Chứng minh phương pháp dạy học lịch sử là một khoa học

Sau hơn hai tháng công bố Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, vào ngày 16.10 trong văn bản phản hồi các ý kiến đóng góp cho Dự thảo, Bộ Giáo dục và đào tạo tái khẳng định lịch sử là môn “tự chọn” tại trường phổ thông. Trước những động thái này dư luận đã phản ứng gay gắt, đặc biệt là những giáo viên dạy sử.

Trong bối cảnh chủ quyền đất nước bị xâm phạm, sự xuất hiện những ý kiến trên và sự đồng cảm theo sau là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, “bắt buộc” có phải là giải pháp tối ưu để làm cho học sinh yêu môn lịch sử? Tôi nghĩ là không! Học sinh sẽ vẫn chán học sử và vị thế của môn lịch sử trong mắt học sinh, công chúng thậm chí cả giáo viên vẫn thế chừng nào không có cải cách thực sự để trở thành một môn khoa học.


Học lịch sử địa phương tại một trường chuyên ở miền Tây: học sinh tới bảo tàng, thực địa ghi chép, tìm hiểu câu chuyện thay vì đóng khung trong bốn bức tường lớp học. Ảnh T.Dũng

Học sử để làm gì?

Đây là câu hỏi hiển nhiên đến độ việc đặt lại câu hỏi đó giống như là ngớ ngẩn. Tuy nhiên, theo quan sát của tôi thì sự sa sút của giáo dục lịch sử trong mấy chục năm qua có quan hệ mật thiết với vấn đề này.

Thông thường, khi biện luận cho vai trò, chức năng của môn lịch sử người ta thường viện dẫn tác dụng của nó trong việc giáo dục lòng yêu nước, giữ gìn truyền thống dân tộc, rút ra bài học kinh nghiệm trong quá khứ... Đó là cách biện giải không bao giờ sai, nhưng chưa đủ. Trong bối cảnh xã hội của nửa đầu thế kỷ XX khi vấn đề độc lập của các dân tộc đang là “câu chuyện lớn”, cách nhận thức và lý giải đó có sức hấp dẫn phi thường. Tuy nhiên, từ khi quá trình toàn cầu hóa và đa giá trị hóa trên thế giới diễn ra mạnh mẽ, cùng với sự chuyển hướng của giới sử học sang nghiên cứu lịch sử xã hội, ý nghĩa của giáo dục lịch sử trong nhà trường đã được diễn giải ở phương diện khác. Ở đó, vai trò ý nghĩa của nó được thể hiện trong sự “có ích” trực tiếp và trước hết đối với mỗi cá nhân học sinh.

Mỗi học sinh là một thành viên của xã hội. Để sống tốt trong xã hội đó, đương nhiên mỗi học sinh phải nhận thức và lý giải được hiện thực xã hội mà mình đang sống. Hiện thực ấy là một thứ có tính lịch sử. Hay nói cách khác, tất cả những hiện tượng, vấn đề trong xã hội mà con người học sinh đang phải đối mặt hàng ngày chính là kết quả của sự phát sinh, phát triển từ trong quá khứ. Do đó muốn hiểu rõ thực tại, con người cần tới tư duy và phương pháp sử học để khám phá quá khứ trong mối liên hệ với thực tại, phục vụ quá trình nhận thức, lý giải thực tại. Môn lịch sử trong trường phổ thông chính là môn khoa học giúp học sinh có được tư duy và phương pháp đó.

Tư liệu và phương pháp học sử

Có thể nói nhược điểm lớn nhất làm yếu đi tính khoa học của môn lịch sử trong nhà trường phổ thông hiện tại là lối giáo dục kiểu “minh họa”. Nghĩa là trong quá trình học tập, học sinh rất ít có cơ hội tiếp cận tư liệu đặc biệt là tư liệu gốc - thứ có ý nghĩa sống còn tạo nên tính khoa học của nhận thức. Ở những nước có nền giáo dục tiên tiến, sách giáo khoa lịch sử giống như một tập hợp về tư liệu lịch sử mà chủ yếu là tư liệu gốc bao gồm tư liệu chữ viết, tư liệu ảnh chụp các hiện vật, di tích lịch sử... với độ chính xác cao. Nhược điểm của sách giáo khoa lịch sử Việt Nam là thiếu vắng tư liệu gốc, các tranh ảnh đưa vào chủ yếu là để “minh họa” cho bài viết. Giữa bài viết và các tranh ảnh, hiện vật đưa ra có một sự thống nhất “hoàn hảo”. Ở đó không hề tồn tại các “khe hở” hay gợi ý có chủ định để người học hình thành nghi vấn từ đó tái khám phá lịch sử thông qua đầu mối là các tư liệu được cung cấp.

