc khai hoang mở đất đến 1739 thì hoàn thành xong việc khai mở và lập thêm 4 đạo là Long Xuyên, Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Bắc Bạc Liêu) và sát nhập các đạo trên vào Hà Tiên. Với vị trí đắc địa Trấn Giang được Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát thuận cho Mạc Thiên Tứ xây dựng thành một thủ sở mạnh ở miền Hậu Giang. Như vậy, đất Cần Thơ được khai mở với tên là Trấn Giang từ năm 1739. Đối với thực dân Pháp và ngụy quyền Sài Gòn thì Cần Thơ có nhiều thay đổi địa giới hành chính như: Ngày 23 tháng 2 năm 1876, Soái phủ Sài Gòn ra Nghị định lấy huyện Phong Phú cùng một phần huyện An Xuyên và Tân Thành lập hạt Cần Thơ với thủ phủ là Cần Thơ đặt tại làng Tân An. Đến năm 1954, Cần Thơ bao gồm huyện Châu Thành, Ô Môn, Phụng Hiệp, Trà Ôn, Cầu Kè. Năm 1956, Ngô Đình Diệm đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh. Năm 1961, tách một phần Long Mỹ, Vị Thanh thành lập tỉnh Chương Thiện. Chính quyền Cách Mạng trong kháng chiến chống Pháp vào hai năm 1948- 1949 điều chỉnh địa giới hành chính: Cần Thơ nhận thêm Thốt Nốt của Long Xuyên, Long Mỹ, Gò Quao, Giồng Riềng, thị xã Rạch Giá của tỉnh Rach Giá. Đồng thời Cần Thơ trả lại 2 huyện Cầu Kè và Trà Ôn cho Vĩnh Long và Trà Vinh. Tên gọi là tỉnh Cần Thơ. Tháng 11 năm 1954 chuyển Long Mỹ, Giồng Riềng, Gò Quao, thị xã Rạch Giá về tỉnh Rạch Giá. Trả huyện Kế Sách về tỉnh Sóc Trăng, Thốt Nốt về Long Xuyên. Năm 1957 nhận lại huyện Thốt Nốt, năm 1966 thành lập thị xã Vị Thanh thuộc tỉnh Cần Thơ. Năm 1969 tách thị xã Cần Thơ ra khỏi tỉnh Cần Thơ trực thuộc Khu Tây Nam Bộ, năm 1971 thị xã Cần Thơ trực thuộc tỉnh Cần Thơ. Năm 1972, thị xã Cần Thơ trở thành thành phố Cần Thơ trực thuộc Khu Tây Nam Bộ. Thống nhất đất nước, Nghị định số 03/NĐ-76 ngày 24 tháng 3 năm 1976 của Chính phủ về việc sáp nhập tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ thành tỉnh Hậu Giang. Tháng 12 năm 1991, Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 10 ra Nghị quyết tách Hậu Giang thành 2 tỉnh- tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Kỳ họp thứ 4 của Quốc Hội khóa XI ra Nghị quyết số 22/2003/QH ngày 26 tháng 11 năm 2003 và Nghị định số 05 của Chính phủ ngày 02/01/2004 tách tỉnh Cần Thơ trở thành thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương và lập tỉnh Hậu Giang. Chính phủ đã ban hành Quyết định số 889-QĐ/TTg ngày 24/6/2009 công nhận thành phố Cần Thơ là đô thị loại 1 trực thuộc Trung ương. THÀNH PHỐ CẦN THƠ NGÀY NAY Thành phố Cần Thơ là thành phố trẻ được thành lập sau so với các thành phố khác của cả nước. Tuy nhiên Cần Thơ có lịch sử hình thành và phát triển trên 130 năm, thời Pháp đô hộ đã thành lập những đồn điền, cơ sở công nghiệp, chợ, có bệnh viện, có trường College de Cần Thơ (nay là trường Châu Văn Liêm) tồn tại gần 100 năm. Là nơi hội tụ những danh nhân yêu nước như Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị, Châu Văn Liêm. Bên cạnh đó, Cần Thơ có vị trí chiến lược kinh tế cũng như quân sự của vùng, đầu mối giao thông thủy bộ của Đồng bằng Tây Nam Bộ nằm ở trung tâm vùng ĐBSCL. Cần Thơ là 1 trong 5 đô thị loại l của Trung ương, có cảng quốc tế và sân bay Cần Thơ đang được mở rộng để thành cảng hàng không quốc tế, cầu Cần Thơ đã khánh thành và đi vào hoạt động. Có các công trình kiến trúc cổ như bến Ninh Kiều, Chợ cổ Cần Thơ, Ngân hàng nhà nước. Hệ thống hạ tầng kinh tế kỹ thuật phong phú như cảng Cần Thơ có thể tiếp nhận tàu 10.000 tấn, cảng biển Cúi Cui có thể tiếp nhận tàu 20.000 DWT với công suất hàng hóa thông qua cảng khoảng trên 4-5 triệu tấn/năm, cảng hàng không quốc tế Cần Thơ đã chính thức hoạt động vào cuối năm 2008 với