So sánh bao nhiêu bấy nhiêu

Giải câu 1, 2, 3, 4, 5 trang 10 Sách bài tập [SBT] Ngữ văn 6 tập 2. 4. Hãy tìm phép so sánh trong các câu ca dao sau :

– Qua cầu ngả nón trông cầu,

Cầu bao nhiêu nhịp dạ em sầu bấy nhiêu.

– Qua đình ngả nón trông đình,

Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.. Soạn bài So sánh SBT Ngữ văn 6 tập 2 –

Giải câu 1, 2, 3, 4, 5 trang 10 Sách bài tập [SBT] Ngữ văn 6 tập 2. 4. Hãy tìm phép so sánh trong các câu ca dao sau :

– Qua cầu ngả nón trông cầu,

Cầu bao nhiêu nhịp dạ em sầu bấy nhiêu.

– Qua đình ngả nón trông đình,

Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.

Bài tập

1. Bài tập 1, trang 25 – 26, SGK.

2. Bài tập 2, trang 26, SGK.

3. Bài tập 3, trang 26, SGK.

4. Hãy tìm phép so sánh trong các câu ca dao sau :

–                                                                    Qua cầu ngả nón trông cầu,

Cầu bao nhiêu nhịp dạ em sầu bấy nhiêu.

>–                                                                  Qua đình ngả nón trông đình,

Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.

Phép so sánh ở đây được thực hiện nhờ những từ so sánh nào ?

Quảng cáo

5. Viết một đoạn văn ngắn trong đó có sử dụng phép so sánh để miêu tả Dế Mèn trong đoạn trích Bài học đường đời đầu tiên.

Gợi ý làm bài

1. Dựa vào mẫu so sánh đã cho, HS tìm thêm các phép so sánh tương tự.

Chú ý đến bản chất của các sự vật đem ra so sánh : người với người, vật với vật, vật với người, cụ thể với trừu tượng. Ví dụ :

– Thầy thuốc như mẹ hiền. [so sánh đồng loại – người với người]

– Sông ngòi, kênh rạch càng bủa giăng chi chít như mạng nhện. [so sánh đồng loại – vật với vật]

2. Có thể sử dụng từ điển thành ngữ để tra cứu. Lưu ý : có thể có một hoặc nhiều từ thích hợp với chỗ trống cần điền. Ví dụ : khoẻ như vâm [voi] ; khoẻ như hùm ; khoẻ như trâu ; khoẻ như Trương Phi…

3. Tìm những câu văn có sử dụng phép so sánh trong các bài Bài học đường đời đầu tiên và Sông nước Cà Mau. Ví dụ :

Bài học đường đời đầu tiên :

+ Những ngọn cỏ gãy rạp, y như có nhát dao vừa lia qua.

+ Hai cái răng đen nhánh lúc nào cũng nhai ngoàm ngoạp như hai lưỡi liềm máy làm việc.

+ …

Sông nước Cà Mau :

+ Càng đổ dần vê hướng mũi Cà Mau thì sông ngòi, kênh rạch càng bủa giăng chi chít như mạng nhện.

+ […] Ở đó tụ tập không biết cơ man nào là bọ mắt, đen như hạt vừng, chúng cứ bay theo thuyền từng bầy như những đám mây nhỏ […].

+ …

4. Chú ý tổ hợp từ : bao nhiêu… bấy nhiêu.

HS đọc lại bài Bài học đường đời đầu tiên. Trên cơ sở đó, HS tự viết đoạn văn tả Dế Mèn. Chú ý đến các hình ảnh so sánh được tác giả sử dụng trong bài.

Dhafi Quiz

Find Answers To Your Multiple Choice Questions [MCQ] Easily at cp.dhafi.link. with Accurate Answer. >>


This is a List of Available Answers Options :

  1. Qua cầu ngả nón trông cầuCầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu
  2. Qua đình ngả nón trông đìnhĐình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu
  3. Trăng bao nhiêu tuổi trăng giàNúi bao nhiêu tuổi gọi là núi non
  4. Chờ chờ, đợi đợi, trông trôngBao nhiêu chờ đợi mặn nồng bấy nhiêu
  5. Cả 4 câu trên đều đúng


Click to See Answer

What is cp.dhafi.link Site?

