Dợn dợn nghĩa là gì

- Đề yêu cầu bình giảng một đoạn thơ hiện đại, thơ lãng mạn.

- Bình giảng đoạn thơ phải nêu được quan hệ đoạn thơ với toàn bài.

- Chú ý khám phá các thủ pháp tượng trưng, tương phản.

- Phân tích ý tứ và tình cảm qua các hình ảnh, từ ngữ.

- Đối với những cách hiểu khác nhau, cần cân nhắc để có cách hiểu sát hơn với tác phẩm.

II - GỢl Ý LÀM BÀI

1. Mở bài

Tràng giang là một bài thơ nổi tiếng không chỉ của Huy Cận mà còn của cả phong trào Thơ mới [1932 - 1945]. Bài thơ gồm bốn khổ, đây là khổ cuối cùng. Tuy có bốn dòng thơ nhưng khổ thơ đã khái quát tấm lòng, khuynh hướng tư tưởng của nhà thơ cũng như bút pháp nghệ thuật của ông

2. Thân bài

Tràng giang là một nỗi buồn cô đơn, lạc lõng trước cảnh trời nước mênh mông, cao rộng bất tận, nhưng trống trải, hoang vắng, xa lạ, hững hờ và vô định. Toàn cảnh trời rộng sông dài tuyệt nhiên không có một bóng người, không có dấu vết của sự giao lưu thân mật, gần gũi: không một chuyến đò ngang, không cầu gợi chút niềm thân mật. “Không một chút ấm áp của sự sống” [Huy Cận]. Tiếng chợ chiều xa xôi dường như cũng chỉ dội lên trong tâm tưởng. Khi. nắng vừa tắt thì bầu trời, dòng sông càng trở nên cao sâu thăm thẳm và vắng lặng lạ thường:

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng bến cô liêu.

Khổ thơ cuối cùng khắc họa lại cảnh tượng rực rỡ, hùng vĩ khi mặt trời xuống thấp, hắt ánh sáng lên các lớp mây cao cuồn cuộn đùn ra như những núi bạc:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.

Tác giả rất thích chữ đùn, tả mây như có sức đẩy ở bên trong, cứ trôi ra hết lớp này đến lớp khác.

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

Ba chữ “bóng chiều sa” là chiếu liên hệ với những núi bạc đùn lên ở câu trên, còn cái dáng “chim nghiêng cánh nhỏ“ tương phản với lớp lớp núi bạc càng trở nên nhỏ nhoi, cô độc.

Cánh chim với bóng chiều cũng gợi về tổ ấm, mở ra ý tiếp của hai câu sau: Con người khát khao tìm về quê nhà.

Lòng quê có người hiểu là lòng riêng, tấm lòng mộc mạc, nhưng cũng nhiều người hiểu là lòng nhớ quê hương, do dịch từ chữ “hương tâm”, đặt vào đây cũng hợp. Cụm từ “dợn dợn vời con nước” thường chưa được giải thích rõ. Tác giả thích chữ dợn dợn, mà phiền lòng khi nghe đọc nhầm, in nhầm thành dờn dợn, hay rợn rợn. Có người lại nghĩ “rờn rợn”, “dờn dợn” hay “dợn dợn” thì cũng thế, vì sự cảm nhận đều thấy có sự rờn rợn, trước cái vô cùng, vô biên, vô định của bầu trời, mặt nước, vũ trụ, kể cũng là một cách nghĩ. Song ở đây, có lẽ tác giả có lí của mình. Thực vậy, “dợn” là từ chỉ mặt nước chuyển động uốn lên uốn xuống rất nhẹ khi bị xao động. Ta nói sóng dợn, mặt hồ dợn sóng, ơ câu này, lòng nhớ quê hương bỗng dợn lên như sóng nơi tâm hồn, khi phóng tầm mắt nhìn [vời trông] ra con nước mênh mông, nhưng không phải chỉ dợn lên một lần rồi thôi, mà là “dợn dợn” - nghĩa là xao động liên tục, cũng không phải “dờn dơn”- hơi xao động, xao động mức độ thầp [xem Ngữ pháp tiếng Việt, 1983]. Chính vì vậy mà Huy Cận nói “đọc sai, in thành dờn dợn như thế chẳng có ý nghĩa gì”. Hiểu là “rợn rợn” [sợ hãi, rợn ngợp] lại cũng không thích hợp.

