Giao trình Luật quốc tế Học viện Ngoại giao


  1. Thư viện số - Học viện Báo chí và Tuyên truyền
  2. Giáo trình
  3. Giáo trình

Please use this identifier to cite or link to this item: //thuvien.ajc.edu.vn:8080/dspace/handle/123456789/7378

Title:  Giáo trình luật quốc tế : Dùng trong các trường đại học chuyên ngành luật, ngoại giao
Authors: 
Chu, Mạnh Hùng
Nguyễn, Toàn Thắng,...
Keywords:  Luật quốc tế;Giáo trình
Issue Date:  2012
Publisher:  H.: Giáo dục Việt Nam
Abstract:  Những vấn đề lý luận cơ bản về luật quốc tế và mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia. Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế và chủ thể của luật quốc tế. Giới thiệu các ngành luật thuộc hệ thống pháp luật quốc tế như luật điều ước quốc tế, luật biển quốc tế, luật hàng không quốc tế, luật tổ chức quốc tế, luật ngoại giao và lãnh sự...
Description:  Tái bản lần thứ 1.- 385tr.
URI:  //thuvien.ajc.edu.vn:8080/dspace/handle/123456789/7378
Appears in Collections: Giáo trình

Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.

Nội dung:

Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về luật quốc tế và mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia

Chương 2: Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế

Chương 3: Chủ thể của luật quốc tế

Chương 4: Luật điều ước quốc tế

Chương 5: Dân cư trong luật quốc tế

Chương 6: Lãnh thổ trong luật quốc tế

Chương 7: Luật biển quốc tế

Chương 8: Luật hàng không quốc tế

Chương 9: Luật tổ chức quốc tế

Chương 10: Luật ngoại giao và lãnh sự

Chương 11: Giải quyết tranh chấp quốc tế

Chương 12: Cơ quan tài phán quốc tế

Chương 13: Trách nhiệm pháp lý quốc tế

Giá sản phẩm trên Tiki đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh, thuế nhập khẩu [đối với đơn hàng giao từ nước ngoài có giá trị trên 1 triệu đồng].....

Mở đầu :

Xu hướng toàn cầu hóa đã tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, các quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng nhiều và phát triển trên nhiều lĩnh vực. Bên cạnh những thành quả rất to lớn mà quan hệ hợp tác quốc tế mang lại thì những nguy cơ tiềm ẩn sự mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình thiết lập các mối quan hệ cũng không phải là nhỏ. Khi đó các tranh chấp quốc tế xảy ra, cùng với sự phát triển của quan hệ quốc tế các tranh chấp quốc tế ngày càng nhiều và có tính chất phức tạp hơn. Nên vấn đề đặt ra ở đây là làm sao để giải quyết các tranh chấp quốc tế mà không làm ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao giữa các nước và đặc biệt là tránh gây xung đột ảnh hưởng tới hòa bình và an ninh các chủ thể tranh chấp quốc tế nói riêng và thế giới nói chung. Chính vì thế mà việc nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn các phương thức hòa bình để giải quyết tranh chấp quốc tế là rất cần thiết. Phương thức giảiquyết tranh chấp thông qua cơ quan tài phán là một trong số đó, phương thức này đã đang chứng minh được những điểm ưu việt của mình trong giải quyết các tranh chấp quốc tế. Vì vậy, ta sẽ tìm hiểu một vài hiểu biết về Luật quốc tế thông qua 10 câu hỏi nhận định đúng/ sai này để hiểu rõ bản chất của Luật quốc tế đối với quốc gia mình.

  1. Công nhận quốc gia là một điều kiện tiên quyết để một thực thế xem là quốc gia.

Căn cứ vào quy định của Điều 1 Công ước Montevideo năm 1933 về quyền và nghĩa vụ quốc gia thì một thực thể được coi là quốc gia theo pháp luật quốc tế phải có bốn yếu tố cơ bản sau: [1] Dân cư thường xuyên, [2] Lãnh thổ được xác định; [3] Chính phủ; [4] Năng lực tham gia vào các quan hệ với các chủ thể quốc tế khác. Việc thừa nhận một thực thể có tư cách quốc gia trong quan hệ quốc tế thường dựa vào các tiêu chí nêu trên nhưng một quốc gia đang tồn tại trong thực tế có xác định sẽ thiết lập quan hệ với thực thể có đầy đủ tiêu chí của một quốc gia, mới xuất hiện trong đời sống quốc tế ở cấp độ quan hệ quốc gia hay không lại không do những tiêu chí này quyết định. Nói cách khác, một thực thể có đủ các yếu tố cấu thành quốc gia nhưng không thể buộc các quốc gia khác phải công nhận tư cách quốc gia của thực thể này trong một quan hệ song phương. Việc công nhận và thiết lập quan hệ hợp tác giữa các quốc gia với nhau hoàn toàn tùy thuộc vào ý chí và mong muốn chủ quan của các quốc gia trên cơ sở chủ quyền quốc gia. Như vậy, nhận định trên là sai, công nhận quốc gia chỉ là một trong bốn tiêu chí để quyết định một thực thể xem là một quốc gia, công nhận quốc gia chỉ là yếu tố cần chứ không phải điều kiện tiên quyết.

  1. Luật pháp quốc tế nghiêm cấm hoàn toàn tất cả trường hợp sử dụng vũ lực.

Theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc, nhận định trên là sai. Tại Khoản 4 Điều 2 Hiến chương Liên Hợp quốc xác lập nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực với quy định: “ Tất cả các quốc gia thành viên của Liên Hợp quốc từ bỏ đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế chống lại sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào cũng như những cách khác trái với những mục đích của Liên Hợp quốc ”. Tuy nhiên, Hiến chương cũng thừa nhận hai trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc này là: trường hợp quốc gia thực hiện quyền tự vệ khi bị tấn công vũ trang theo Điều 51 và hành động của Hội đồng bảo an tiến hành hoặc cho phép sử dụng vũ lực để duy trì, khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế theo Điều 42. Về nguyên tắc cần thiết, quốc gia thực hiện quyền tự vệ phải chỉ ra rằng hành động tự vệ của họ là lựa chọn duy nhất có sẵn để có thể đẩy lùi cuộc tấn công vũ trang. Nếu cuộc tấn công vũ trang đã chấm dứt, hoặc chưa diễn ra việc thực hiện quyền tự vệ của quốc gia được xem là không cần thiết. Quy định của Hiến chương điều chỉnh hai vấn đề pháp lý về quyền tự vệ: xác định trường hợp quốc gia được quyền tự vệ khi bị tấn công vũ trang và quy định điều kiện về thủ tục thông báo của quốc gia cho Hội đồng bảo an khi thực hiện quyền tự vệ. Ngoài những nội dung trên, tập quán quốc tế còn quy định quốc gia phải tuân thủ nguyên tắc cần thiết và tương xứng khi thực hiện quyền tự vệ.

  1. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác là một nguyên tắc tập quán quốc tế

Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác là một nguyên tắc tập quán quốc tế ràng buộc pháp lý mọi quốc gia, đó là nhận định đúng. Trước đó, nội dung tương tự cũng đã được Đại hội đồng ghi nhận trong Tuyên bố về việc không thể chấp nhận hành vi can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác [Nghị quyết 2131 năm 1965]. Khi tổ chức Liên hợp quốc ra đời, Hiến chương của tổ chức này đã cụ thể hóa nội dung của nguyên tắc tại khoản 7 điều 2, ” Tổ chức Liên hợp quốc không có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền nội bộ của bất kì quốc gia nào”. Nghĩa vụ không can thiệp vào công việc của quốc gia khác cũng đồng thời nghĩa vụ này cũng được đặt ra cho tất cả các thành viên của cộng đồng quốc tế. Dưới tác động mạnh mẽ của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, trong khuôn khổ Liên hợp quốc, Nghị quyết 2625 về nguyên tắc “không can thiệp vào công việc nội bộ” được thông qua năm 1965 với việc “tuyên bố cấm can thiệp vào công việc nội bộ, bảo vệ độc lập và chủ quyền của các quốc gia”. Đến nay, nguyên tắc này còn được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng khác như: Tuyên bố của liên hợp quốc về trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa năm 1960, Tuyên bố cuối cùng của hội nghị các nước Á Phi năm 1955 tại Băng-đung, Định ước Henxinki năm 1975, Hiệp ước Giơnevơ năm 1954 về

coi là phương tiện bổ trợ cho quá trình thực hiên Luật quốc tế, giúp cho việc hiểu đúng và thực hiện đúng Luật quốc tế trong thực tiễnính chất bổ trợ được hiểu là không chứa đựng trực tiếp các quy phạm luật pháp quốc tế mà là chỉ dấu để xác định sự tồn tại của các quy phạm đó hoặc sử dụng để bổ trợ giải thích các quy phạm. Nguồn hỗ trợ có vai trò trong việc giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật quốc tế trong từng trường hợp cụ thể [khi quy định trong điều ước quốc tế còn mập mờ hay do tập quán quốc tế không thành văn nên khó xác định nội dung]; Góp phần làm sáng tỏ các quy định của luật quốc tế, tạo tiền đề quan trọng để các chủ thể luật quốc tế có cơ hội tiếp cận và giải thích luật quốc tế theo nghĩa chung thống nhất.

  1. Điều ước quốc tế có hiệu lực pháp lí cao hơn tập quán quốc tế và các nguyên tắc chung của pháp luật.

Khi đề cập về mỗi quan hệ qua lại giữa điều ước quốc tế và tập quán quốc tế cũng cần làm rõ việc so sánh hiệu lực pháp lý của hai loai nguồn này trong Luật quốc tế nói chung và trong việc điều chỉnh từng quan hệ xã hội cụ thể nói riêngề mặt lý luận, các quy phạm Luật quốc tế dù là quy phạm điều ước hay quy phạm tập quán cũng đều có giá trị pháp lý như nhau. Việc áp dụng loại quy phạm nào của Luật quốc tế là tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực cụ thể, từng phạm vi quan hệ cụ thể, từng mục đích và nhu cầu cụ thể của các chủ thể để điều chỉnh các quan hệ có liên quan đến mình chứ không phải là tuỳ thuộc vào sự phân chia thứ bậc về giá trị pháp lý của hai loai nguồn này. Thông thường, trong giao lưu giữa các quốc gia những mối quan hệ này được điều chỉnh bằng quy phạm điều ước còn những mối quan hệ kia lại được điều chỉnh bằng quy phạm tập quán. Hai loại nguồn này luôn bổ sung cho nhau, thay thế nhau và trong thế giới hiện đại thì quy phạm điều ước là loại nguồn chủ yếu và quy phạm tập quán vẫn có vai trò nhất định với tính chất là một loại nguồn của Luật quốc tế. Như vậy, nhận định trên là sai, điều ước quốc tế cùng với tập quán quốc tế và các nguyên tắc chung của pháp lí có hiệu lực pháp lí ngang nhau. Tuy nhiên, trong thực tiễn quan hệ giữa các quốc gia đôi khi xuất hiện trường hợp cùng một quan hệ xã hội cụ thể có cả quy phạm điều ước và quy phạm tập quán cùng tham gia điều chỉnh.

  1. Lãnh thổ của một quốc gia mở rộng ra tất cả các vùng biển mà các quốc gia đó có quyền tài phán.

Khái niệm: theo Công ước về Luật biển năm 1982 quy định rằng: biển cả là tất cả những phần biển không thuộc vùng đặc quyền kinh tế, vùng lãnh hảu hoặc vùng nội thủy của một quốc gia đồng thời cũng không vùng biển giữa các đảo của một quốc gia quần đảo [Điều 86]. Biển cả hay công hải không thuộc chủ quyền và quyền tài phán của bất kỳ quốc gia nào vì: Thứ nhất, biển cả là tất cả những phần biển không thuộc vào vùng đặc quyền kinh tế, vùng lãnh hải và

vùng nội thủy của một quốc gia đồng thời cũng không thuộc vào vùng biển giữa các đảo của một quốc gia quần đảo. Đậy là vùng biển không phải tuân theo luật pháp của một quốc gian nào ven biển mà chỉ tuân theo luật Biển quốc tế. Thứ hai, mọi quốc gia trên thế giới dù có biển hay không có biển đều có quyền tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do đánh cá, tự do xây dựng các đảo nhân tạo. Thứ ba, tất cả các tàu thuyền đi lại trên vùng biển này có thể treo quốc kỳ của nước mình có địa vị pháp lý ngang nhau [tàu thuyền ấy chỉ chịu quyền tài phán của các nước mà nó mang quốc kỳ]. Về nguyên tắc, càng xa đất liền thì quyền tài phán của quốc gia ven biển càng giảm dần cho tới khi kết thúc ở ranh giới ngoài của thềm lục địa, trừ những trường hợp đặc biệt áp dụng quyền tài phán đối với cá nhân, tàu thuyền, tàu bay mang quốc tịch của quốc gia hoạt động ở bên ngoài lãnh thổ quốc gia. Tóm lại, lãnh thổ của một quốc gia mở rộng ra tất cả các vùng biển mà các quốc gia đó có quyền tài phán là nhận định chưa chính xác.

  1. Cộng hòa Kosovo là một quốc gia – chủ thể của luật quốc tế.

Luật quốc tế là hệ thống các nguyên tắc và quy phạm điều chỉnh quan hệ phát sinh giữa các quốc gia ở những cấp độ và khuôn khổ hợp tác khác nhau, về phương diện khoa học và pháp lý, việc xác định một thực thể là chủ thể của Luật quốc tế thường phải dựa trên các dấu hiệu cơ bản: một là, có sự tham gia vào những quan hệ quốc tế do luật quốc tế điều chỉnh [tức là tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế]; hai là, có ý chí độc lập [không lệ thuộc vào các chủ thể khác] trong sinh hoạt quốc tế; ba là, có đầy đủ quyền và nghĩa vụ riêng biệt đối với các chủ thể khác thuộc phạm vi điều chỉnh của luật quốc tế; bốn là, có khả năng độc lập gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do những hành vi mà chủ thể đã thực hiên gây ra. Căn cứ vào các dấu hiệu nêu trên, chủ thể luật quốc tế là thực thể độc lập tham gia vào những quan hệ do luật quốc tế điều chỉnh, có đầy đủ quyền, nghĩa vụ và khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế từ những hành vi mà chính chủ thể thực hiện. Đối với trường hợp cộng hòa Kosovo tách ra khỏi cộng hòa Serbia thì có gần 100 quốc gia công nhận Kosovo là 1 quốc gia tuy nhiên một nửa thế giới vẫn duy trì quan điểm Kosovo là một tỉnh thuộc cộng hòa Serbia. Như vậy, đối với nhận định của đề bài thì xét theo tình hình thực tế Kosovo được nước nào công nhận thì đối xử như một quốc gia, còn không công nhận thì đối xử như một tỉnh thuộc cộng hòa Serbia.

  1. Cam kết net zero của Thủ tướng chính phủ tại Hội nghị COP 26 [tháng 11/2021] tạo ra nghĩa vụ pháp lý cho Việt Nam.

Nghĩa vụ pháp lý bao gồm những xử sự sau: Phải tiến hành một số hoạt động

nhất định; Phải kiềm chế không thực hiện một số hoạt động nhất định; Phải chịu

trách nhiệm pháp lý khi xử sự không đúng với những quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, hội nghị COP 26 bàn về biến đổi khí hậu có liên quan trực tiếp đến

\

Danh mục tài liệu tham khảo :

  1. Giáo trình Luật quốc tế - Đại học Luật Hà Nội – NXB Công an nhân dân

    1. Chủ biên: TS. Lê Mai Anh.
  2. Giáo trình Luật quốc tế - Đại học Huế – NXB Công an nhân dân 2018. Chủ biên: Nguyễn Trung Tín.

  3. Luật điều ước quốc tế 2016 số 108/2016/QH

  4. Tiểu luận về luật biển quốc tế - Hà Phương Nhi – 2010

  5. Nguyễn Hồng Thao, Những điều cần biết về luật biển, NXB Công an nhân dân Hà Nội, 1997

  6. Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế kí kết giữa các quốc gia

  7. iuscogens-vie/

  8. legal.un/ilc

  9. canhsatbien/portal/tro-giup-ngu-dan/quyen-tai-phan-cua-viet- nam-trong-cac-vung-bien-viet-nam-va-mot-so-chu-y-doi-voi-luc-luong- canh-sat-bien?fbclid=IwAR1mJA42XeAPjwwGuKAf2- LuJQckUfAoriEWTXep-tlFGDkKGEg-5ZPCdbM 10:nhandan/ho-so-tu-lieu/Kosovo-v%C3%A0-n%E1%BB%81n- %C4%91%E1%BB%99c-l%E1%BA%ADp-kh%C3%B4ng-tr%E1%BB %8Dn-v%E1%BA%B9n-490041? fbclid=IwAR1VnYoR_wzYqgJK6s8VJF4VBTbJj_0_tJ1U9JnyxPhbgrAw rAytYyHuAuY

  10. baochinhphu/hoi-nghi-cop26-be-mac-voi-thoa-thuan-lich-su- 102303865

Chủ Đề