Dhafi Quiz Is an online learning educational site to provide assistance and insight to students who are in the learning stage. they will be able to easily find answers to questions at school.We strive to publish Encyclopedia quizzes that are useful for students. All facilities here are 100% Free. Hopefully, Our site can be very useful for you. Thank you for visiting.

Tìm trong ca dao có cặp câu so sánh “bao nhiêu… bấy nhiêu”

– Qua cầu ngả nón trông cầu

Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu

– Qua đình ngả nón trông đình

Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu

– Trăng bao nhiêu tuổi trăng già

Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non

– Chờ chờ, đợi đợi, trông trông

Bao nhiêu chờ đợi mặn nồng bấy nhiêu

Hướng dẫn

Đáp án:4 cặp

có một điểm chung mà các tác giả đã nêu: So sánh tu từ là sự đối chiếu giữa hai đối tượng khác nhau và hai đối tượng đem ra đối chiếu phải có nét tương đồng nào đó.II. CẤU TẠO CỦA SO SÁNH TU TỪ. Khi khảo sát biện pháp so sánh tu từ cần phải khảo sát cả hình thức cấu tạobên ngoài lẫn nội dung cấu tạo bên trong. Xét về mặt hình thức, so sánh tu từ khác với mọi cách tu từ cấu tạo theo quanhệ liên tưởng ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa ở chỗ bao giờcũng phô bày hai vế: vế so sánh và vế được so sánh. Trong mỗi vế được đưa ra có thế có một hay nhiều đối tượng.Các đối t]ợng được đem ra đối chiếu có thể là sự vật, tính chất, hành động.Các hình thức so sánh xét về mặt hình thức.1. A như tựa như, chừng như, giống như, ví như, giả như… B. Ví dụ:“ Đôi ta như lửa mới nhen Như trăng mới rạng, như đèn mới khêu”Ca dao

