Hình thức sáng tác và lưu truyền của văn học viết

Sau quá trình đổi mới, sự quan tâm đến những giá trị phong phú của đời sống đã tác động vô cùng mạnh mẽ, đánh thức văn học trở lại với những chức năng, nhiệm vụ và đặc trực riêng. Văn học chính là nghệ thuật ngôn từ, do đó khi văn học đổi mới sẽ kéo theo sự chuyển biến đa dạng trong cấu trúc, các kiểu văn bản và phương thức biểu đạt, các thể loại nhằm phản ánh chân thực nhất nhu cầu của con người, cuộc sống.

Khái niệm về thể loại văn học Việt Nam

Theo đó, chúng ta có thể hiểu đơn giản về khái niệm thể loại văn học chính là phương thức để tái hiện lại đời sống và các thể thức để cấu tạo văn bản. Ví dụ như cùng viết về đề tài là người mẹ trong chiến tranh, nhà thơ Tố Hữu viết về người mẹ ở hậu phương Nam thông qua tâm hồn người lính với bài thơ lục bát trữ tình [bài Bầm ơi]. Còn nhà thơ Nguyễn Thi thì lại về về người mẹ, người vợ [chị Út Tịch] đang cùng chồng, đồng bào quê hương cầm súng đánh giặc [tác phẩm Người mẹ cầm súng].

Hiện nay, trong văn học Việt Nam có nhiều thể loại khác nhau, mời các bạn cùng tham khảo những thông tin chi tiết về thể loại văn học, các đặc trưng cơ bản của từng thể loại qua phần 2 của bài viết để tìm ra câu trả lời cho các bài tập văn học của bạn.

Văn học dân gian hay còn được biết đến với cái tên khác là văn học khẩu truyền, tức là truyền miệng. Đây là thể loại văn học với những sáng tác truyền miệng của các tầng lớp nhân dân, phát sinh từ thời công xã nguyên thủy, phát triển dần qua từng thời kỳ lịch sử đến nay. 

Đặc trưng của văn học dân gian

Văn học dân gian Việt Nam có những đặc trưng cơ bản như sau:

- Tính nguyên hợp thể hiện sự hòa lẫn nhiều hình thức khác nhau của ý thức xã hội trong các thể loại văn học. Đối với văn học dân gian thì không chỉ là nghệ thuật ngôn từ thuần túy mà còn là sự kết hợp của rất nhiều phương tiện nghệ thuật khác nhau. Cụ thể các phương tiện này tồn tại dưới 3 dạng là ẩn [tồn tại trong trí nhớ của những tác giả dân gìn], cố định [thể hiện bằng văn tự] và hiện [tồn tại qua diễn xướng].

- Văn học dân gian có tính tập thể bởi đó là những sáng tác của nhân dân nhưng không phải tất cả nhân dân đều là tác giả. Tính tập thể này thể hiện chủ yếu thông qua quá trình con người sử dụng các tác phẩm văn học.

- Tính truyền miệng: đây là đặc trưng nổi bật của thể loại văn học dân gian và nó được lưu truyền từ đời này qua đời khác thông qua hình thức là kể chuyện.

- Tính dị bản: cũng bởi văn học dân gian có tính truyền miệng từ đời này sang đời khác nên chắc chắn sẽ có dị bản khi được kể từ người này qua người kia.

Các thể loại trong văn học dân gian

Toàn bộ các đặc trưng trên đều có sự liên kết chặt chẽ, thống nhất với nhau và làm nên những giá trị cốt lõi, cơ bản của văn học dân gian Việt Nam

Trong văn học dân gian thì lại bao gồm nhiều thể loại nhỏ khác như là thần thoại, truyền thuyết, sử thi, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu đố, ca dao, vè,…

>> Xem thêm: Câu trần thuật là gì

2.2. Thể loại văn học viết

Thể loại thứ 2 trong hệ thống văn học Việt Nam đó chính là văn học viết. Khác với văn học dân gian, văn học viết từ khi hình thành đã tạo nên một thời kỳ lịch sử oanh liệt, rực rỡ.

