Đã có thuốc chữa khỏi dứt viêm gan B chữa

Trong khoảng 5 năm trở lại đây, chúng ta có thêm nhiều thuốc chữa viêm gan siêu vi B mạn. Bên cạnh đó cũng xuất hiện sự kháng thuốc, xuất hiện nhiều chủng kháng thuốc đột biến gen... nên phương pháp điều trị, dùng thuốc, chăm sóc có một số thay đổi...

Thực tế, người bị nhiễm virut viêm gan B [HBV] thường lo lắng về tình trạng bệnh và băn khoăn không biết nên dùng thuốc hay không. Nếu dùng thì dùng như thế nào?

Có phải cứ nhiễm HBV là dùng thuốc?

HBV phân làm 4 trường hợp:

- Trường hợp 1: Có kháng nguyên bề mặt HBsAg [+] chứng tỏ có virut;  có kháng nguyên nội sinh HBeAg [+] chứng tỏ virut đang sinh sôi, có dấu hiệu lâm sàng viêm gan B rõ [vàng mắt, vàng da, mệt mỏi chán ăn; enzym gan  ALT-alanin aminotranferase tăng. Bình thường ALT= 40U/L, khi bị bệnh ALT tăng gấp 2 lần trở lên]. Đây là trường hợp  cần phải  dùng thuốc.

- Trường hợp 2: HBsAg [+] chứng tỏ có virut; HBeAg[-] chứng tỏ không có dấu hiệu virut sinh sôi; không có dấu hiệu lâm sàng rõ. Đây là trường hợp người lành mang mầm bệnh, không dùng thuốc.

- Trường hợp 3: HBsAg [+] chứng tỏ có virut; HBeAg[+] chứng tỏ virut đang sinh sôi, nhưng không có dấu hiệu lâm sàng. Đây là trường hợp người "dung nạp được miễn dịch" cũng chưa cần dùng thuốc. Nhưng trường hợp này có nguy cơ cao, virut có thể tái kích hoạt gây bệnh nên cần theo dõi, nếu thấy xuất hiện các biểu hiện lâm sàng thì khám ngay để kịp thời dùng thuốc.

- Trường hợp 4: HBsAg [+] chứng tỏ có virut; HBeAg [-] chứng tỏ không có dấu hiệu virut sinh sôi nhưng lại có dấu hiệu lâm sàng. Đây là trường hợp người bệnh đã từng bị viêm gan B mạn, virut từng kích hoạt âm thầm, sau đó ngừng kích hoạt gọi là người viêm gan B không hoạt tính; chưa cần dùng thuốc [vì virut chưa tái sinh sôi, chưa thực sự tái kích hoạt, dùng sẽ không có lợi]. Tuy nhiên phải theo dõi chặt chẽ: khám lâm sàng, xét nghiệm định kỳ, khi cần thiết phải can thiệp ngay.

Thuốc điều trị viêm gan B mạn

+ Interferon: Có hiệu năng tăng cường khả năng miễn dịch, ngoài ra còn kháng virut. Thuốc bị thủy phân ở đường tiêu hóa nên chỉ dùng đường tiêm.  Khi dùng, một số người bệnh có thể gặp các triệu chứng như sốt, rụng tóc, mệt... Tuy nhiên, giá thành của thuốc còn cao, lại phải dùng lâu dài nên nhiều trường hợp không có điều kiện. Vì thế, thuốc tuy rất tốt nhưng ít người bệnh lựa chọn.

+ Lamivudin: Có hiệu năng kháng virut. Khi dùng đủ liệu trình thì dấu hiệu lâm sàng mất đi, ALT trở về bình thường, lượng virut [HBVDNA] giảm, hình ảnh mô học gan cải thiện. Thời gian đạt được mục tiêu này lệ thuộc vào từng người, ít nhất là 1 năm, trung bình 2 năm, có khi kéo dài tới 3 năm, nếu tái phát còn có thể dùng lại. Trước năm 2000, lamivudin được xem là thuốc đầu tay [rẻ tiền, dùng đường uống, tiện lợi]. Nhưng hiện nay tỷ lệ kháng lamivudin lên  tới 70% [lamivudin bị kháng thuốc theo kiểu gen] nên hiện không được ưa dùng nhiều. Tuy nhiên, cũng có khoảng 20% người bệnh hầu như không bị kháng thuốc. Cần lưu ý điều này để có thể dùng lamivudin cho người có khả năng đáp ứng, nhất là với người kinh tế khó khăn [lamivudin vẫn là thuốc có giá rẻ].