các tuyến bay nội địa và các tuyến bay quốc tế hoạt động vào cuối năm 2010. Nhà máy nhiệt điện Trà Nóc có công suất 200 MW và đang xây dựng Trung tâm điện lực Ô Môn với công suất 2.800 MW, hiện nay đã có 01 tổ máy công suất 330MW đã hòa vào lưới điện quốc gia phục vụ cho vùng ĐBSCL và cả nước. Hai nhà máy cấp nước sạch có công suất 90.000 m3/ngày đêm, dự kiến đến năm 2010 xây thêm các nhà máy cung cấp nước sạch với công suất 150.000 m3/ngày đêm đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu cho thành phố. Cầu Cần Thơ bắt qua sông Hậu hoàn thành và đưa vào sử dụng ngày 24 tháng 4 năm 2010, nối liền trục giao thông bộ quan trọng giữa thành phố Cần Thơ, thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh vùng ĐBSCL và cả nước; hệ thống bưu chính viễn thông hiện đại, đủ điều kiện cung cấp thông tin liên lạc giữa thành phố Cần Thơ với cả nước và các nước trên thế giới Công nghiệp: Công nghiệp là thế mạnh quan trọng của thành phố Cần Thơ, đang được đầu tư phát triển với nhiều ngành nghề và đa dạng sản phẩm. Một số lĩnh vực sản xuất công nghiệp được đầu tư phát triển mạnh như: chế biến thủy hải sản, xay xát chế biến gạo, phân bón, thuốc sát trùng, thuốc thú y - thủy sản dùng trong nông nghiệp, bia, tân dược, vật liệu xây dựng, sản xuất và phân phối điện,... Việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất ngày càng được chú trọng và có xu hướng phát triển. Xác định ngành công nghiệp là đầu tàu phát triển công nghiệp hóa của thành phố từ nay đến năm 2020, thành phố tập trung phát triển công nghiệp sản xuất hàng tư liệu phục vụ sản xuất nông ngư nghiệp; chế biến tinh nông thủy sản sau thu hoạch của thành phố và các tỉnh lân cận; sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu của thành phố và trong vùng; phát triển mạnh các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu dựa trên các lợi thế cạnh tranh. Các ngành công nghiệp mũi nhọn là chế biến lương thực - thực phẩm và đồ uống, năng lượng, cơ khí và chế tạo máy móc thiết bị, hóa chất và các sản phẩm từ hóa sinh, sinh học, điện và điện tử, tin học và vật liệu mới. Nông nghiệp: Thành phố Cần Thơ có diện tích nông nghiệp khoảng 115.000 ha, được sử dụng để trồng lúa, hoa màu và các loại cây ăn quả. Hàng năm có thể sản xuất trên 1 triệu tấn lúa, chế biến xuất khẩu từ 500.000-600.000 tấn gạo đặc sản xuất khẩu; cây ăn quả đa dạng, phong phú với sản lượng trên 100.000 tấn, thủy sản 200.000 tấn (chủ yếu là cá da trơn) và thịt gia súc gia cầm khoảng 20.000 tấn. Thành phố đang đẩy mạnh phát triển theo hướng sản xuất tập trung, ứng dụng công nghệ - kỹ thuật cao và hình thành các vùng sản xuất hàng hóa lớn, chất lượng và hiệu quả cao với mô hình đa canh bền vững; gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ; gắn với quản lý sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên và giảm nhẹ ô nhiễm môi trường. Đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng thâm canh và đa dạng hóa đất lúa, phát triển mạnh kinh tế vườn kết hợp nuôi thủy sản và du lịch vườn; xây dựng vùng chuyên canh rau màu an toàn, sạch phục vụ đô thị; xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ - kỹ thuật cao; phát triển mạnh các loại hình dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp và hoa kiểng cho nhu cầu đô thị và du lịch. Phát triển mạnh thuỷ sản với các loại hình nuôi bán công nghiệp, công nghiệp; nuôi luân canh lúa - thủy sản. Thương mại - du lịch: Thành phố Cần Thơ có hệ thống ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán hoạt động hiệu quả và ngày càng mở rộng, có 46 tổ chức tín dụng với 194 địa điểm giao dịch ngân hàng, 10 tổ chức bảo hiểm, công ty