Văn học viết dù ra đời muộn hơn [khoảng thế kỷ 10] nhưng vẫn trở thành một bộ phận chủ đạo, đóng vai trò quan trọng trong văn học Việt Nam, có vị trí thống trị nền văn học của dân tộc. Sự phát triển của thể loại văn học viết dựa trên sự ảnh hưởng của các yếu tố truyền thống và quốc tế.

Đặc trưng của văn học viết

Trên thực tế, thể loại văn học viết được xây dựng dựa trên văn hóa và văn học dân gian. Minh chứng rõ nhất đó là ca dao, tục ngữ đều xuất hiện ở các tác phẩm thơ Nôm, truyện Kiều hay Quốc âm thi tập. Các yếu tố cổ tích, thần thoại, truyền thuyết,… cùng thường xuyên có mặt trong các tác phẩm văn học viết.

Do chịu ảnh hưởng lớn và trực tiếp từ văn hóa, văn học Trung Hoa nên phần lớn thời phong kiến Việt Nam, các tác phẩm văn học viết đều được tạo nên bằng chữ Hán, mượn các thể loại văn học Hán như là tiểu thuyết chương hồi, thơ Đường, hịch, cáo,… Không chỉ vậy mà các tác phẩm này còn được viết bằng chữ Nôm như là thơ Nôm theo phong cách Đường luật của Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan,…

Bên cạnh đó, văn học viết Việt Nam trong giai đoạn chuyển từ văn học cổ điển sang văn học hiện đại còn chịu ảnh hưởng lớn từ văn học Pháp. Các thể thơ Đường luật đã dần bị phá bỏ trong những sáng tác của nhiều tác giả. Thay vào đó thì người ta thường làm thơ, văn theo thể loại tự do. Hàng loạt các phóng sự, truyện ngắn, tiểu thuyết của các tác giả lớn như là Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng,… đều được viết theo phong cách Tây hóa.

Các thể loại trong văn học viết

Và trong văn học viết Việt Nam cũng có nhiều thể loại được chia thành 2 giai đoạn khác nhau. Cụ thể đối với từng giai đoạn sẽ phát triển những thể loại riêng bao gồm:

- Thời kỳ văn học trung đại [thế kỷ 10 – 19] có các thể loại là trữ tính, tự sự với các tác phẩm được viết chủ yếu bằng chữ Hán, trong diễn đạt thường có nhiều điển tích, điển cố, lối tượng trưng, ước lệ. Các tác phẩm chủ yếu tuân thủ theo thể loại cáo, hịch, tiểu thuyết, thơ Đường,…

- Thời kỳ văn học hiện đại [từ thế kỷ 20 đến nay] gồm các thể loại tự sự, trữ tình, kịch với các sáng tác chủ yếu viết bằng chữ quốc ngữ, lối diễn đạt giàu hình ảnh. Các tác phẩm như là phóng sự, ký sự, truyện ngắn, tùy bút,… hiện đang rất được ưa chuộng.

>> Xem thêm: Dạy tiếng việt cho người nước ngoài

2.3. Thể loại văn học mạng

Một trong những thể loại văn học đang rất được ưa chuộng trong hệ thống văn học Việt Nam hiện nay đó chính là văn học mạng – web fiction. Thể loại này thường xuất hiện trong các giáo trình, luận văn khoa học. Cụ thể thể loại này bao gồm các tác phẩm, luận văn phê bình được xuất bản trên không gian ảo qua mạng Internet.

Thể loại văn học mạng

Theo quá trình phát triển nhanh chóng của làn sóng công nghệ toàn cầu thì dòng văn học này được xếp vào dạng tồn tại độc lập nhưng vẫn có sự tương hỗ với các thể loại lâu đời là văn học dân gian, văn học viết.

Một tác phẩm nổi tiếng ở giai đoạn sơ khai cho văn học mạng chính là bài thơ “Đôi dép” của tác giả Nguyễn Trung Kiên. Tác phẩm này thường được giới khảo cứu dẫn chứng như một thành công của sức ảnh hưởng đến từ công nghệ thông tin. Đồng thời thì thể loại văn học mạng này cũng được đánh giá là nhân tố quyết định đến việc quảng bá văn học, ngôn ngữ Việt Nam đến các quốc gia khác trên toàn thế giới.