Các giờ học lịch sử ở một số trường lớn gần đây đã có cải thiện bằng cách đưa vào nhiều tranh ảnh, phần mềm, hoạt động học tập của học sinh... nhưng xét cho cùng điểm chung nhất giữa chúng vẫn là sự chi phối của tư duy “dạy học minh họa”. Người giáo viên bằng mọi cách làm cho học sinh ghi nhớ và lý giải được các sự kiện và quan điểm đánh giá định sẵn. Trong mô thức giờ học này, các kết luận dường như đến trước thay vì dẫn học sinh vào thế giới của lịch sử bằng các tư liệu. Nói khác đi, các tư liệu ở đây đã được giáo viên dùng minh họa cho các sự kiện để chúng trở nên “sinh động”, “hấp dẫn” thay vì là điểm xuất phát của nhận thức về quá khứ.

Lối dạy học minh họa mang nặng tính áp đặt như trên là hệ quả của việc cho rằng mối quan hệ giữa sử học và giáo dục lịch sử là mối quan hệ về nội dung. Ở đó, giáo dục lịch sử phải truyền đạt các thành tựu nghiên cứu của sử học và cập nhật chúng. Trên thực tế, mối quan hệ giữa sử học và giáo dục lịch sử còn thể hiện ở cả phương diện phương pháp. Nghĩa là giáo dục lịch sử sẽ sử dụng một cách tích cực các phương pháp của sử học. Nhờ đó, quá trình học tập của học sinh cũng sẽ giống quá trình tác nghiệp của nhà sử học. Sản phẩm nhận thức của quá trình đó sẽ khoa học, thực chứng, khách quan và tiệm cận sự thật hơn.

“The history” hay “a history”?

Với lối dạy học “minh họa” đã nói, người giáo viên có xu hướng coi kết quả của quá trình học tập lịch sử ở học sinh là các tri thức “chuẩn” giống như giáo viên mong đợi và đã trình bày. Nói khác đi, nhận thức học sinh về lịch sử được thể hiện ra trong các bài kiểm tra hay phát biểu là một dạng “bản sao” nhận thức của giáo viên - thứ được quyết định chủ yếu bởi chương trình và sách giáo khoa. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi có sự giống nhau đáng kể trong vở ghi, các bài kiểm tra của học sinh ở nhiều địa phương khác nhau.


Việc cố minh họa và nhồi nhét một nhận thức lịch sử duy nhất sẽ dẫn đến hậu quả bộ nhớ của học sinh bị... đầy và rối loạn. Ảnh minh hoạ: Tiền Phong

Thứ lịch sử mà người giáo viên tạo ra trong đầu học sinh với các sự kiện lịch sử và quan điểm lịch sử được định trước như thế là “lịch sử có tính tuyệt đối” [the history]. Thực tế, điều này là bất khả. Nhận thức lịch sử là quá trình không thể diễn ra trực tiếp mà phải thông qua tư liệu. Mỗi học sinh là một thực thể riêng với các trải nghiệm, giá trị quan... khác nhau. Vì vậy, cùng một phương pháp tiếp cận, một tư liệu, một không gian lớp học, một giáo viên nhưng nhận thức thu được sẽ khác nhau và rất phong phú. Nhận thức lịch sử phong phú có tính chủ thể đó là một thứ “lịch sử có tính tương đối” [a history]. Trong các nhận thức lịch sử tương đối phong phú mang tính chủ thể này sẽ có những nhận thức có tính thực chứng, lôgic, khách quan. Dưới sự chỉ đạo, trợ giúp của giáo viên và quá trình cọ xát, tranh luận giữa các học sinh, những nhận thức ưu tú nhất, khoa học nhất sẽ được thừa nhận và có ảnh hưởng rộng. Cũng giống như giả thuyết nào thuyết phục nhất của nhà sử học trong số các giả thuyết cùng tồn tại trước cùng một sự kiện, hiện tượng lịch sử sẽ được công nhận rộng rãi. Quá trình học tập lịch sử ở trường học hiện đại phải là quá trình người giáo viên tôn trọng, khuyến khích và phát triển “a history” dựa trên tư liệu và phương pháp sử học thay vì cố gắng nhồi nhét “the history”.