cho thuê tài chính có uy tín trong và ngoài nước, 330 khách sạn, 6 làng du lịch, trong đó có 35 khách sạn từ 1 đến 4 sao, cơ bản đáp ứng được nhu cầu ăn nghỉ của mọi đối tượng khách đến Cần Thơ, kể cả trong những dịp lễ hội, sự kiện lớn của thành phố. Thành phố Cần Thơ có trên 120 doanh nghiệp đang kinh doanh xuất nhập khẩu, có quan hệ giao thương với hơn 90 quốc gia trên Thế giới. Các mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của Cần Thơ là thủy – hải sản chế biến (tôm, các các loại), gạo, trái cây, rau quả, giày, dép da, may mặc, và hàng thủ công mỹ nghệ; các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là các loại máy móc thiết bị, hàng tiêu dùng và nguyên liệu phục vụ sản xuất, xăng dầu, phân bón, hóa chất, nguyên liệu dược, nông dược. Thành phố đang đẩy mạnh phát triển thương mại - dịch vụ để thành phố trở thành trung tâm thương mại - dịch vụ của vùng ĐBSCL; gắn thị trường Cần Thơ với thị trường các tỉnh vùng ĐBSCL, các thành phố lớn, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, cả nước và các nước trong khu vực; thực hiện chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng thị trường trong nước đi đôi với hội nhập quốc tế. Phát triển thương mại với sự tham gia của các thành phần kinh tế. Khuyến khích phát triển kinh doanh thương mại, dịch vụ ở ngoại thành gắn với quy hoạch các khu dân cư mới, phát triển giao thông, nhằm thúc đẩy phát triển ngành nghề, phân công lại lao động. Phát triển du lịch đặt trọng tâm vào hoạt động lữ hành, thu hút khách du lịch vào các khu du lịch sinh thái, du khảo văn hóa, hội thảo - hội nghị tại thành phố và các tỉnh lân cận. Phát triển các tour du lịch liên vùng và du lịch quốc tế song phương và đa phương. Tập trung tôn tạo, tu bổ và bảo tồn các điểm di tích lịch sử, văn hóa, các điểm du lịch hiện có, mở thêm các tuyến - điểm mới, nâng cấp và mở rộng các cơ sở vật chất của ngành du lịch, đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, các loại hình dịch vụ, liên kết với các tỉnh trong vùng xây dựng phát triển các điểm du lịch vệ tinh, xây dựng các sự kiện, lễ hội du lịch cho Cần Thơ và ĐBSCL. Mặt khác, tổ chức các tour du lịch công vụ, hội thi thể thao cấp vùng, xây dựng các chương trình du lịch trong và ngoài nước; đồng thời xây dựng đội ngũ nhân viên lành nghề, chiến lược sản phẩm du lịch và chương trình xúc tiến du lịch dài hạn. Khoa học công nghệ: Thành phố có hệ thống các trường Đại học, Cao đẳng, các trường đào tạo kỹ thuật, Trung tâm công nghệ phần mềm, Viện nghiên cứu lúa ĐBSCL và các cơ sở nghiên cứu khoa học khác, đã trở thành trung tâm khoa học kỹ thuật của vùng ĐBSCL, hàng năm đào tạo trên 26.000 cán bộ khoa học kỹ thuật và lao động chuyên nghiệp phục vụ cho thành phố Cần Thơ và vùng ĐBSCL. Các Khu công nghiệp thành phố Cần Thơ: Thành phố hiện có 02 khu công nghiệp tập trung là khu công nghiệp Trà Nóc (Trà Nóc I, II) có diện tích 300 ha và khu công nghiệp Hưng Phú (Hưng Phú I, Hưng Phú II) diện tích 474 ha. Hiện nay, thành phố đang lập quy hoạch chi tiết cho 03 khu công nghiệp đã được thủ tướng Chính phủ chấp thuận là khu công nghiệp Thốt Nốt 600 ha, khu công nghiệp Ô Môn 600 ha và khu công nghiệp Bắc Ô Môn 400 ha. Thành phố đang tăng cường vận động đầu tư; xây dựng hoàn chỉnh các khu công nghiệp của thành phố, các trung tâm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; vận động các tỉnh trong vùng ĐBSCL hình thành các “cụm công nghiệp đồng đầu tư”, hình thành Khu công nghệ cao; xây dựng và quảng bá các thương hiệu mạnh, thực hiện các cơ chế chính sách và cải thiện môi trường đầu tư./. Nguồn: Cần Thơ 35 năm phát triển và hội nhập https://www.cantho.gov.vn |