Hy vọng rằng qua những thông tin được tổng hợp trên đây, bạn đọc đã nắm rõ được các thể loại văn học Việt Nam gồm những gì và giải đáp được những thắc mắc liên quan đến kiến thức giúp cho các bạn tìm được phương pháp làm sao để học giỏi văn trong quá trình học tập cũng như thi cử nhé.

[CẬP NHẬT] Các kiểu văn bản và phương thức biểu đạt chủ yếu

Có các kiểu văn bản và phương thức biểu đạt nào phổ biến hiện nay? Cách áp dụng các phương thức, kiểu văn bản như thế nào? Để giải đáp những thắc mắc này, mời bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây nhé.

Các kiểu văn bản và phương thức biểu đạt

☆☆☆☆☆ 93.11

Văn mẫu

KẾT QUẢ CẦN ĐẠT * Nắm được các đặc trưng cơ bản của văn học dân gian và khái niệm về các thể loại của văn học dân gian Việt Nam. * Hiểu rõ vị trí, vai trò và những giá trị to lớn của văn học dân gian trong mối quan hệ với văn học viết và đời sống văn hoá dân tộc. Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.

I – ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN

1. Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng [tính truyền miệng] Ngôn từ truyền miệng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên nội dung, ý nghĩa và thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn học dân gian nhằm phản ánh sinh động hiện thực cuộc sống. Văn học dân gian tồn tại, lưu hành theo phương thức truyền miệng. Đây là điểm khác biệt rất cơ bản giữa văn học dân gian và văn học viết. Trong khi văn học viết được lưu giữ bằng chữ viết thì văn học dân gian lại được truyền miệng từ người này sang người khác, qua nhiều thế hệ và các địa phương khác nhau. Quá trình truyền miệng vẫn được tiếp tục kể cả khi tác phẩm văn học dân gian đã được ghi chép lại. Nói truyền miệng là nói đến quá trình diễn xướng dân gian hào hứng và sinh động. Người ta có thể nói, kể, hát, diễn tác phẩm văn học dân gian[1]. Ở đây, lời [tức phần ngôn từ truyền miệng] ở một số thể loại có thể kết hợp với các loại hình nghệ thuật khác [lời thơ trong ca dao thường được hát theo làn điệu; một vở chèo khi trình diễn bao gồm cả lời, nhạc, hát, múa và diễn xuất của nghệ nhân]. 2. Văn học dân gian là sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể [tính tập thể] Văn học viết là sáng tác cá nhân, trong khi đó, văn học dân gian lại là kết quả của quá trình sáng tác tập thể. Quá trình sáng tác tập thể diễn ra như sau: Lúc đầu, một người khởi xướng, tác phẩm hình thành và được tập thể tiếp nhận; sau đó, những người khác [có thể thuộc các địa phương khác nhau hoặc các thế hệ khác nhau] tiếp tục lưu truyền và sáng tác lại làm cho tác phẩm biến đổi dần, thường là tác phẩm được làm phong phú hơn, hoàn thiện hơn về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật. Văn học dân gian dần dần đã trở thành tác phẩm chung của tập thể. Mỗi người đều có thể tiếp nhận, sử dụng, sữa chữa, bổ sung tác phẩm văn học dân gian theo quan niệm và khả năng nghệ thuật của mình.

Tính truyền miệng và tính tập thể là những đặc trưng cơ bản, chi phối, xuyên suốt quá trình sáng tạo và lưu truyền tác phẩm văn học dân gian, thể hiện sự gắn bó mật thiết của văn học dân gian với các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.

Sinh hoạt cộng đồng là những sinh hoạt chung của nhiều người như lao động tập thể, vui chơi, ca hát tập thể, lễ hội,... Phần lớn tác phẩm văn học dân gian ra đời, truyền tụng và phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt cộng đồng [một số điệu hò trên sông nước làm cho các hoạt động kéo lưới, chèo thuyền trở nên sôi nổi, nhịp nhàng hơn...]. Có thể nói, sinh hoạt cộng đồng là môi trường sinh thành, lưu truyền, biến đổi của văn học dân gian, nó chi phối cả nội dung và hình thức của tác phẩm văn học dân gian.