Việc cố minh họa và nhồi nhét một nhận thức lịch sử duy nhất sẽ dẫn đến hậu quả bộ nhớ của học sinh bị... đầy và rối loạn. Hiện tượng học sinh chán học lịch sử và nhầm lẫn sự kiện, nhân vật là biểu hiện cụ thể của hậu quả đó. Trước quyền uy của người thầy, những nhận thức đa dạng của học sinh buộc phải ẩn đi trong các bài kiểm tra hoặc các lời phát biểu trên lớp nhưng nó không hề mất đi mà sẽ thể hiện ở các dạng khác, không gian khác. Điều này lý giải tại sao có rất nhiều học sinh chán học môn sử nhưng lại có mối quan tâm tới lịch sử. Mâu thuẫn này làm lãng phí tiềm năng trí tuệ của tuổi trẻ và cơ hội rèn luyện nó. Sẽ không tưởng nếu chúng ta mong muốn có những công dân ưu tú có tinh thần trách nhiệm và khát vọng cải tạo hiện thực mạnh mẽ nếu ở học sinh không có nhận thức lịch sử khoa học và đa dạng. Thừa nhận và khuyến khích sự đa dạng của nhận thức lịch sử còn có tác dụng lớn trong việc nuôi dưỡng tinh thần khoan dung. Những người tin rằng nhận thức lịch sử có tính đúng đắn duy nhất và tuyệt đối thường có xu hướng cực đoan trong tư tưởng và hành động. Điều này có hại cho quá trình xây dựng quốc gia - xã hội hòa bình, dân chủ và văn minh.

Hiện nay, trên thế giới cho dù tồn tại nhiều trường phái sử học nhưng phần lớn các nhà sử học đều thống nhất rằng sử học và giáo dục lịch sử chỉ thực sự có ích cho đời sống mỗi cá nhân và sự tiến bộ của cộng đồng khi nó giúp con người tiệm cận sự thật. Trong trường học, muốn làm được điều đó, lịch sử phải trở thành môn khoa học giống như các môn học khác như toán học, hóa học, sinh học... Nghĩa là ở đó, mục tiêu của nó phải được minh định rõ ràng và học sinh phải được học tập bằng các phương pháp khoa học, dựa trên tư liệu thực chứng.

[Theo Nguyễn Quốc Vương/ Người Đô Thị]

* Tác giả bài viết là nghiên cứu sinh chuyên ngành giáo dục lịch sử tại Đại học Kanazawa [Nhật Bản]

Xem thêm:

"Lịch sử phải là môn học bắt buộc, độc lập"

Thực hư chuyện môn Lịch sử "biến mất" trong trường học

Học sinh Nhật Bản học gì trong môn Lịch sử?

450 triệu đồng cho cuộc thi tìm hiểu lịch sử Việt Nam


Vào đầu mỗi năm học, tôi hỏi học sinh của mình, “Tại sao chúng ta học lịch sử?” Câu trả lời thường là “Để chúng ta không lặp lại những sai lầm trong quá khứ.” “ Để hiểu được sự phức tạp về đạo đức, chính trị và xã hội của các sự kiện lịch sử từ đó đưa ra quyết định tốt hơn trong hiện tại”… Nhưng làm thế nào để chúng ta có thể gắn kết việc học tập lịch sử với cuộc sống hiện tại và thể hiện nó trong lớp học? Đó là một vấn đề khá khó. Chính vì vậy, tôi đã biến việc học tập lịch sử thành quá trình nghiên cứu khoa học. Điều này sẽ giúp cải thiện chất lượng học tập cũng như lôi cuốn sự tham gia của học sinh.

TẠO CƠ HỘI CHO VIỆC QUAN SÁT

Cũng giống như trong các lớp học môn khoa học, bước đầu tiên trong quá trình nghiên cứu là quan sát. Học sinh được quan sát về thế giới tự nhiên. Đối với môn Lịch sử, các sự kiện đã xảy ra, không còn tồn tại, nên việc quan sát gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, giáo viên có thể thu hút sự tò mò của học sinh về thế giới con người thông qua việc quan sát, tìm hiểu về các sự kiện, nhân vật dựa vào các nguồn tư liệu. Giáo viên có thể sử dụng một vấn đề đương đại – diễn ra trong cuộc sống hiện đại để liên hệ với nội dung bài học, tìm ra sự kết nối về nội dung với bài học. Giáo viên cũng có thể sử dụng nhiều tài liệu khác như video clip hoặc hình ảnh để học sinh được “nhìn” “quan sát” trước khi bắt đầu với việc đọc tư liệu.

Khi học sinh học về một nội dung lịch sử, giáo viên yêu cầu học sinh viết ra các câu hỏi và quan sát để thu hút sự tò mò về nguồn gốc lịch sử của vấn đề đó.

ĐƯA RA GIẢ THUYẾT

Chúng ta thường nghĩ từ giả thuyết chỉ được sử dụng trong các môn khoa học, nhưng trong quá trình nghiên cứu các nhà sử học cũng đưa ra dự đoán. Thay vì bắt đầu một bài học lịch sử với một luận điểm, hãy bắt đầu một hoạt động nghiên cứu với một giả thuyết lịch sử.