Tóm lại, lòng nhớ quê hương cứ dợn mãi lên trong tâm hồn trước cảnh sông nước hoang vắng đìu hiu, trống trải. Và nhà thơ kết thúc bài thơ: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Viết câu thơ này chứng tỏ Huy Cận biết trước mình đã có câu thơ Thôi Hiệu và không muốn lặp lại nhà thơ xưa. Người Việt Nam yêu thơ Đường hẳn đều còn nhớ câu thơ của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc lâu do Tản Đà dịch: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn. Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Nhiều người, kể cả bản thân nhà thơ, đọc câu kết này đều quả quyết rằng Huy Cận buồn hơn Thôi Hiệu. Ai buồn hơn ai thật khó mà xác định được! Điều quan trọng là Huy Cận muốn nói một cách khác, một ý khác. Xưa Thôi Hiệu buồn vì cõi tiên mờ mịt, quê nhà cách xa. Khói sóng trên sông gợi lên cảnh mờ mịt mà sầu. Nay Huy Cận buồn trước không gian hoang vắng, sóng gợn tràng giang, không một chút ấm áp của sự sống. Ông nhớ tới nhà, tới quê như một nguồn ấm áp giữa cuộc đời. Xưa Thôi Hiệu tìm viếng giấc mơ tiên, chỉ thấy hư vô, lòng khát khao tìm về quê nhà thực tại. Nay Huy Cận một mình đối diện với không gian hoang vắng vô tình, dợn lên nỗi khát khao quê nhà ấm áp. Một đàng nhấn mạnh ý thức về đời thực, một đàng nhấn mạnh ý thức về tình người.

3. Kết bài

Bao nhiêu năm trôi qua mà vẻ đẹp và nỗi buồn của Tràng giang vẫn ám ảnh người đọc. Bài thơ mãi mãi thức tỉnh lòng hướng về quê hương tình người ấm áp của chúng ta.

Bạn đang chọn từ điển Tiếng Việt, hãy nhập từ khóa để tra.

Có nghiên cứu sâu vào tiếng Việt mới thấy Tiếng Việt phản ánh rõ hơn hết linh hồn, tính cách của con người Việt Nam và những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Việt Nam. Nghệ thuật ngôn từ Việt Nam có tính biểu trưng cao. Ngôn từ Việt Nam rất giàu chất biểu cảm – sản phẩm tất yếu của một nền văn hóa trọng tình.

Theo loại hình, tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn tiết, song nó chứa một khối lượng lớn những từ song tiết, cho nên trong thực tế ngôn từ Việt thì cấu trúc song tiết lại là chủ đạo. Các thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt đều có cấu trúc 2 vế đối ứng [trèo cao/ngã đau; ăn vóc/ học hay; một quả dâu da/bằng ba chén thuốc; biết thì thưa thốt/ không biết thì dựa cột mà nghe…].

Định nghĩa - Khái niệm

dợn tiếng Tiếng Việt?

Dưới đây sẽ giải thích ý nghĩa của từ dợn trong tiếng Việt của chúng ta mà có thể bạn chưa nắm được. Và giải thích cách dùng từ dợn trong Tiếng Việt. Sau khi đọc xong nội dung này chắc chắn bạn sẽ biết từ dợn nghĩa là gì.

- I đg. [Mặt nước] chuyển động uốn lên uốn xuống rất nhẹ khi bị xao động; gợn. Mặt hồ dợn sóng. Sóng dợn.- II d. Làn sóng hoặc, nói chung, đường nét trông như sóng dợn trên một mặt phẳng [thường nói về vân gỗ]. Mặt nước phẳng, không một dợn sóng. Mặt gỗ có nhiều dợn.
  • nghễnh ngãng Tiếng Việt là gì?
  • ngượng mặt Tiếng Việt là gì?
  • sản vật Tiếng Việt là gì?
  • lung lay Tiếng Việt là gì?
  • gậy tày Tiếng Việt là gì?
  • Ba Cụm Bắc Tiếng Việt là gì?
  • trưởng nam Tiếng Việt là gì?
  • giảng giải Tiếng Việt là gì?
  • Trạm Lộ Tiếng Việt là gì?
  • giải pháp Tiếng Việt là gì?
  • Bến Quan Tiếng Việt là gì?
  • lạc bước Tiếng Việt là gì?

Tóm lại nội dung ý nghĩa của dợn trong Tiếng Việt

dợn có nghĩa là: - I đg. [Mặt nước] chuyển động uốn lên uốn xuống rất nhẹ khi bị xao động; gợn. Mặt hồ dợn sóng. Sóng dợn.. - II d. Làn sóng hoặc, nói chung, đường nét trông như sóng dợn trên một mặt phẳng [thường nói về vân gỗ]. Mặt nước phẳng, không một dợn sóng. Mặt gỗ có nhiều dợn.

Đây là cách dùng dợn Tiếng Việt. Đây là một thuật ngữ Tiếng Việt chuyên ngành được cập nhập mới nhất năm 2022.

Kết luận

Hôm nay bạn đã học được thuật ngữ dợn là gì? với Từ Điển Số rồi phải không? Hãy truy cập tudienso.com để tra cứu thông tin các thuật ngữ chuyên ngành tiếng Anh, Trung, Nhật, Hàn...liên tục được cập nhập. Từ Điển Số là một website giải thích ý nghĩa từ điển chuyên ngành thường dùng cho các ngôn ngữ chính trên thế giới.

Lazi - Người trợ giúp bài tập về nhà 24/7 của bạn

  • Hỏi 15 triệu học sinh cả nước bất kỳ câu hỏi nào về bài tập
  • Nhận câu trả lời nhanh chóng, chính xác và miễn phí
  • Kết nối với các bạn học sinh giỏi và bạn bè cả nước

Nhà thơ Huy Cận tỏ ý phiền lòng khi thấy một chữ trong bài thơ của mình thường bị in sai mỗi khi tái bản là "dợn dợn". "Hai chữ dợn dợn của tôi thường bị đọc sai, in thành dờn dợn, như thế chẳng có ý nghĩa gì", tác giả bài thơ nêu trong một bài viết.

Theo nhà nghiên cứu Văn Tâm, mọi cuốn từ điển tiếng Việt đều không có từ điệp âm "dợn dợ" mà chỉ có "dợn" [rợn] nghĩa là nổi lên như sóng, như vân trên gỗ. "Dợn dợn" là một chữ mới được nhà thơ chế tác.

Thật ra, đôi mắt người đọc có thể nhìn sai, rồi in sai nhưng cái tâm thẩm mỹ của họ, sự cảm nhận toàn khối của họ với bài thơ là không lầm. Số là cách phát âm từ láy "dờn dợn" rất gần với rờn rợn, nhất là với người miền Bắc.

Độc giả Tràng giang khi để cho khối bài thơ ập vào tâm trí trong một giây đã thu được một tín hiệu tổng hòa. Con người trong thơ đã "rờn rợn" trước những cái vô: Rờn rợn trước cái vô cùng [trời rộng, trời lên sâu chót vót, lớp lớp mây cao]; rờn rợn trước cái vô biên [sóng gợn, sông dài điệp điệp, mênh mông không một đò ngang...]; rờn rợn trước cái vô định [trên trăm ngả sóng vật vờ, một cành củi khô lạc nẻo cùng những mảnh bèo lênh đênh trôi dạt].

Độc giả đọc sai chính vì họ cũng "rợn", thuận theo một phản xạ tâm lý phổ biến: Con người thường cảm thấy nhỏ bé, thậm chí là bất lực mà rờn rợn trước cái vô hạn của không gian [vũ] và thời gian [trụ].

Còn nhà thơ Huy Cận, khi nói về bài thơ cho rằng: "Tác phẩm có nhiều điệp ngữ như điệp điệp, song song, dợn dợn. Mỗi điệp từ như thế đều có ý nghĩa riêng về nội dung cũng như nghệ thuật. Bài thơ kết thúc bằng nỗi nhớ quê hương da diết. Tôi nói khác ý thơ của Thôi Hiệu:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

Vì lúc đó, tôi buồn hơn Thôi Hiệu đời Đường".

Câu 4: Những câu thơ sau nằm trong bài thơ nào của nhà thơ Huy Cận, được sáng tác trước năm 1945?

Sáng hôm nay hồn em như tủ áo,
Ý trong veo là lượt xếp từng đôi.
Áo đẹp chưa anh! Hoa thắm thêu đời,
Áo mơ ước anh bận giùm chiếc nhé.

a. Nhạc sầu

b. Áo trắng

c. Tình tự

Lê Nam

Video liên quan

Chủ Đề