II – HỆ THỐNG THỂ LOẠI CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM

Văn học dân gian Việt Nam cũng như văn học dân gian của nhiều dân tộc khác trên thế giới có những thể loại chung và riêng, hợp thành một hệ thống. Mỗi thể loại phản ánh cuộc sống theo những nội dung và cách thức riêng. Hệ thống thể loại của văn học dân gian Việt Nam gồm có: 1. Thần thoại: Tác phẩm tự sự dân gian thường kể về các vị thần, nhằm giải thích tự nhiên, thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên và phản ánh quá trình sáng tạo văn hoá của con người thời cổ đại. 2. Sử thi: Tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hoặc nhiều biến cố lớn diễn ra trong đời sống cộng đồng của dân cư thời cổ đại. 3. Truyền thuyết: Tác phẩm tự sự dân gian kể về sự kiện và nhân vật lịch sử [hoặc có liên quan đến lịch sử] theo xu hướng lí tưởng hoá, qua đó thể hiện sự ngưỡng mộ và tôn vinh của nhân dân đối với những người có công với đất nước, dân tộc hoặc cộng đồng cư dân của một vùng. 18 4. Truyện cổ tích: Tác phẩm tự sự dân gian mà cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định, kể về số phận con người bình thường trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo và lạc quan của nhân dân lao động. 5. Truyện ngụ ngôn: Tác phẩm tự sự dân gian ngắn, có kết cấu chặt chẽ, thông qua các ẩn dụ [phần lớn là hình tượng loài vật] để kể về những sự việc liên quan đến con người, từ đó nêu lên những bài học kinh nghiệm về cuộc sống hoặc về triết lí nhân sinh. 6. Truyện cười: Tác phẩm tự sự dân gian ngắn, có kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ, kể về những sự việc xấu, trái tự nhiên trong cuộc sống, có tác dụng gây cười, nhằm mục đích giải trí, phê phán. 7. Tục ngữ: Câu nói ngắn gọn, hàm súc, phần lớn có hình ảnh, vần, nhịp, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn, thường được dùng trong ngôn ngữ giao tiếp hằng ngày của nhân dân. 8. Câu đố: Bài văn vần hoặc câu nói thường có vần, mô tả vật đố bằng những hình ảnh, hình tượng khác lạ để người nghe tìm lời giải, nhằm mục đích giải trí, rèn luyện tư duy và cung cấp những tri thức về đời sống. 9. Ca dao: Lời trữ tình dân gian, thường kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, được sáng tác nhằm diễn tả thế giới nội tâm của con người. 10. Vè: Tác phẩm tự sự dân gian bằng văn vần, có lối kể mộc mạc, phần lớn nói về các sự việc, sự kiện thời sự của làng, của nước. 11. Truyện thơ: Tác phẩm tự sự dân gian bằng thơ, giàu chất trữ tình, phản ánh số phận và khát vọng của con người khi hạnh phúc lứa đôi và sự công bằng xã hội bị tước đoạt. 12. Chèo: Tác phẩm sân khấu dân gian, kết hợp các yếu tố trữ tình và trào lộng để vừa ca ngợi những tấm gương đạo đức, vứa phê phán, đả kích cái xấu trong xã hội. [Ngoài chèo, sân khấu dân gian còn có những hình thức khác như tuồng dân gian, múa rối, các trò diễn mang tính truyện.]

