Nghiên cứu y khoa trên The giới

Top 5 nghiên cứu y học thế giới đáng chú ý năm 2011

Ngày đăng: 27/12/2011 Lượt xem 1342

Dưới đây là 5 sự kiện y tế hàng đầu do tạp chí Time bình chọn:

1. Tạo ra tế bào gốc từ nhân bản vô tính

Các nhà nghiên cứu thông báo về việc sử dụng một biến thể của chuyển nhân tế bào sinh dưỡng [SCNT] - giống như kỹ thuật tạo ra chú cừu nhân bản vô tính đầu tiên, Dolly - trên cơ thể người. SCNT bao gồm việc thay thế chất liệu di truyền của tế bào trứng bằng ADN từ tế bào trưởng thành, ví dụ như tế bào da. Sau đó trứng được kích thích để phân chia và nếu nó phát triển đầy đủ thì sẽ tạo ra một bản sao giống hệt về mặt di truyền của con vật đó và cung cấp tế bào trưởng thành.

Kỹ thuật này hứa hẹn nhiều triển vọng vì nó có thể sản sinh ra tế bào gốc không chỉ phù hợp với người hiến mà còn loại bỏ nhu cầu sử dụng bào thai. Và rất có thể một ngày nào đó những tế bào gốc này được sử dụng để điều trị các bệnh như tổn thương tuỷ sống và Parkinson.

2. Vắc-xin chống sốt rét đầu tiên trên thế giới

Vắc-xin chống sốt rét đầu tiên được thử nghiệm trên trẻ em ở tiểu vùng Sahara châu Phi đã giúp giảm ½ nguy cơ mắc bệnh sốt rét. Đây quả là một thành tựu đáng kể vì từ trước tới nay chưa từng có một loại vaccin nào phòng ngừa ký sinh trùng sốt rét trên người. Bệnh sốt rét xảy ra ở hàng triệu trẻ em mỗi năm.

3. Thuốc phòng ngừa HIV

Điều trị HIV là cả một chặng đường dài, nhờ có các thuốc kháng retrovirus [ARV] mà có thể làm giảm mật độ vi-rút trong cơ thể, giữ cho cơ thể khoẻ mạnh và giảm nguy cơ lây truyền HIV. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cũng cho thấy các thuốc này không chỉ được dùng trong điều trị cho người nhiễm HIV mà còn có thể được dùng cho những người không có HIV để dự phòng lây nhiễm.

Trong năm 2011, đã có 2 thử nghiệm mang tính đột phá trên nam giới và nữ giới không đồng tính cho thấy những người không có HIV giảm đáng kể nguy cơ nhiễm vi-rút này nếu họ sử dụng thuốc kháng retrovirus Truvada [loại thuốc kết hợp giữa thuốc tenofovir và emtricitabine] hàng ngày.

4. Phát hiện vi khuẩn liên quan với ung thư đại tràng

Tháng 10 vừa qua, 2 nhóm nghiên cứu đã báo cáo các kết quả tương tự về một loại vi khuẩn được gọi là Fusobacteria có nhiều trong các tế bào ung thư đại tràng và có liên quan với tăng tỉ lệ mắc bệnh này. Đây là lần đầu tiên vi khuẩn Fusobacteria được phát hiện là có liên quan với ung thư, song các nghiên cứu trước đây đã cho thấy rằng vi khuẩn này có thể làm tăng nguy cơ viêm loét đại tràng, vốn được xem là một yếu tố nguy cơ gây ung thư đại tràng.

5. Dự báo nguy cơ tử vong do ung thư, tim mạch

Tháng 8 vừa qua các nhà khoa học thuộc Trường Đại học ở Thụy Điển đã báo cáo một xét nghiệm máu đơn giản có thể dự báo những người dễ tử vong do bệnh tim hoặc ung thư. Trong một nghiên cứu kéo dài 12 năm, các nhà nghiên cứu thấy rằng những người có nồng độ enzym cathepsin S cao hơn dễ tử vong hơn so với những người có nồng độ enzym này thấp hơn. Enzym này có xu hướng cao hơn ở những người bị các vấn đề về tim hoặc bị các khối u và có thể góp phần gây xơ vữa động mạch, vì vậy những người có nồng cao enzym này dễ tử vong hơn vì những bệnh này.

Theo

1. "Vắc-xin" loại bỏ khối u ở chuột.

Tháng 1/2018, các nhà nghiên cứu tại Đại học Stanford đã ra thông báo tìm các bệnh nhân ung thư để thực hiện thử nghiệm lâm sàng vắc-xin ung thư sau sau khi họ đã loại bỏ thành công khối u ở chuột.