2. A bao nhiêu B bấy nhiêu: Ví dụ:

“ Mưa phùn ướt áo tứ thân Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu”Tố HữuVí dụ: “ Muối thời chiếm đóng là vàng trắng” Nguyễn TuânKiểu so sánh này chúng ta thường gặp trong thơ ca. Bởi vì trong thơ ca, do yêu cầu của vần, luật nên người ta dùng so sánh “ như”, “ tưa như” , “ giống như”… Mặtkhác, trong thơ ca, nhờ cấu trúc cân đối và sự cô đọng của ngôn ngữ thơ nên dôi khi giữa hai vế không có từ so sánh.Ví dụ: ‘ Bác ngồi đó, lớn mênh môngTrời xanh, biển rộng, ruộng đồng, nước non.” Tố HữuXét về nội dung cấu tạo bên trong các đối tượng nằm trong hai vế của biện pháp so sánh tu từ khác loại nhưng lại có nts giống nhau nào đó, tạo thành cơ sở của sosánh tu từ. Nét giống nhau này có thể hiện ra bằng các từ ngữ cụ thể, khi đó ta có so sánh nổi.Ví dụ: “ Khói núi bốc lên như khói nồi cơm vừa sôi” nguyễn Tuân. Nét giống nhau này có khi không được phô bày ra bằng từ ngữ cụ thể nào lẫnvào bên trong hai vế của biện pháp so sánh bắt buộc người tiếp cận phải tìm kiếm, chỉ ra được. Khi đó ta sẽ có so sánh chìm.Ví dụ: “ Treû em như búp trên cànhBiết ăn ngủ, biết học hành là ngoan” Hồ Chủ TòchĐề tài khoa học: So sánh tu từ trong tuỳ bút “Sông Đà” của Nguyễn TuânTrang 4Nét giống nhau giữa hai vế của biện pháp so sánh tu từ dù là nổi hay chìm đều không thể thiếu được vì nó gắn hai vế với nhau khiến cho biện pháp so sánh tu từ cóthể hình thành được. Đứng về mặt nội dung biểu hiện thì so sánh tu từ chìm tạo cho sự liên tưởngrộng rãi hơn. Nó kích thích sự làm việc trí tuệ và tình cảm nhiều hơn là so sánh nổi. Chẳng hạn, khi ta tiếp cận một so sánh tu từ như:“ Trẻ em như búp trên cành” ngườitiếp cận sẽ phải suy nghó, liên tưởng để xác đònh nét giống nhau giữa hai đối tượng ở hai vế và từ đó nhận ra được đặc điểm của các đối tượng được miêu tả là trẻ em. Sựsuy nghó, liên tưởng có thể diễn ra như sau:-Trẻ em tươi non như búp trên cành. -Trẻ em đầy sức sống như búp trên cành.Phân tích cấu tạo nội dung của biện pháp so sánh tu từ chìm cho thấy nét giống nhau ở so sánh tu từ chìm xuất hiển trong quá trình suy nghó, liên tưởng của người tiếpnhận dưới dạng những khả năng, những kiến thể ở ví dụ trên, các kiến thể là: tươi non, đầy sức sống. Trái lại, xét giống nhau ở biện pháp so sánh tu từ nổi luôn luônxuất hiện dưới dạng của một kiến thể trong ví dụ: “ khói núi bốc lên như khói nồi cơm sôi” thì “ bốc lên” là bất biến thể.Từ đó, ta có thể nhận thấy rằng, một biện pháp so sánh tu từ hoàn chỉnh, “ đắt” phải cần thoả mãn: các đối tượng đưa ra so sánh là khác loại và phát hiện đúng nétgiống nhau giữa hai đối tượng. Tài nghệ của người sử dụng biện pháp so sánh tu từ là phát hiện ra nét giống nhau chính xác, bất ngờ, điều mà người khác không để ý đến,không nhận ra được.Mặt khác, chúng ta cũng nhận thấy rằng một tác phẩm văn chương nếu tác giả sử dụng nhiều so sánh tu từ chìm sẽ kích thích được khả năng tri giác của người đọc,khơi gợi sức sáng tạo trong việc tìm kiếm nét giống nhau giữa các đối tượng. Như thế, tác phẩm sẽ mang một bề sâu rất lớn. Đồng thời cũng sẽ nói lên được nét đặc sắc củatác giả trong việc sử dụng biện pháp so sánh tu từ.III. CHỨC NĂNG CỦA BIỆN PHÁP SO SÁNH TU TỪ Trong tiếng Việt, so sánh tu từ là một biện pháp nghệ thuật được sử dụng nhiềunhất so với các biện pháp tu từ từ vựng khác. Khi giao tiếp bình thường người ta vẫn hay so sánh để làm rõ điều mình muốn thông báo. Chẳng hạn, để diễn tả được mức