III – NHỮNG GIÁ TRỊ CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM

1. Văn học dân gian là kho tri thức vô cùng phong phú về đời sống các dân tộc Tri thức trong văn học dân gian thuộc đủ mọi lĩnh vực của đời sống: tự nhiên, xã hội và con người. Tri thức dân gian phần lớn là những kinh nghiệm lâu đời được nhân dân đúc kết từ thực tiễn. Tri thức dân gian thường được trình bày bằng ngôn ngữ nghệ thuật, vì thế hấp dẫn người đọc, người nghe, dễ phổ biến, dễ tiếp thu, có sức sống lâu bền với thời gian. Tri thức dân gian thể hiện trình độ và quan điểm nhận thức của nhân dân, vì vậy có sự khác biệt so với nhận thức của giai cấp thống trị cùng thời, đặc biệt là về các vấn đề lịch sử, xã hội. Việt Nam có 54 dân tộc người. Mỗi tộc người có một kho tàng văn học dân gian riêng, vì thế vốn tri thức của toàn dân tộc vô cùng phong phú và đa dạng. 2. Văn học dân gian có giá trị giáo dục sâu sắc về đạo lí làm người Trước hết văn học dân gian giáo dục con người tinh thần nhân đạo và lạc quan. Đó là tình yêu thương đối với đồng loại, là tinh thần đấu tranh không biết mệt mỏi để bảo vệ và giải phóng con người khỏi những cảnh bất công, là niềm tin bất diệt vào chiến thắng cuối cùng của chính nghĩa, của cái thiện. Văn học dân gian góp phần hình thành những phẩm chất tốt đẹp: lòng yêu quê hương, đất nước, tinh thần bất khuất, đức kiên trung và vị tha, tính cần kiệm, óc thực tiễn,... 3. Văn học dân gian có giá trị thẩm mĩ to lớn, góp phần quan trọng tạo nên bản sắc riêng cho nền văn học dân tộc Văn học dân gian được chắt lọc, mài giũa qua không gian và thời gian, khi đến với chúng ta đã thành những viên ngọc sáng. Nhiều tác phẩm đã trở thành những mẫu mực về nghệ thuật để cho chúng ta học tập. Những truyện kể dân gian làm cho “từ đứa trẻ đầu xanh đến cụ già tóc bạc đều truyền tụng và yêu dấu” [tựa sách Lĩnh Nam chích quái]. Những lời ca tiếng hát ân tình ngày xưa vẫn còn làm say đắm lòng người hôm nay và mai sau. Nhờ có giá trị nghệ thuật to lớn như vậy nên trong nhiều thế kỉ, khi văn học viết mới hình thành, văn học dân gian đóng vai trò chủ đạo. Khi văn học viết đã phát triển, văn học dân gian vẫn là nguồn nuôi dưỡng, là cơ sở của văn học viết. Trong tiến trình lịch sử, văn học dân gian đã phát triển song song cùng văn học viết, làm cho nên văn học Việt Nam trở nên phong phú, đa dạng và đậm đà bản sắc dân tộc.

HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

1. Trình bày từng đặc trưng cơ bản của văn học dân gian. 2. Văn học dân gian Việt Nam có những thể loại cơ bản nào? Hãy định nghĩa ngắn gọn và nêu ví dụ về từng thể loại. 3. Tóm tắt nội dung các giá trị của văn học dân gian.

GHI NHỚ

* Văn học dân gian tồn tại dưới hình thức truyền miệng thông qua diễn xướng. Trong quá trình lưu truyền, tác phẩm văn học dân gian được tập thể không ngừng sáng tạo và hoàn thiện. Văn học dân gian gắn bó và phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.

* Văn học dân gian có nhiều giá trị to lớn về nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, cần được trân trọng và phát huy.

Áng văn Nôm Truyện Kiều bản Chiêm Vân Thị dưới tựa Thúy Kiều Truyện tường chú viết bằng kiểu chữ lệ thư do Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa xuất bản năm 1967

Khác với văn học dân gian, văn học viết hình thành đã "mở ra một thời kỳ lịch sử mới, oanh liệt, rực rỡ" [Đặng Thai Mai]. Sự va chạm gần 10 thế kỷ giữa nền Hán học và văn hóa dân gian Việt tuy có phần làm văn hóa, tín ngưỡng, phong tục cũng như nghệ thuật của dân tộc Việt bị "sứt mẻ, mất mát" nhưng cũng tác động không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của văn học viết.