Nhóm các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng việc tiêm "một lượng nhỏ hai chất kích thích miễn dịch trực tiếp vào khối u rắn ở chuột có thể loại bỏ mọi dấu vết ung thư ở động vật, kể cả ung thư di căn". Cụ thể, các nhà nghiên cứu đã tiến hành thử nghiệm trên 90 con chuột và 87 trong số đó đã được chữa khỏi bệnh ung thư. Với 3 con chuột còn lại, mặc dù ung thư tái phát tuy nhiên các khối u đã thoái lui sau lần điều trị thứ hai. "Tôi tin rằng loại vắc xin này có thể chữa được mọi loại bệnh ung thư, miễn là nó có thể xâm nhập vào hệ thống miễn dịch của cơ thể ", Ronald Levy, MD, giáo sư chuyên nghiên cứu về bệnh ung thư và là tác giả chính của nghiên cứu cho biết.

2. Tháng 4/2018, Hamon, 43 tuổi, người Pháp đầu tiên đã được cấy ghép mặt lần thứ hai thành công trên thế giới. Người đàn ông này mắc chứng u xơ thần kinh loại 1, đây là một dạng rối loạn di truyền gây ra các khối u lành tính, biến dạng trên khuôn mặt. Hamon đã trải qua một ca cấy ghép mặt vào năm 2010 nhưng đến năm 2016 cơ thể anh xuất hiện hiện tượng đảo thải ghép.

Anh sống hai tháng mà không có mặt và sau đó đã được các bác sĩ phẫu thuật người Pháp tiến hành cấy ghép mặt lần thứ hai dưới sự giám sát của Laurent Lantieri - bác sĩ thực hiện ca cấy ghép đầu tiên của Hamon. Ca phẫu thuật đã thành công và mang lại cho Hamon một khuôn mặt mới.

3. Thuốc kê đơn Vascepa được phát hiện có công dụng giảm đáng kể nguy cơ tim mạch lên đến 25%. Mặc dù loại thuốc này chỉ có một hoạt chất là ethyl icosapent đã được FDA cấp phép vào năm 2015 để điều trị cho những người có hàm lượng chất béo trong máu cao, đến năm 2018, công dụng của loại thuốc này trong điều trị tim mạch mới được chính thức công nhận.

"Đây thực sự là nghiên cứu quan trọng nhất trong lĩnh vực giảm rủi ro về tim mạch", Tiến sĩ Matthew Budoff, bác sĩ tim mạch tại UCLA cho biết.

4. Các nhà nghiên cứu đã tìm ra mũi tiêm có thể ngăn ngừa chứng đau nửa đầu. Bệnh thường đi kèm với buồn nôn và nhạy cảm với ánh sáng, âm thanh. Chứng đau nửa đầu ảnh hưởng đến khoảng 39 triệu người Mỹ nhưng việc điều trị cho tình trạng suy nhược gần như không có. Tháng 5/2018, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ [FDA] đã công bố phê duyệt Aimovig, một phương pháp điều trị dự phòng cho chứng đau nửa đầu, được thực hiện mỗi tháng một lần thông qua tiêm.

Đây là loại thuốc đầu tiên được công nhận có tác dụng bằng cách ngăn chặn hoạt động của peptide liên quan đến gen calcitonin, một phân tử có liên quan đến các cơn đau nửa đầu Hiệu quả của Aimovig trong điều trị dự phòng chứng đau nửa đầu được đánh giá cao trong ba thử nghiệm lâm sàng và được ghi nhận có khả năng giảm tần suất chứng đau nửa đầu của bệnh nhân.

5. Các nghiên cứu mới về kiểm soát khả năng sinh sản.

Tháng 3, các nhà nghiên cứu Đại học Washington, Seattle, Washington đã tuyên bố thử nghiệm thành công thuốc tránh thai dành cho nam là dimethandrolone undecanoate hoặc DMAU. Thuốc hoạt động tương tự như thuốc tránh thai cho phụ nữ bằng cách kết hợp các loại hormone nam như testosterone và proestin. Liều lượng uống mỗi ngày một lần, không dùng cho bệnh nhân bị giảm cholesterol HDL. Cơ chế hoạt động của loại thuốc này là ngăn chặn sản xuất tinh trùng và giảm sản xuất testosterone. Tuy nhiên, đây không phải là bước đột phá duy nhất.

Tháng 12, Gizmodo báo cáo rằng các nhà khoa học đã bắt đầu một thử nghiệm lâm sàng lớn để thử nghiệm kiểm soát sinh sản nam bằng gel. Gel, thoa lên lưng và vai mỗi ngày một lần, có chứa sự kết hợp của hợp chất proestin và testosterone được hấp thụ qua da.

Đây là một bước tiến lớn về y tế. Một số người còn cho rằng những phương pháp này thuận tiện hơn các phương pháp kiểm soát sinh sản hiện tại cho phụ nữ.

6. Ketamine, loại ma tuý được ưa chuộng của thập niên 60, có thể giúp điều trị trầm cảm. Tháng 5/2018, Johnson"s johnson, một trong những công ty dược phẩm chuyên về thuốc chống trầm, đã trình bày một số nghiên cứu mới đầy triển vọng. Phiên bản ketamine của họ là thuốc xịt mũi được làm bằng một hợp chất gọi là esketamine, hình ảnh phản chiếu hóa học của ketamine. Trong thử nghiệm lâm sàng của thuốc, các nhà nghiên cứu đã tiến hành cho 236 người trưởng thành bị trầm cảm điều trị bằng thuốc chống trầm cảm truyền thống trong bốn tuần cùng với thuốc xịt mũi esketamine. Một nửa dùng thuốc xịt, nửa còn lại dùng thuốc truyền thống.