độyêu đ]ơng của một người nào đó ta có thể nói: “ Nó yêu như điên” để nhấn mạnh thêm, khẳng đònh đieeuf muốn thông báo đến người tiếp nhận. Trong văn chương, các nhàvăn, nhà thơ lại càng hay sử dụng biện pháp so sánh. Bởi vì khi sử dụng biện pháp so sánh không chỉ giúp người đọc nhận thức được sự vật, hiện tượng, sự việc, trạng thái,tính chất một cách chính xác mà nhà văn còn muốn thông qua biện pháp so sánh để làm tăng thêm tính gợi cảm, tính hình tượng, tính biểu cảm cho câu văn. Chẳng hạn, đểdiễn cái hoang dại của bờ con sông Đà, Nguyễn Tuân đã so sánh “ Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”. Đồng thời, so sánh tu từ giúp nhà văn rất nhiều trong việc khắchoạ, làm nổi bật những hình tượng mà mình muốn thể hiện.Văn chương có đặc trưng cơ bản là tính thẩm mó, nhà văn sử dụng biện pháp so sánh như một biện pháp tu từ quan trọng để làm nên giá trò của ngôn từ văn chương.Đề tài khoa học: So sánh tu từ trong tuỳ bút “Sông Đà” của Nguyễn TuânTrang 5Chính vì thế, khi nghiên cứu, tìm hiểu cách sử dụng biện pháp so sánh tu từ để làm nổi bật điều mà mình muốn thể hiện của các nhà văn cũng chính là tìm hiểu cách biểu hiệnriêng của từng người. Mỗi nhà văn đều có cách thể hiện biện pháp so sánh tu từ riêng biệt và đạt đến hiệu quả nghệ thuật nhất đònh, làm nổi bật lên chức năng chủ yếu củabiện pháp so sánh. Từ chỗ vận dụng chức năngc của biện pháp so sánh tu từ của mỗi nhà văn mỗi khác tạo nên phong cách đặc sắc riêng của từng người. Đây cũng là mộtphươưng diện để phân biệt sự khác nhau giữa các tác giả. Ví dụ sự khác biệt trong cách sử dụng biện pháp so sánh giữa Nguyễn Tuân và Vũ Trọng Phụng:“ Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khóinúi Mèo đốt nương xuân” Nguyễn Tuân. “ Mặc bà phó Đoan sưng sỉa lên như một quả phụ thủ tiết bò bạc tình” VũTrọng Phụng Nguyễn Tuân so sánh để thấy hết cái hay, cái đẹp của sự vật, hiện tượng, diễntả đầy đủ hết bản chất của những điều muốn đề cập. Vũ Trọng Phụng so sánh để tăng nét hài hước, châm biếm và đôi khi so sánh như không hề có so sánh.Chức năng chủ yếu của biện pháp so sánh tu từ là góp phần làm nổi bật, khắc họa đầy đủ hơn những khía cạnh của sự vật, hiện tượng mà nhà văn muốn thông báo.Biện pháp so sánh tu từ được sử dụng rất nhiều trong văn chương và nó đã góp phần tạo nên những nét đặc sắc của văn chương.Đề tài khoa học: So sánh tu từ trong tuỳ bút “Sông Đà” của Nguyễn TuânTrang 6CHƯƠNG II:SO SÁNH TU TỪ TRONG TÙY BÚT “ SÔNG ĐÀ” CỦA NGUYỄN TUÂN.1.CẤU TRÚC SO SÁNH.Nguyễn Tuân là một người đặc biệt có tài trong việc sử dụng từ ngữ và các biện pháp tu từ trong văn của ông. Đã có ý kiến cho rằng văn Nguyễn Tuân khó đọcbởi ông sử dụng từ ngữ và các biện pháp nghệ thuật rất khác người, tạo độ sâu cho văn mình. Người đọc bởi thế khó tiếp nhận văn ông khi chỉ lướt qua một, hai lần.Đặc biệt là trong văn Nguyễn Tuân, ông sử dụng biện pháp so sánh tu từ rất nhiều lần và rất khéo léo. Trong tùy bút “ Sông Đà” ông đã đưa biện pháp so sánh tu từvào làm nổi bật những điều mà ông muốn truyền đạt. Hơn nữa, ông đã vận dụng hết cái hay, cái đặc sắc của biên pháp nghệ thuật này. Trong tùy bút “ Sông Đà”, NguyễnTuân đã sử dụng 112 lần biện pháp so sánh tu từ. Trong đó Nguyễn Tuân sử dụng 92 lần cấu trúc so sánh A như B, 16 lần sử dụng cấu trúc A là B và 4 lần sử dụng cấu trúcA: B. Điều đó cho thấy cấu trúc truyền thống A như B được nhà văn sử dụng nhiều hơn. Trong các cấu trúc truyền thống, Nguyễn