Sau khi đặt ra câu hỏi nghiên cứu, mỗi học sinh sẽ tự viết giả thuyết cá nhân của mình. Ví dụ về lý do vì sao Tự Đức ký hiệp ước Nhâm Tuất [1862], mỗi học sinh có thể có một giả thuyết riêng. Đó có thể là do sự “sợ hãi” của nhà vua. Có thể là do sự “tư vấn” của triều thần. Cũng có thể là do nhà vua nhận ra không thể thắng người Pháp. Cũng có thể đó là sách lược “hòa hoãn” để chờ cơ hội chuộc đất… Bước tiếp theo học sinh sẽ phải làm là đi tìm các tư liệu hoặc khai thác các tư liệu để kiểm chứng giả thuyết của mình.

SƯU TẦM VÀ XỬ LÝ TƯ LIỆU

Khi các giả thuyết được phát triển, học sinh thu thập một loạt các tư liệu gốc và tư liệu thứ cấp làm bằng chứng chứng minh cho giả thuyết. Bằng chứng định lượng bao gồm các con số, thường ở dạng đồ thị, mốc thời gian và biểu đồ,… Bằng chứng định tính bao gồm các văn bản hoặc hình ảnh mô tả, chẳng hạn như tài liệu viết, hình ảnh, bản đồ và video clip. Ví dụ: để cung cấp bối cảnh về thời kỳ đổi mới, tôi đã chia sẻ các mẫu tem phiếu, các hiện vật thời bao cấp và các nghị quyết của Đảng cũng như các bài báo viết về cuộc sống trong giai đoạn này. Các tư liệu trên giúp học sinh  hiểu được cuộc sống, những trải nghiệm và phản ứng của họ ở giai đoạn này.

Để lôi cuốn sự tham gia của học sinh trong việc tìm kiếm bằng chứng, giáo viên cũng có thể yêu cầu học sinh tự tìm kiếm tư liệu. Ví dụ, một nhóm học sinh trong lớp của tôi đã tìm thấy bằng chứng mới về cuộc sống của người dân miền Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Hay, học sinh đã tìm được những tư liệu rất có giá trị về cuộc sống của gia đình sau năm 1986. Việc thu thập tư liệu cho phép học sinh hiểu rõ hơn nội dung và thông điệp của tư liệu cũng như mối quan hệ với giả thuyết mà học sinh đã đặt ra. Trong hoạt động này, học sinh sẽ khám phá ra những điều mới mẻ thay vì lặp lại những kết luận có sẵn được viết trong sách giáo khoa.

PHÂN TÍCH TƯ LIỆU VÀ KẾT LUẬN

Là giáo viên lịch sử, chúng ta cần yêu cầu học sinh biết cách phân tích tư liệu và kết nối giữa tư liệu và bối cảnh lịch sử. Tôi rất thích hoạt động phân tích tư liệu vì nó giúp học sinh không lặp lại những điều mà tôi nói trong bài giảng và nó cũng biến học sinh thành những nhà sử học thông qua việc tìm hiểu nghiên cứu lịch sử thực sự.

Ví dụ, bằng việc tìm hiểu những tư liệu về sự thay thế từ nhà Đinh sang nhà Tiền Lê, học sinh dễ dàng nhận thấy, các tư liệu đều được viết từ một phía, một góc nhìn mà không phản ánh được cái nhìn đa chiều cũng như những góc khuất của việc nhường ngôi. Điều này thôi thúc học sinh đi tìm kiếm câu trả lời cho điều mà chúng còn thắc mắc. Cũng từ đây, học sinh hiểu rằng, bất kỳ một vấn đề nào tưởng chừng như rất đơn giản và “nhẹ nhàng”, nhưng đằng sau nó là những biết động rất ghê gớm đi cùng sự phức tạp của hoàn cảnh chính trị xã hội tại thời điểm đó.

Việc sử dụng phương pháp khoa học để dạy lịch sử là một cách tiếp cận đúng đắn và cần được áp dụng rộng rãi vì nó giúp học sinh hình thành và phát triển tư duy phản biện. Hơn nữa, mục đích cuối cùng của việc học lịch sử không phải là những gì học sinh có thể nhớ được, mà là những gì chúng có thể làm được.

Giáo viên Lịch sử

[Bài viết trên website thuộc bản quyền của Dự án Giáo viên Lịch sử, việc sử dụng một phần hoặc toàn bộ bài viết phải được sự đồng ý chính thức của tác giả và có trích dẫn nguồn đầy đủ.]

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề