5 848 KB 1 152
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN BÀN VỀ GIẢNG DẠY BIÊN - PHIÊN DỊCH
CHO SINH VIÊN NGÀNH NGÔN NGỮ TRUNG QUỐC
Lưu Hớn Vũ*
Title: A disscussion of the teaching
translation for students of Chinese
language major
Từ khóa: Biên phiên dịch, giảng
dạy, ngành Ngôn ngữ Trung Quốc
Keywords: translate,
Chinese Language major teaching, Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 14/9/2016;
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
04/10/2016;
Ngày chấp nhận đăng bài:
05/01/2017.
Tác giả:
* TS., trường Đại học Ngân hàng Tp.
Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
Biên phiên dịch là môn học quan trọng của ngành Ngôn ngữ
Trung Quốc. Việc giảng dạy biên phiên dịch cho sinh viên ngành Ngôn
ngữ Trung Quốc phải tuân theo các nguyên tắc và phương pháp cơ
bản trong giảng dạy biên phiên dịch, đồng thời còn phải thể hiện được
một cách đầy đủ nhất những đặc điểm của ngành Ngôn ngữ Trung
Quốc. Bài viết tập trung thảo luận các vấn đề về mục tiêu giảng dạy,
nguyên tắc giảng dạy, chương trình môn học, giáo trình, phương pháp
giảng dạy và kiểm tra, đánh giá trong giảng dạy biên phiên dịch cho
sinh viên ngành Ngôn ngữ Trung Quốc.
ABSTRACT
Translation course is a very important part of the Chinese
Language major. Teacher must follow the principles of the teaching
translation, express the characteristics of the Chinese Language
major. This paper dicusses teaching goals, teaching principles, the
program, textbook, teaching methods and examining methods in the
teaching translation for students of Chinese Language major. Biên phiên dịch là môn học không thể thiếu
trong chương trình đào tạo các ngành ngôn ngữ
nước ngoài nói chung, ngành Ngôn ngữ Trung
Quốc nói riêng. Qua việc học tập biên phiên dịch,
sinh viên có thể biến các kiến thức tiếng Trung
đã được học trong các môn học khác thành năng
lực ứng dụng tiếng Trung thực tế. Có thể nói,
biên phiên dịch là môn học giúp sinh viên ôn tập,
củng cố các kiến thức tiếng Trung đã học và nâng
cao trình độ tiếng Trung hiện tại của sinh viên.
Vì vậy, việc giảng dạy biên phiên dịch cho
sinh viên ngành Ngôn ngữ Trung Quốc phải tuân
theo các nguyên tắc và phương pháp cơ bản
trong giảng dạy biên phiên dịch, đồng thời còn
phải thể hiện được một cách đầy đủ nhất những
đặc điểm của ngành Ngôn ngữ Trung Quốc. Nhà
trường cần xuất phát từ thực tế giảng dạy của
ngành Ngôn ngữ Trung Quốc, xây dựng chương
trình đào tạo hợp lý, biên soạn giáo trình có tính
định hướng cụ thể, vận dụng các phương pháp
giảng dạy tiên tiến, đồng thời sử dụng các
phương pháp kiểm tra, đánh giá hữu hiệu để
đánh giá hiệu quả giảng dạy. 1. Mục tiêu giảng dạy
Công tác giảng dạy biên phiên dịch có thể
được chia làm hai mảng lớn: Một là, giảng dạy
biên phiên dịch như một kỹ năng ngoại ngữ cơ
bản [giống các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết];
Hai là, giảng dạy biên phiên dịch như một
ngành nghề chuyên nghiệp.
Mục tiêu giảng dạy biên phiên dịch trong
ngành Ngôn ngữ Trung Quốc của hầu hết các
trường hiện nay vẫn chưa hướng đến mục
tiêu đào tạo đội ngũ biên phiên dịch chuyên
nghiệp, chỉ mới dừng lại ở mục tiêu rèn luyện
kỹ năng biên phiên dịch cho sinh viên. Thông
qua việc phân tích các hiện tượng biên phiên
dịch giúp sinh viên hiểu hơn về ngôn ngữ,
nâng cao mức độ nhận thức về ngôn ngữ của
sinh viên, từ đó nâng cao năng lực biên phiên
dịch của sinh viên. Vì vậy, việc xây dựng
chương trình môn học biên phiên dịch cần
khác với giảng dạy biên phiên dịch như một
ngành nghề chuyên nghiệp.
Số 02 [03/2017] 63 TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN 2. Nguyên tắc giảng dạy
Việc giảng dạy biên phiên dịch cho sinh
viên ngành Ngôn ngữ Trung Quốc có hai mục
đích: Một là, nâng cao trình độ tiếng Trung của
sinh viên bằng giảng dạy biên phiên dịch; Hai
là, giúp sinh viên nâng cao năng lực chuyển mã
song ngữ, tức năng lực biên phiên dịch. Biên
phiên dịch là một phần của giảng dạy ngoại
ngữ, vì vậy giảng dạy biên phiên dịch cũng cần
tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của giảng dạy
ngoại ngữ, như nguyên tắc giao tiếp, nguyên
tắc văn hoá, nguyên tắc hệ thống, nguyên tắc
tri nhận và nguyên tắc tình cảm.
2.1. Nguyên tắc giao tiếp và nguyên tắc
văn hoá
Mục đích chính của học tập ngoại ngữ là
sử dụng để giao tiếp. Năng lực giao tiếp không
chỉ bao gồm khả năng tiếp nhận, truyền phát
và chuyển đổi thông tin chính xác, còn bao gồm
khả năng cảm nhận, khoan dung, xử lý linh
hoạt khi đối mặt với sự khác biệt giữa những
nền văn hoá khác nhau. Biên phiên dịch trong
ngành Ngôn ngữ Trung Quốc có nội dung chính
là chuyển mã song ngữ Việt – Trung, có vai trò
quan trọng trong giao lưu văn hoá giữa hai
nước Việt – Trung.
Ngôn ngữ là phương tiện truyền tải quan
trọng nhất của văn hoá. Văn hoá và giao lưu
văn hoá là nguồn gốc ra đời của biên phiên
dịch. Với sinh viên ngành Ngôn ngữ Trung
Quốc, quá trình học tiếng Trung cũng là quá
trình tìm hiểu văn hoá Trung Quốc. Sinh viên
học ngoại ngữ, đặc biệt là sinh viên học trong
môi trường tiếng mẹ đẻ, thường chịu ảnh
hưởng rất lớn từ tiếng mẹ đẻ, hình thành
những mô hình tư duy theo văn hoá tiếng mẹ
đẻ, sử dụng lối tư duy này một cách vô ý thức
trong quá trình tiếp xúc nền văn hoá khác, rất
dễ có cái nhìn phiến diện với nền văn hoá nước
ngoài. Vì thế, trong suốt quá trình giảng dạy,
giảng viên nên có ý thức giao tiếp xuyên văn
hoá, không chỉ chú trọng giảng dạy kiến thức
ngôn ngữ, kỹ thuật biên phiên dịch, còn phải
chú trọng giảng dạy kiến thức văn hoá, giúp
sinh viên hiểu về mô hình kinh tế, phong tục
tập quán, con người, cuộc sống, các phương
thức biểu đạt ngôn ngữ của Trung Quốc. Đồng
thời, còn phải chú ý so sánh đối chiếu giữa hai
ngôn ngữ, giúp sinh viên hiểu về đặc điểm tiếng Trung và tìm ra phương thức diễn đạt
thích hợp.
Trên cơ sở nguyên tắc giao tiếp và nguyên
tắc văn hoá, khi giảng viên biên soạn giáo trình,
sắp xếp nội dung giảng dạy trên lớp cần sử
dụng hợp lý phương pháp giảng dạy tình
huống, mô phỏng các tình huống thực tế, nhằm
giải quyết những vấn đề sinh viên gặp phải
trong cuộc sống thực tế, giúp sinh viên hiểu rõ
văn hoá Trung Quốc, nâng cao năng lực tiếng
Trung và năng lực giao tiếp xuyên văn hoá của
sinh viên.
2.2. Nguyên tắc hệ thống
Tiếng Trung là một hệ thống hoàn chỉnh,
các bộ phận cấu thành bên trong hệ thống có
mối quan hệ lẫn nhau. Năng lực biên phiên
dịch được xây dựng trên cơ sở các kỹ năng
nghe, nói, đọc, viết. Vì vậy, cần căn cứ vào trình
độ tiếng Trung thực tế của người học và các
quy tắc giảng dạy biên phiên dịch xây dựng kế
hoạch giảng dạy, nội dung giảng dạy một cách
hệ thống. Chẳng hạn như, trọng tâm giảng dạy
ở giai đoạn cơ bản của biên phiên dịch là củng
cố và ứng dụng các kiến thức ngữ pháp tiếng
Trung; khi vào giai đoạn thực tiễn, trình độ
tiếng Trung của người học đã đạt được một
chuẩn nhất định, trọng tâm giảng dạy có thể
chuyển sang việc luyện tập biên phiên dịch các
loại văn ứng dụng, đồng thời sắp xếp hợp lý
các nội dung về lý thuyết biên phiên dịch,
thưởng thức và phân tích văn bản dịch.
Ngoài ra, biên phiên dịch còn đề cập đến
so sánh và chuyển mã kiến thức văn hoá, ngôn
ngữ giữa ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích. Vì
vậy, giảng viên cần tích cực ứng dụng các lý
luận và kết quả nghiên cứu của lĩnh vực ngôn
ngữ học đối chiếu vào giảng dạy biên phiên
dịch, điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc
hoàn thiện chương trình môn học biên phiên
dịch và việc xây dựng hệ thống biên phiên dịch.
2.3. Nguyên tắc tri nhận và nguyên tắc
tình cảm
Lý thuyết tri nhận cho rằng, giảng dạy
không phải là truyền đạt kiến thức, mà là sinh
viên tích cực, chủ động để “đạt được”. Biên
phiên dịch là năng lực thực tiễn, vì vậy cần căn
cứ vào quan điểm lý thuyết tri nhận để tiến
hành cải cách, biến vai trò của người giảng viên
từ người cung cấp, truyền đạt kiến thức thành
Số 02 [03/2017] 64 TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN người hướng dẫn, biến sinh viên từ người tiếp
nhận bị động thành người chủ động tham gia.
Các kết quả nghiên cứu của khoa học tri
nhận cho thấy, mô hình tri nhận có tác dụng vô
cùng quan trọng khi não người dịch hoạt động
trong quá trình chuyển mã từ ngôn ngữ này
sang ngôn ngữ khác. Giảng viên nên hướng dẫn
và giúp sinh viên kích hoạt cơ chế tâm lý tích
cực, điều chỉnh một cách có ý thức trạng thái
tâm lý biên phiên dịch, giúp sinh viên có thể
tiến hành những suy lý logic và có được những
suy luận ngữ nghĩa chính xác.
Ngoài ra, các yếu tố như động cơ học tập,
thái độ, tính cách, hứng thú… của sinh viên sẽ
ảnh hưởng đến hiệu quả học tập của sinh viên.
Vì vậy, trong giảng dạy biên phiên dịch giảng
viên cần chú ý đến các đặc điểm của sinh viên,
có hướng dẫn mang tính định hướng, cụ thể,
điều chỉnh tâm trạng và thái độ học tập của
sinh viên, thiết kế các mô hình hoạt động có
thể kích thích động cơ và hứng thú học tập của
sinh viên, nâng cao sự nhiệt tình học tập của
sinh viên.
3. Chương trình môn học
Giảng dạy biên phiên dịch ở các trường
hiện nay có sự đa dạng về môn học [như Lý
thuyết dịch, Thực hành dịch, Kỹ năng biên dịch,
Kỹ năng phiên dịch,…] và nội dung [như
thương mại, văn chương, văn bản hành
chính…] [Lưu Hớn Vũ & Nguyễn Ngọc Phương
Dung, 2016], được bố trí vào năm thứ 3 và
năm thứ 4 của chương trình đào tạo [Lã Hạnh
Ly, 2014]. Song, do hạn chế về đội ngũ giảng
dạy cũng như trình độ biên phiên dịch của
giảng viên, các môn học biên phiên dịch hiện
nay vẫn chưa thể đáp ứng hoàn toàn nhu cầu
của người học.
Việc giảng dạy biên phiên dịch cần có tính
hoàn chỉnh, tính thực dụng. Nội dung môn học
cần có sự kết hợp mật thiết với tình hình thực tế
của sinh viên sau khi tốt nghiệp, như thế mới có
thể bồi dưỡng cho sinh viên khả năng vận dụng
kiến thức tiếng Trung đã học để giải quyết các
vấn đề thực tế. Vì vậy, chương trình môn học
biên phiên dịch ở bậc đại học có thể chia làm hai
giai đoạn: Cơ bản và thực tiễn. Giai đoạn cơ bản
có trọng tâm là rèn luyện cơ bản, giúp sinh viên
củng cố và vận dụng các kiến thức ngữ pháp
tiếng Trung, biến năng lực ngữ pháp thành năng
lực ứng dụng. Giai đoạn thực tiễn có trọng tâm là tăng cường khả năng cảm nhận sự khác biệt
về văn hoá và ngôn ngữ giữa ngôn ngữ nguồn và
ngôn ngữ đích, giúp sinh viên có được các kỹ
thuật dịch cần thiết, nâng cao năng lực chuyển
mã song ngữ của sinh viên.
Sau hai giai đoạn này, các trường có thể
căn cứ vào tình hình thực tế, cũng như điều
kiện giảng dạy của trường mình thiết kế các
môn học nâng cao, như Phê bình dịch thuật,
Thưởng thức và phân tích văn bản dịch…, cũng
có thể phát huy các thế mạnh của trường mình,
thiết kế các môn học như biên phiên dịch
chuyên ngành, như Dịch thương mại, Dịch
pháp lý, Dịch văn học…
4. Giáo trình
Hiện nay, giáo trình biên phiên dịch cho
ngành Ngôn ngữ Trung Quốc rất ít. Các trường
chủ yếu sử dụng hai giáo trình do các tác giả
người Trung Quốc biên soạn cho sinh viên
ngành Ngôn ngữ Việt Nam của Trung Quốc là
“Giáo trình dịch Việt – Hán” [Tác giả Zhao Yulan, 2002, Nxb. Đại học Bắc Kinh, Trung Quốc]
và “Kỹ thuật đối dịch Hán – Việt thực dụng”
[Tác giả Liang Yuan & Wen Ri-hao, 2005, Nxb.
Dân tộc, Trung Quốc] [Phạm Minh Tiến, 2015].
Nội dung các ví dụ, các bài tập luyện dịch trong
hai giáo trình này khá cũ, không được cập nhật,
không tạo được hứng thú cho sinh viên. Mặt
khác, số lượng bài tập luyện dịch trong cả hai
giáo trình vẫn còn khá khiêm tốn. Vì vậy, cần
biên soạn giáo trình biên phiên dịch cho ngành
Ngôn ngữ Trung Quốc.
Việc biên soạn giáo trình cần hướng đến
mục tiêu nâng cao năng lực tiếng Trung và
năng lực chuyển mã song ngữ cho sinh viên.
Bên cạnh việc tuân thủ các nguyên tắc giảng
dạy, còn phải căn cứ vào mục tiêu và yêu cầu
của chương trình đào tạo, biên soạn giáo trình
có tính hệ thống và tính từng bước. Mỗi bài
trong giáo trình có thể được thiết kế theo cấu
trúc ba phần: Bài khoá, điểm ngôn ngữ biên
phiên dịch và bài tập. Căn cứ vào mục đích của
từng giai đoạn trong chương trình biên phiên
dịch mà có sự điều chỉnh nội dung cụ thể.
Ở giai đoạn cơ bản, trình độ tiếng Trung
của sinh viên vẫn còn thấp, môn học biên phiên
dịch có mục đích là củng cố kiến thức ngữ pháp
tiếng Trung đã được học, nâng cao năng lực
ứng dụng tiếng Trung thực tế. Vì vậy, các bài
khoá được chọn trong giáo trình cần có nội
Số 02 [03/2017] 65 TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN dung đơn giản như các tình huống đối thoại
hàng ngày. Trong phần điểm ngôn ngữ, ngoài
việc giảng dạy những cách biểu đạt, mẫu câu
được đề cập trong bài khoá, còn phải phân tích,
so sánh những điểm ngôn ngữ khó hoặc dễ sử
dụng sai của sinh viên Việt Nam. Nội dung cụ
thể cần căn cứ vào trình độ tiếng Trung của
sinh viên, sử dụng phương thức giảng dạy biên
phiên dịch qua các ví dụ điển hình của điểm
ngôn ngữ được học. Trong phần bài tập, cần
thiết kế các bài tập hướng đến luyện tập các
nội dung đã được học trong bài. Ngoài dạng bài
tập phổ biến là dịch câu, cần bổ sung thêm các
dạng bài tập khác, như điền vào chỗ trống,
phán đoán đúng sai, lựa chọn phương án đúng,
sửa câu sai… Với lượng bài tập phong phú và
đa dạng, không chỉ có thể giúp sinh viên hiểu
được nội dung giáo trình, mà còn có thể giúp
sinh viên quy nạp được một số quy luật nhất
định trong chuyển mã song ngữ Việt – Trung.
Ở giai đoạn thực tiễn, trọng tâm giảng dạy
chuyển sang nâng cao năng lực chuyển mã
song ngữ Việt – Trung của sinh viên. Vì vậy, nội
dung giảng dạy có thể tập trung vào việc biên
phiên dịch một số loại văn bản ứng dụng
thường dùng và có độ ngắn vừa phải [như
thiệp mời, thông báo, quảng cáo, lý lịch, chứng
nhận, giấy hướng dẫn sử dụng đơn giản, giới
thiệu địa phương, tình hình doanh nghiệp, thư
tín thương mại, văn kiện hội nghị,…] hoặc một
số bản tin đề cập đến những chủ đề mà sinh
viên quan tâm [như việc làm, tình yêu hôn
nhân, giao tiếp xã hội,…]. Trong phần điểm
ngôn ngữ, giáo trình cần đề cập đến phân tích
câu ví dụ, kỹ thuật dịch, đồng thời giới thiệu
cách viết và đặc điểm của thể loại văn bản ứng
dụng, bản tin trong hai ngôn ngữ Việt – Trung.
Trong phần bài tập, cần thiết kế các bài luyện
dịch một số văn bản ứng dụng hoặc bản tin
cùng thể loại với bài khoá.
Các giáo trình đề cập đến nội dung chuyên
ngành như giáo trình Dịch thương mại, Dịch
pháp lý, Dịch văn học,… cần thể hiện được các
đặc điểm của chuyên ngành đó, giảng dạy các
yêu cầu và cách viết văn bản của chuyên ngành
đó, đồng thời hướng dẫn sinh viên sưu tầm các
tài liệu có liên quan, sử dụng chính xác các
thuật ngữ có liên quan, giới thiệu các phương
pháp hoàn thiện văn bản dịch. 5. Phương pháp giảng dạy
Giảng viên cần lựa chọn các phương pháp
giảng dạy có thể phát huy vai trò hướng dẫn của
giảng viên và vai trò chủ thể của sinh viên, giúp
sinh viên có trạng thái học tập tốt nhất, nâng
cao tính chủ động và tích cực học tập của sinh
viên, bồi dưỡng cho sinh viên năng lực sáng tạo.
Ngoài các phương pháp giảng dạy như ngữ
pháp – dịch, tình huống, chức năng, quá trình…
giảng viên còn có thể sử dụng phương pháp
đóng vai mô phỏng thực tế. Trong quá trình
giảng dạy, giảng viên đưa ra các tình huống mô
phỏng thực tế, để sinh viên tiếp xúc và so sánh
các mô hình văn hoá khác nhau, cũng như các
hình thức biểu đạt ngôn ngữ khác nhau.
Giảng viên cũng có thể sử dụng phương
pháp giảng dạy theo trình tự sau: “Sinh viên
dịch thử – giảng viên giảng dạy điểm ngôn ngữ –
sinh viên chỉnh sửa văn bản dịch – giảng viên
đánh giá – sinh viên luyện tập”. Trước tiên, sinh
viên sẽ dịch thử một số ví dụ hoặc các bài tập
luyện dịch có liên quan điểm ngôn ngữ biên
phiên dịch của bài. Sau đó, giảng viên căn cứ vào
các câu ví dụ để giảng dạy những điểm ngôn
ngữ biên phiên dịch, các bước chuyển mã ngôn
ngữ, các cách dịch… Sau phần giảng dạy của
giảng viên, sinh viên chỉnh sửa lại văn bản dịch
của mình, hoặc chỉnh sửa bài cho nhau. Giảng
viên đánh giá văn bản dịch đã chỉnh sửa của
sinh viên, đồng thời tổng kết các lỗi dịch phổ
biến, nhấn mạnh nội dung chính của bài. Sau đó,
sinh viên thực hành các bài tập luyện dịch trên
lớp và các bài tập về nhà. Phương pháp này
không chỉ có lợi trong việc củng cố kiến thức
ngôn ngữ, nâng cao năng lực chuyển mã song
ngữ của sinh viên, mà còn có thể làm cho không
khí lớp học trở nên sôi động, kích thích tính chủ
động học tập của sinh viên, bồi dưỡng thói quen
tư duy tích cực của sinh viên.
Ngoài ra, việc giảng dạy còn phải tuân theo
nguyên tắc giảng ít luyện tập nhiều, có sự tương
tác giữa thầy và trò. Khi giảng dạy, giảng viên
không chỉ đưa ra các ví dụ biên phiên dịch, mà
còn nên sử dụng phương pháp so sánh đối
chiếu để tiến hành phân tích, thuyết minh
những câu dịch mẫu, để sinh viên có thể hiểu rõ
kiến thức biên phiên dịch thể hiện trong câu ví
dụ. Trong giai đoạn sinh viên chỉnh sửa văn bản
dịch, giảng viên nên làm cho không khí lớp học
trở nên sôi động, khuyến khích sinh viên nói lên
Số 02 [03/2017] 66 TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN suy nghĩ của mình, cùng nhau thảo luận. Hình
thức thảo luận có thể đa dạng, như giảng viên
đưa câu hỏi, sinh viên trả lời, sinh viên tự do
phát biểu, đưa ra tất cả các cách có thể dịch
hoặc phân nhóm thảo luận. Trong giai đoạn
giảng viên đánh giá, giảng viên không nên đưa
ra đáp án chuẩn của văn bản dịch, mà nên công
nhận văn bản dịch của sinh viên, khuyến khích
sinh viên sáng tạo. Ngoài ra, trong hoạt động
giảng dạy, những đánh giá của giảng viên về văn
bản dịch của sinh viên là vô cùng quan trọng, là
biện pháp hiệu quả nhất để giúp sinh viên nâng
cao năng lực biên phiên dịch của mình.
6. Kiểm tra, đánh giá
Kiểm tra, đánh giá là một bộ phận cấu
thành quan trọng trong quá trình giảng dạy nói
chung, giảng dạy biên phiên dịch nói riêng.
Kiểm tra, đánh giá là phương thức tìm hiểu mức
độ hiểu bài và năng lực chuyển mã song ngữ của
sinh viên. Cũng là phương thức quan trọng để
giảng viên tìm hiểu hiệu quả giảng dạy của
mình. Hiện nay, kiểm tra, đánh giá biên phiên
dịch thường là sử dụng hình thức dịch một bài
hội thoại hoặc một bài văn. Hình thức kiểm tra,
đánh giá khá đơn điệu này không chỉ làm giảm
sức hấp dẫn của nội dung giảng dạy, mà còn có
ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả giảng dạy.
Ngoài ra, nếu phương pháp kiểm tra, đánh giá
và nội dung giảng dạy, phương pháp giảng dạy
không tương ứng nhau cũng sẽ dẫn đến sự
không gắn kết giữa các khâu giảng dạy. Vì vậy,
chúng ta cần tiến hành nghiên cứu phương thức
ra đề và tính hiệu quả của nó, từ đó tìm ra hình
thức kiểm tra, đánh giá lý tưởng trong sự thống
nhất giữa nội dung kiểm tra, đánh giá và nội
dung giảng dạy, mục đích giảng dạy. Dạng câu hỏi trong các đề thi biên phiên
dịch hiện nay chủ yếu là trả lời ngắn gọn các câu
hỏi về lý thuyết dịch, dịch câu và dịch đoạn
ngắn. Đây là hình thức khá đơn điệu, vì vậy cần
có sự đổi mới về dạng câu hỏi. Ở giai đoạn cơ
bản, hình thức kiểm tra, đánh giá có thể sử dụng
dạng câu hỏi kiểm tra riêng từng nội dung kiến
thức của lý thuyết dịch và kỹ năng dịch. Đề thi
sẽ gồm nhiều câu nhỏ, mỗi câu chỉ kiểm tra một
số nội dung kiến thức của lý thuyết dịch hoặc
một kỹ năng dịch của sinh viên. Dạng câu hỏi
trong đề thi là điền vào chỗ trống, phán đoán
đúng sai, lựa chọn phương án đúng và sửa câu
dịch. Ở giai đoạn thực tiễn, hình thức kiểm tra,
đánh giá có thể kết hợp kiến thức lý thuyết biên
phiên dịch và kỹ năng biên phiên dịch, tìm hiểu
khả năng vận dụng lý thuyết vào thực tiễn của
sinh viên, kiểm tra toàn diện năng lực chuyển
mã song ngữ của sinh viên. Dạng câu hỏi trong
đề thi là điền vào chỗ trống và dịch văn bản,
dịch có điều kiện và dịch không có điều kiện,
dịch câu đơn trong tình huống cụ thể.
Công tác giảng dạy biên phiên dịch cho sinh
viên ngành Ngôn ngữ Trung Quốc còn phải tiếp
tục nghiên cứu, hướng đến mục tiêu giảng dạy
biên phiên dịch như một ngành nghề chuyên
nghiệp. Trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc
giảng dạy, xây dựng chương trình giảng dạy tiên
tiến, biên soạn giáo trình chất lượng, sử dụng
phương pháp giảng dạy hợp lý để nâng cao
năng lực biên phiên dịch của sinh viên, phát huy
tính chủ động, tích cực và sáng tạo của sinh
viên. Đồng thời, đa dạng hoá phương thức kiểm
tra, đánh giá, tìm kiếm các phương pháp kiểm
tra, đánh giá hiệu quả và khách quan. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lã Hạnh Ly. [2014]. Một vài ý kiến
đóng góp về việc dạy và học môn Dịch Trung –
Việt. Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, 10, 36 – 38.
2. Phạm Minh Tiến. [2015]. Hiện trạng
giáo trình đối dịch Việt – Hán tại các trường đại
học Việt Nam và một số ý tưởng thiết kế giáo
trình đối dịch Hán – Việt. Tạp chí Ngôn ngữ và
Đời sống, 10, 2 – 5.
3. Lưu Hớn Vũ, Nguyễn Ngọc Phương
Dung. [2016]. Giảng dạy biên phiên dịch cho
sinh viên ngành Ngôn ngữ Trung Quốc: Những vấn đề tồn tại và kiến nghị. Kỷ yếu hội thảo
Giảng dạy biên phiên dịch bậc đại học. TP. Hồ
Chí Minh: Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh, 346 – 356.
4. Liang Yuan [梁远], Wen Ri-hao [温日
豪]. [2005]. Kỹ thuật đối dịch Hán – Việt thực
dụng. Bắc Kinh: Nxb. Dân tộc [Trung Quốc].
5.
Zhao Yu-lan [赵玉兰]. [2002]. Giáo
trình dịch Việt – Hán. Bắc Kinh: Nxb. Đại học
Bắc Kinh [Trung Quốc].
Số 02 [03/2017] 67 This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
Video liên quan