Tuân đã sáng tạo thêm rất nhiều. Cái đặc sắccủa Nguyễn Tuân chủ yếu tỏa sắc ở B. ông thường “đốt nóng” B bằng nhiều cách, tìm và khám phá những nét mới lạ của B để làm rõ nét, làm tăng hiệu quả biểu đạt của A.Cấu trúc so sánh được lập bằng mô hình thì ta có: A – từ so sánh- BTrong cấu trúc so sánh A như B, Nguyễn Tuân thể hiện một cách rất đặc sắc: Ví dụ:“ Những bàn tay đoàn người mở đường như một trận bão tố tất yếu trên con đường tiến lên, đang rung cả khu rừng nằm giữa co suối và con sông”.Tác giả đã chêm động từ vào B để cho nó có một năng lượng sống. Động từ “ rung” đã làm cho vế B cựa quậy, chuyển động, sinh sắc hẳn lên. Nếu như so sánh nàykhông có sự hiện diện của động từ thì chẳng hề nổi bật, thể hiện ý nghóa một cách bình thường nhưng khi có động từ “ rung”, so sánh nổi bật hẳn lên, diễn tả sâu sắc ý nghóabiểu đạt của A.Cùng trong cấu trúc truyền thống A như B, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên cấu trúc so sánh bằng cách mở rộng, khắc hạo B bằng nhiều kiểu thể hiện. Đôi khiNguyễn Tuân thêm vào, lồng vào B tính chất nhân hóa.Ví dụ: “ Cây đa to lắm, cao lắm, có một cành đa cụt chỉ về phía Nam. Nó như mộtcánh tay bò thương đang vẫy vẫy qua vùng khu đệm mà gọi gọi với sang bờ Nam sông tuyến trong kia”.Cấu trúc so sánh như được tô vẽ thêm bằng tình cảm, các hình ảnh so sánh như mang tâm tính. Với cấu trúc như thế và sự lồng ghép, thể hiện của tác giả làm bật lênmột hiệu quả rất lớn cho việc thể hiện phát huy thêm những cái mới, lạ trong bản thân cấu trúc so sánh. Hơn nữa, đôi khi tác giả lại còn so sánh A như B nhưng B lại là một sựĐề tài khoa học: So sánh tu từ trong tuỳ bút “Sông Đà” của Nguyễn TuânTrang 7diễn giải rất dài. Điều đó cho thấy Nguyễn Tuân đã tạo thêm khả năng kết hợp, diễn giải trong bản thân cấu trúc truyền thống của so sánh.Ví dụ: “ Cái hình ảnh của sự sống chỉ còn có mỗi những con suối lũ của rừng sướtmướt; đứng trên dốc mỡ lầy mà nhìn xuống cái xe ca-mi-ông sang ngang không khác gì một con đò ngang hổn hển mà khảm qua cái bến sông này”.Đặc biệt, chúng ta còn thấy sự sáng tạo, cái riêng của nhà văn Nguyễn Tuân trong việc sử dụng cấu trúc A như B. Đó là việc sử dụng so sánh nối tiếp so sánh.Ví dụ: “ Dưới bóng cây vệ tinh, đất mới cũ lổn nhổn như một góc mặt trận vừa lấp lạihào giao thông, đây đó lăn ra ít xác nhện hùm bò cạp và nhiều nhất là những quả cao su vỡ vỏ già tung tóe những hạt cao su. Như là ở đây, vừa ồn ào xong đám đánh bi củatrẻ con búng hột cao su”.Với việc sử dụng linh họat này, nguyễn Tuân đã làm cho so sánh có nhiều những vẻ mới, góp phần lớn trong việc thể hiện hết những ý tưởng mà tác giả muốnphản ánh. Nếu chỉ gói gọn trong một phạm vi một so sánh A như B thì chưa chắc đã gột tả được hết những ý hay. Bởi thế khi sử dụng so sánh nối tiếp so sánh người viết đã làmđược hai việc: một là góp phần sáng tạo thêm cho cấu trúc so sánh; hai là nhờ việc sử dụng như thế, người viết có điều kiện khắc họa rõ nét những ý mtưởng của mình. Ngaytrong cấu trúc so sánh truyền thống A như B mà Nguyễn tuân có nỡng sáng tạo, những khám phá mới mang những nét riêng độc đáo và đặc sắc.Biện pháp so sánh tu từ được Nguyễn Tuân sử dụng trong tùy bút “ Sông Đà” không phải chỉ đơn thuần là cấu trúc A như B mà sáng tạo thêm trong việc sử dụng.ng sử dụng cấu trúc A là B không nhiều nhưng cũng cho ta thấy sự uyên thâm, tinh tế của ông trong tài sử dụng từ ngữ và các biện pháp nghệ thuật. Cáu trúc A là B