Sau 28 ngày, kết quả cho thấy những người sử dụng thuốc xịt thực sự đã có những cải thiện đáng kể về các triệu chứng trầm cảm của họ so với những người dùng loại thuốc truyền thống.

7. Kính áp tròng thông minh có thể theo dõi đường huyết ở những người mắc bệnh tiểu đường để giảm bớt sự bất tiện cho bệnh nhân, nghiên cứu tại Viện Khoa học và Công nghệ Quốc gia Ulsan ở Hàn Quốc. Kính áp tròng mới có khả năng phát hiện nồng độ glucose ở bệnh nhân tiểu đường. Theo thông cáo báo chí, ống kính thông minh được tích hợp các thiết bị điện tử trong suốt, dễ uốn, sử dụng nước mắt để theo dõi nồng độ glucose.

"Những chiếc kính áp tròng thông minh này được làm bằng vật liệu nano trong suốt, do đó không cản trở tầm nhìn của người đeo", Jihun Park - tác giả đầu tiên của sáng chế này cho hay. "Bên cạnh đó, vì hệ thống sử dụng ăng-ten không dây để đọc thông tin cảm biến, không có nguồn năng lượng riêng biệt nên các cảm biến kính áp tròng thông minh họat động nhờ pin." Cho đến nay, các ống kính chỉ mới được thử nghiệm trên thỏ sống, chưa được thử nghiệm ở người.

8. Thuốc ức chế PARP là một bước đột phá trong điều trị ung thư vú và buồng trứng, được sử dụng bởi 20.000 bệnh nhân trên toàn thế giới. PARP, polybo ADP ribose polymerase, là một protein được tìm thấy trong các tế bào có khả năng giúp các tế bào DNA bị tổn thương tự phục hồi. Đây là loại thuốc mới có thể hỗ trợ điều trị và ngăn ngừa sự tiến triển của ung thư vú và buồng trứng, thực hiện chức năng phục hồi, tái cấu trúc các các tế bào ung thư và tế bào chết.

Vào tháng 10, một loại thuốc khác, Lynparza, cũng đã được ghi nhận có khả năng để giảm đáng kể nguy cơ ung thư buồng trứng. Một thử nghiệm lâm sàng cho thấy khi được kết hợp với hóa trị liệu, Lynparza đã ngăn chặn hoặc đảo ngược sự phát triển khối u ở 60% bệnh nhân sau ba năm thử nghiệm, trái ngược với 27% chỉ được điều trị hóa trị. Thuốc được chỉ định dùng cho bệnh nhận ung thư buồng trứng và ung thư vú di căn.

9. Kích thích não sâu [DBS] là một bước đột phá cho bệnh nhân bị liệt do đột quỵ được các nhà nghiên cứu của Phòng khám Cleveland đã sử dụng. Andre Machado, MD, Ph. D. và Kenneth Baker, Ph. D. đã thử nghiệm DBS trên một phụ nữ 59 tuổi bị liệt nửa người sau khi bị đột quỵ do thiếu máu cục bộ. 5 tháng sau khi cô có một điện cực DBS được phẫu thuật cấy ghép trong tiểu não, các nhà nghiên cứu đã thấy các chức năng vận động của người phụ nữ này có sự cải thiện đáng kể.

Tháng 5/2018, nhóm nghiên cứu đã được trao 2 triệu USD từ Viện Y tế Quốc gia để nghiên cứu thêm về lợi ích của DBS ở bệnh nhân đột quỵ. "Nếu nghiên cứu này thành công, nó sẽ mang lại hy vọng mới cho những bệnh nhân bị đột quỵ và bị tê liệt", Machado nói. "Đó là một cơ hội để phép bệnh nhân bị liệt có thể phục hồi được chức năng vận động".

10. Ngày 4/12, lần đầu tiên một bé gái khỏe mạnh đã được sinh ra bằng tử cung của một người đã chết ghép vào cơ thể mẹ. Từ năm 2014, việc sinh con bằng tử cung ghép đã được tiến hành thành công, nhưng đây là trường hợp đầu tiên các bác sĩ tiến hành cấy ghép từ tử cung của người hiến tặng đã qua đời.

Thành công của ca cấy ghép mở ra một cánh cửa mới cho những người không thể mang thai do yếu tố tử cung.

Hàng năm, các nhà nghiên cứu vẫn lặng lẽ phát minh ra nhiều tiến bộ mới cho y học. Dưới đây là 10 đột phá y học lớn đã làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt nền y học năm 2018, theo Thisisinsider.

Theo: Báo SKĐS

Video liên quan

Chủ Đề