Vòng bụng bao nhiêu là nguy hiểm?

Cục trưởng Cục Quản lý khám chữa bệnh Lương Ngọc Khuê cho biết, hiện nay, 5/10 người mắc ĐTĐ không biết mình mắc bệnh (khoảng 1,8 triệu dân). Dưới 1/10 người mắc ĐTĐ không đạt được các mục tiêu điều trị. Mới chỉ có 31,1% người ĐTĐ (nhóm 18-69 tuổi) được chẩn đoán. ĐTĐ được quản lý tại cơ sở y tế mới chỉ đạt 28,9%.

Nhiều người đang sống với bệnh ĐTĐ type 2 trong một thời gian dài mà không nhận biết được tình trạng bệnh của mình, đến khi được chẩn đoán, thường đã kèm theo các biến chứng của bệnh. Trong số các trường hợp được chẩn đoán tiền ĐTĐ, thì 1/3 diễn tiến bình thường, 1/3 sẽ vẫn duy trì ở trạng thái tiền ĐTĐ và 1/3 trở thành ĐTĐ type 2.

Ông Khuê nhận định, đây thực sự là khoảng trống lớn về sự chênh lệch giữa nhu cầu và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và “ĐTĐ có thể được coi là đại dịch có nguy cơ gây ra gánh nặng bệnh tật gấp 20-40 lần so với những bệnh lây nhiễm khác”.

ĐTĐ là nguyên nhân hàng đầu gây ra mù lòa, suy thận, gây cụt chi chỉ sau tai nạn giao thông, nhồi máu cơ tim, đột quỵ, bất lực, rối loạn nhận thức, giảm tuổi thọ và ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng cuộc sống.

Theo ước tính, số người trưởng thành tử vong toàn cầu liên quan tới ĐTĐ là 5 triệu, trong khi số tử vong do HIV/AIDS chỉ 1,1 triệu, do bệnh lao là 1,4 triệu và do sốt rét là 438.000.

Những người có nguy cơ mắc ĐTĐ

Để tăng cường chẩn đoán, điều trị, quản lý ĐTĐ, giảm khoảng trống điều trị bệnh… việc xây dựng tài liệu hướng dẫn chẩn đoán, điều trị chuẩn mực cho người hành nghề khám, chữa bệnh ở tất cả các tuyến, các cơ sở khám, chữa bệnh là quan trọng.

Trong tài liệu hướng dẫn chuyên môn mới được cập nhật về ĐTĐ type 2 này, các chuyên gia đã đưa ra hướng dẫn và quy trình lâm sàng về chẩn đoán, điều trị ĐTĐ type 2, bao gồm: Phát hiện và chẩn đoán ĐTĐ thai kỳ, thực hiện xét nghiệm chẩn đoán ĐTĐ ở người chưa có triệu chứng ĐTĐ, nội dung đánh giá toàn diện bệnh nhân ĐTĐ cần thực hiện trước khi điều trị cho người bệnh, mục tiêu điều trị cần đạt được…

Tài liệu cũng đưa ra tiêu chuẩn để làm xét nghiệm chẩn đoán ĐTĐ, hoặc tiền ĐTĐ ở người không có triệu chứng của bệnh, đó là: Người lớn có chỉ số BMI từ 23 trở lên hoặc cân nặng lớn hơn 120% cân nặng lý tưởng và có một hoặc nhiều hơn một trong các yếu tố sau:

Ít vận động thể lực. Vòng bụng to: Nam từ 90 cm và nữ từ 80 cm. Gia đình có người bị ĐTĐ ở thế hệ cận kề (bố, mẹ, anh chị em ruột).

Tăng huyết áp. Nồng độ HDL cholesterol dưới 35 mg/(0,9 mmol/L) hoặc nồng độ triglyceride lớn hơn 250 mg/dL (2,82 mmol/L). HbA1c từ 5,7% trở lên (39 mmol/mol), rối loạn glucose huyết đói, hay rối loạn dung nạp glucose ở lần xét nghiệm trước đó.

Phụ nữ bị buồng trứng đa nang. Phụ nữ đã mắc bệnh ĐTĐ thai kỳ.

Có các dấu hiệu đề kháng insulin trên lâm sàng (như béo phì…). Tiền sử bệnh tim mạch do xơ vữa động mạch.

Còn với các đối tượng khác không có các yếu tố nguy cơ trên thường được khuyến khích kiểm tra sức khỏe, phát hiện ĐTĐ sớm khi từ 45 tuổi trở lên và nên lặp lại xét nghiệm sau mỗi 1-3 năm.  

Bác sĩ Lâm Vĩnh Niên, Trưởng Khoa Dinh dưỡng - Tiết chế, Bệnh viện Đại học Y dược TP HCM, cho biết mỡ bụng có hai loại gồm mỡ dưới da và mỡ nội tạng. Trong đó, mỡ nội tạng là mô mỡ bao quanh các tạng bên trong cơ thể, gây ảnh hưởng đến sức khỏe.

Theo bác sĩ, để xác định chính xác lượng mỡ nội tạng cần các kỹ thuật tương đối tốn kém như chụp CT hoặc MRI. Trên thực tế chỉ số vòng eo cũng có thể phản ánh tình trạng béo bụng. Tiêu chuẩn để chẩn đoán béo bụng đối với người châu Á là vòng eo ở nam trên 90 cm, ở nữ trên 80 cm.

Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Trọng Hưng, Trưởng khoa khám tư vấn dinh dưỡng người lớn, Viện Dinh dưỡng Quốc gia, cho biết có rất nhiều nguyên nhân gây béo bụng. Thông thường nguyên nhân chủ yếu do ít vận động, ngồi nhiều; người có thói quen ăn tối muộn hoặc ăn đêm.

Ăn nhiều đồ chiên, rán nhưng lười ăn rau, không uống đủ nước hoặc lạm dụng rượu bia... khiến năng lượng và mỡ không được đốt cháy mà tích tụ lại thành mỡ thừa. Ngoài ra, sự thay đổi nội tiết tố khi đến tuổi dậy thì hoặc thời kỳ tiền mãn kinh, mãn kinh cũng dẫn đến béo bụng.

Người có vòng bụng càng to, càng tích tụ nhiều mỡ có thể dẫn đến gan nhiễm mỡ, nếu kéo dài có thể gây xơ gan, ung thư gan... Người béo bụng còn dễ mắc tim mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường type 2 do dư thừa chất béo. Ngoài ra, mỡ bụng càng tăng thì nội tiết tố trong cơ thể càng dễ bị rối loạn gây mất ngủ, dễ cáu gắt, da nổi mụn, xỉn màu da, thay đổi chu kỳ kinh nguyệt, suy giảm chức năng sinh lý ở nam giới, tăng nguy cơ ung thư...

Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy mức độ nguy hiểm của béo bụng đối với sức khỏe con người.

Nghiên cứu từ một triệu phụ nữ Anh chứng minh nguy cơ mắc bệnh tim tăng gấp đôi ở những phụ nữ có vòng eo lớn. Cứ tăng thêm 2,5 cm vòng eo thì nguy cơ mắc bệnh tim mạch tăng thêm 10%.

Nghiên cứu khác trên 3.000 phụ nữ tiền mãn kinh và mãn kinh ở Mumbai, Ấn Độ, cho thấy người có vòng eo to gần bằng vòng hông nguy cơ ung thư vú cao gấp ba đến bốn lần so với phụ nữ cân nặng bình thường.

Vòng bụng lớn còn làm tăng nguy cơ sa sút trí tuệ ở phụ nữ, ngay cả khi họ cân nặng bình thường. Theo kết quả nghiên cứu hơn 350.000 đàn ông và phụ nữ châu Âu, béo bụng còn làm tăng gấp đôi nguy cơ tử vong sớm ngay cả khi trọng lượng cơ thể bình thường.

Vòng bụng bao nhiêu là nguy hiểm?

Béo bụng thường gặp ở phụ nữ sau sinh hoặc nam giới thường xuyên uống rượu, bia lười vận động. Ảnh: Prima

Bác sĩ khuyến cáo, để phòng ngừa béo bụng mỗi người cần chú ý kiểm soát cân nặng, bởi thừa cân béo phì đều là nguyên nhân hàng đầu gây béo bụng. Hạn chế ăn vặt hoặc bữa phụ, trừ khi có chỉ định của bác sĩ, để tránh không kiểm soát được năng lượng ăn vào.

Ăn đủ rau xanh và hoa quả chín theo khuyến nghị. Ăn đa dạng thực phẩm, cân đối ba chất sinh năng lượng (chất đạm, chất béo và chất bột đường)

Ăn thực phẩm chứa nhiều chất xơ như gạo xay xát dối, gạo lứt, gạo lật nảy mầm, bánh mì nâu... Tránh các loại thức ăn nhiều chứa nhiều dầu mỡ như thịt nhiều mỡ, lạc vừng, hạt hướng dương. Hạn chế đồ ngọt, nước ngọt đóng chai và thức ăn nhanh.

Uống đủ nước mỗi ngày, không lạm dụng rượu, bia. Hạn chế ăn khuya. Ngủ sớm, đủ giấc để không bị đói bụng giữa chừng.

Không ngồi một chỗ quá lâu. Ngồi thẳng lưng để phần mỡ không dồn về bụng gây béo bụng. Tập thể dục 30 đến 60 phút mỗi ngày hoặc tranh thủ mọi thời gian để vận động giúp tiêu hao năng lượng, giảm mỡ.