+ Adefovir, entecavi, telbivudin:  Thời gian đạt được mục tiêu điều trị ngắn hơn lamivudin. Tỷ lệ kháng thuốc thấp hơn lamivudin và có hiệu quả với những người bệnh đã kháng với lamivudin.

+ Tenofovir: Là thuốc mới nhất được EU [Mỹ] mới cho dùng năm 2008. Qua các nghiên cứu cho thấy tenofovir tốt hơn các thuốc trước đó cả về mức đạt được hiệu quả và  chưa bị kháng thuốc.

+ Dùng phối hợp thuốc: Mấy năm gần đây, có một số nghiên cứu phối hợp thuốc trong điều trị viêm gan siêu vi B. Phối hợp chất tăng cường miễn dịch [interferon- pegylat] với chất kháng virut [lamivudin] cho kết quả tốt hơn dùng mỗi thứ riêng lẻ, nhưng phối hợp hai chất kháng virut thì cho kết quả không đều. Chẳng hạn dùng lamivudin+ adefovir với người đã bị kháng lamivudin thì tính trên người dùng có 80% có đáp ứng, 80% giảm HBVDNA đến mức không phát hiện được, 84% ALT trở lại bình thường. Sau khi ngừng dùng 3 năm không nhận thấy có sự bùng nổ đảo ngược về virut hay lâm sàng  học, không hình thành sự đề kháng kiểu gen, không mất bù trừ ở người xơ gan. Nhưng có trường hợp không cho kết quả tốt hơn. Chẳng hạn: dùng lamivudin+ telbivudin thì tốt hơn dùng riêng lamivudin nhưng lại không tốt hơn dùng riêng telbivudin. Vì sự phối hợp chưa ổn định, hơn nữa làm tăng chi phí điều trị nên các nghiên cứu này chưa áp dụng lâm sàng.

Khi nào ngừng dùng thuốc?

Tải lượng HBV càng cao [số lượng bản sao HBVDNA/1ml máu lớn] thì nguy cơ xơ gan, ung thư gan càng lớn. Tải lượng HBV là yếu tố tiên đoán độc lập cho sự phát triển xơ gan, ung thư gan. Nồng độ ALT càng cao thì nguy cơ xơ gan, ung thư gan cũng càng lớn. Vì thế, khi điều trị viêm gan siêu vi B mạn, cần đưa HVNDNA về dưới ngưỡng và đưa ALT về mức bình thường mới ngừng thuốc. Sau khi ngưng thuốc, cần theo dõi định kỳ, kể cả người bệnh mà khi ngừng điều trị HBVDNA ở ngưỡng thấp.

Chỉ dùng thuốc khi hội đủ các tiêu chí [trường hợp 1] và ngừng điều trị  khi đạt mục đích điều trị. Ở các bệnh viện tuyến trên, thường xét nghiệm HBVDNA. Đây là chỉ số cho biết tình trạng sinh sản [nhân đôi tế bào] của virut. HBVDNA [+] chứng tỏ virut đang sinh sôi [khi điều trị HBVDNA thường giảm, lý tưởng là đạt đến mức không còn HBVDNA, nhưng trong thực tế chỉ có thể đạt được mức tối đa, tức là vẫn có thể còn HBVDNA nhưng không còn phát hiện được bằng các phương pháp thông thường]. Có lúc HBVDNA chỉ giảm đến một mức nhất định. Ví dụ lúc đầu, HBVDNA = 200.000 bản sao/1ml máu, sau điều trị chỉ còn 300 bản sao/1ml máu thì coi như bệnh đã ổn định, có thể ngừng thuốc.

Hiện có xuất hiện sự kháng thuốc, đặc biệt xuất hiện các chủng kháng thuốc đột biến gen.  Khi đã  điều trị đủ liệu trình, đạt kết quả, cho ngừng thuốc thì vẫn theo dõi định kỳ để xử lý việc bùng phát virut. Khi bị kháng thuốc, cần chấp nhận một liệu trình khác, không bi quan bỏ mặc vì có thể bột phát nguy hiểm. Không tự ý dùng thuốc cũng như tự ý bỏ dở điều trị, tự ý kéo dài thời gian điều trị. Trong quá trình điều trị, cần khám và xét nghiệm định kỳ. Trong trường hợp  không hoặc chưa dùng thuốc [trường hợp 2- 3- 4] thì cần hiểu rõ lời dặn thầy thuốc, tự theo dõi chặt chẽ, khi cần phải khám, xét nghiệm ngay [trường hợp 3- 4].