Nhiều phát hiện mới của khảo cổ học chứng minh từ thời đại Hùng Vương, người Việt đã có một nền văn hóa với nhiều nét cá tính khá rõ rệt, thể hiện qua nhiều thần thoại và truyền thuyết. Tiếp theo một thời gian dài tiếp xúc với nền văn hóa Trung Quốc tiên tiến hơn nhiều mặt, người Việt đã biết cách chuyển hóa chữ Hán trên nền tảng văn hóa Việt, đọc theo thanh điệu của tiếng Việt mà vẫn hiểu được một cách chính xác các giá trị tư tưởng, văn hóa, triết học của Trung Quốc lẫn của người Việt.

Từ truyền thống văn hóa có sẵn, Hán học tiếp sức cho người Việt hình thành nền văn học độc lập của dân tộc và là nền tảng, cơ sở để sáng tạo ra chữ viết đầu tiên: chữ Nôm.

Sự thịnh vượng của Hán học thời kỳ nước Việt giành được quyền tự chủ so với thời kỳ nội thuộc cho thấy tính chất trang trọng, thâm trầm của loại chữ viết này rất phù hợp với kiểu nhà nước phong kiến và ý thức hệ Nho giáo lúc bấy giờ. Thời kỳ này, trường học, khoa thi đều dùng chữ Hán như một "phương tiện giao tế tao nhã" để ghi chép lịch sử, truyền đạt ý chỉ, thể hiện quan hệ, tình cảm vua-tôi và các tầng lớp nho sĩ. Cùng với những thăng trầm của lịch sử, văn học viết dần dần có được những vận hội mới, tạo được vị trí độc lập của mình sau một thời gian dài văn-sử-triết bất phân. Ba dòng tư tưởng Nho-Phật-Lão trở thành nguồn cảm hứng cho văn chương học thuật. Bên cạnh đó, đời sống tích cực gần thiên nhiên của con người thời kỳ này còn mang lại cho văn học nhiều ẩn dụ cao nhã nhưng cũng rất cận nhân tình.

Về mặt thể loại, hình thức; văn học viết thời kỳ đầu chủ yếu là thơ với hai loại: cổ thể và cận thể - tôn trọng khuôn phép mẫu mực của thơ ca Trung Quốc; ngoài ra theo Dương Quảng Hàm [trong quyển Văn học Việt Nam] thì văn viết trong thời kỳ đầu "có nhiều thể, nhưng có thể chia ra làm ba loại lớn" gồm:

  • Vận văn: tức loại văn có vần
  • Biền văn: tức loại văn không có vần mà có đối [như câu đối]
  • Tản văn hoặc văn xuôi: tức loại văn không có vần mà cũng không có đối.

Cuối thế kỷ 18 trở đi, khi chữ Nôm hình thành thì văn học viết có vài chuyển biến trong sáng tác: văn học từ chiếu cung đình dần thâm nhập vào đời sống thường nhật [văn chương bình dân] và cái tôi cá nhân bắt đầu được đề cập đến. "Bà Chúa thơ Nôm" Hồ Xuân Hương và Truyện Kiều [của Nguyễn Du] được xem là những thành tựu nổi bật của chữ Nôm trong văn học Việt Nam.

Từ khi có việc truyền bá chữ quốc ngữ vào Việt Nam thì diện mạo văn học có những thay đổi sâu sắc và toàn diện. Ngoài ảnh hưởng các dòng tư tưởng truyền thống phương Đông thì sự thâm nhập của phương Tây mang đến cho văn học viết con đường "hiện đại hóa" từ hình thức, thể loại đến tư tưởng và nội dung sáng tác. Riêng về thể loại nếu so sánh văn học viết Việt Nam giữa hai thời kỳ lớn: Văn học Trung đại và Văn học Hiện đại thì có thể hiểu một cách tổng quát về các thể loại chính như sau:

  • Thời kỳ văn học Trung đại [từ thế kỷ 10 đến cuối thế kỷ 19] gồm: tự sự và trữ tình.
  • Thời kỳ văn học Hiện đại [từ đầu thế kỷ 20 đến nay] gồm: tự sựtrữ tìnhkịch.

Sau hơn 10 thế kỷ hình thành và phát triển, văn học viết Việt Nam đạt được những thành tựu nhất định và vẫn đang tiếp tục "dòng chảy" của mình để có thể hội nhập vào nền văn học chung của thế giới.

Video liên quan

Video liên quan

Chủ Đề