chỉ đượcsử dụng 16 lần, cả 16 lần là những lần “ luyện đan”, tìm tòi với những nét độc đáo mà chúng ta không hề nghó tới.Ví dụ: “ Muối thời chiếm đóng là vàng trắng”. Trong kiểu so sánh này, từ “ là” có giá trò tương đương từ so sánh “ như” nhưngmang sắc thái ý nghóa khác. “ Như” có sắc thái giả đònh, còn “ là” có sắc thái khẳng đònh. Đặ trường hợp sử dụng ai từ so sánh này cho cùng một đối tượng so sánh A vàđối tượng được dùng so sánh B ta sẽ thấy sắc thái biểu thò của chúng.Ví dụ:- Muối thời chiếm đóng như là vàng trắng sắc thái giả đònh”. - Muối thời chiếm đóng là vàng trắng. sắc thái khẳng đònhKiểu so sánh này cũng giống như kiẻu phán đoán logic khẳng đònh có công thức “ S là P”. Ở phán đoán logic khẳng đònh, nếu ta thay hệ từ logic “ là” bằng từ “như là”thì nội dung cơ bản của phán đoán lập tức thay đổi, giá trò khẳng đònh không còn nữa.Ví dụ:- Anh là chiến só giải phóng quân. khẳng đònh logic. - Anh như là chiến só giải phóng quân. không khẳng đònhĐề tài khoa học: So sánh tu từ trong tuỳ bút “Sông Đà” của Nguyễn TuânTrang 8Tóm lại ở so sánh tu từ, nếu thay “ là” bằng “ như là” thì nội dung cơ bản sẽ không thay đổi, chỉ thay đổi về sắc thái ý nghóa: từ trạng thái khẳng dònh sang trạngthái giả đònh. Do vậy Nguyễn Tuân dùng cấu trúc A như B, tác giả đều khẳng đònh điều mìnhmuốn thể hiện mà đôi khi tác giả sử dụng “ như là” để nói lên việc chưa khẳng đònh chắc chắn.Ví dụ: “ Không kể các con đường mòn trên các triền núi tứ phía đổ vào tỉnh như là đổnước vào chỗ trũng, chỉ đến những cái to có rãi đá, thì đường cái tiến vào trung tâm tỉnh lò Sơn La là ba con đường”.Điều đó cho chúng ta thấy Nguyễn Tuân sử dụng không cứng nhắc cấu trúc so sánh và từ ngữ so sánh, ông rất linh họat, uyển chuyển và tài hoa trong việc sử dụngnhững cái hay, cái đặc sắc của biện pháp so sánh tu từ. Nét độc đáo của Nguyễn Tuân còn thể hiện trong việc sử dụng cấu trúcd sosánh A : B. Tuy được sử dụng với một tần số rất ít nhưng nó đã góp phần tạo nên một nét riêng của Nguyễn Tuân. Thông thường trong cấu trúc so sánh luôn có từ so sánh dikèm. Thế nhưng ở cấu trúc này không hề có từ so sánh nhưng chúng ta vẫn thấy nổi lên hình thức so sánh rõ rệt. Điều này làm cho so sánh tu từ trong văn Nguyễn Tuân giốngvới so sánh trong thơ ca. trong thơ ca do yêu cầu của vần, luật đôi khi không sử dụng từ so sánh. Mặt khác, trong thơ ca, nhờ cấu trúc cân đối và sự cô đọng của ngôn ngữ thơnên đôi khi giữa hai vế không cần có từ so sánh.Ví dụ:“ Người ngồi đó, lớn mênh mông Trời xanh, biển rộng, ruộng đông, nước non”.Tố Hữu Đối với Nguyễn Tuân vòec sử dụng cấu trúc so sánh này trong văn ông đã tạocho văn ông có những nét thơ ca. vad nó cũng thể hiện được cái tài cuầình văn khi ngôn ngữ văn chương luôn càn có sự mách lạc, không cô đọng như ngôn ngữ thơ.Ví dụ: “ Lại nói về đồng chí lái xe đây. Thành hoàng bản thổ con đường này đấy”.Cái hay của cấu trúc so sánh này là ở chỗ làm cho người viết phải lựa chọn từ ngữ một cách thích hợp, diễn đạt nhuyễn ý, làm cho người đọc phải tìm tòi giữa cáiđem ra so sánh và cái được so sánh. Rõ ràng việc lựa chọn sử dụng các hình thức so sánh và chênh lệch nhau thểhiện ý đồ diễn đạt của tác giả. Nguyễn Tuân muốn khắchọa, muốn nhấn mạnh những ý tưởng, hình ảnh mà mình muốn đề cập, bởi thế ông đã sử dụng nhiều từ ngữ, câu văn,kể cả cấu trúc so sánh để so sánh làm rõ hơn, nổi bật hơn những ý tưởng, hình ảnh trên trang viết của ông.

Video liên quan

Chủ Đề