Hiện có nhiều loại thuốc được đánh giá là có hiệu năng, nhưng khác nhau về mức đạt được hiệu quả, sự kháng thuốc, thời gian điều trị, giá cả. Khi thảo luận, người bệnh cần  nghe đủ các thông tin, trình bày nguyện vọng để thầy thuốc căn cứ vào đó và tình trạng bệnh mà chọn liệu trình thích hợp.

[Theo DS. Hà Thủy Phước - www.suckhoedoisong.vn]

Tôi có người nhà bị viêm gan siêu vi B, đã khám và điều trị ở Bệnh Viện 2 năm mà chưa khỏi hẳn, xin Bác sỹ cho biết bệnh có chữa khỏi hẳn được không, cách chữa trị như thế nào? Cảm ơn Bác sỹ. [Sông Văn Chung – Hà Nội] 

Bệnh viêm gan siêu vi B có khỏi hẳn không?

Các thuốc điều trị viêm gan B mãn tính hiện nay nhằm mục đích làm cho siêu vi B ngưng hoạt động, không sinh sản được [đưa về dạng người lành mang mầm bệnh] và như vậy ngăn chặn và giảm thiểu tối đa biến chứng xơ gan và ung thư gan.

Người bệnh vẫn phải được lên kế hoạch điều trị và theo dõi liên tục bởi vì siêu vi B vẫn còn tồn tại trong cơ thể và vẫn có khả năng tái hoạt động gây biến chứng tại gan.

Minh họa vi-rút viêm gan siêu vi B

Bệnh viêm gan siêu vi B phần lớn sẽ không có triệu chứng rõ rệt ngoài trừ trong giai đoạn cấp tính thì có biểu hiện vàng da, ói mửa, đau bụng…

Điều trị viêm gan siêu vi B

Mục đích điều trị viêm gan siêu vi B mạn tính là làm sạch vius, cải thiện quá trình viêm và hoại tử ở gan. Hiện nay chúng ta có khá nhiều các loại thuốc đã được nghiên cứu kỹ có kết quả tốt trong việc chữa trị bệnh này. Hiện có 4 loại thuốc đã được công nhận là có hiệu quả trong việc điều trị viêm gan siêu vi B .

Đầu tiên là loại thuốc chích Interferon hay còn gọi là Intron A. Thuốc kế tiếp mở một cuộc cách mạng trong việc chữa trị căn bệnh này là loại thuốc uống đơn giản hơn gọi là Lamivudin. Năm năm trở lại đây xuất hiện một loại tốt hơn là Adefovir với tên thương mại là Hepsera. Hai năm gần đây có thêm những loại thuốc mới hơn, hiệu quả mạnh hơn nữa là Entecavir, tên thương mại là Baraclude.

Tùy vào tình trạng bệnh bác sĩ sẽ chỉ định loiaj thuốc điều trị phù hợp

Tuy nhiên, cho tới hôm nay, tất cả những loại thuốc này vẫn đang tiếp tục được nghiên cứu theo dõi. Vì vậy, lời khuyên của giới chuyên gia là bệnh nhân siêu vi gan B mãn tính nên tiếp tục uống thuốc lâu dài và được theo dõi thường xuyên để xem virus có tái phát hay không. 

Thời gian chữa bệnh tuỳ thuộc loại thuốc, phản ứng của bệnh nhân và việc sử dụng thuốc có đều đặn hay không, người bệnh có đủ khả năng tài chính để uống đều thuốc hay không… Cho nên người bệnh cần được thầy thuốc hướng dẫn, theo dõi để biết hiệu quả thuốc và cố gắng uống thuốc lâu dài để tạo điều kiện cho virus bị tiêu diệt một triệt để.

Việc phát hiện qua các triệu chứng như mệt mỏi, ngứa, sốt nhẹ, đau tức vùng gan, nước tiểu sẫm màu… và qua xét nghiệm chứng minh cần được chữa trị kịp thời tránh chuyển sang mạn tính. 

Các thuốc trên đây thực chất không thể chữa trị được dứt điểm bệnh gan đã mắc mà chỉ có vai trò ngăn chặn và hoặc tái tạo một phần, giúp giảm thiểu sự phá hoại của virus và cải thiện các triệu chứng bệnh lý mà thôi. Tốt nhất và trước tiên phải biết giữ gìn cho gan khoẻ mạnh.

Chúc bạn và gia đình sức khỏe!

Những thông tin cung cấp trong bài viết của Bệnh viện Đa khoa Hồng Ngọc chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.

Theo dõi thêm fanpage: Bệnh viện Đa khoa Hồng Ngọc

Video liên quan

Chủ Đề