So sánh đất nước với bình ngô đại cáo

Chỉ ra BPTT và tác dụng của BPTT đó [Ngữ văn - Lớp 6]

1 trả lời

Mục đích của việc rút gọn câu trong đoạn văn [Ngữ văn - Lớp 7]

1 trả lời

Chọn đáp án đúng. Dòng nào sau đây là tục ngữ? [Ngữ văn - Lớp 7]

2 trả lời

Xuất bản ngày 24/08/2018 - Tác giả: Tâm Phương

Tham khảo những bài văn mẫu hay phân tích và so sánh vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong hai bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi.

Văn mẫu 12 chọn lọc: Phân tích và so sánh vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong hai bài thơ cùng tên Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi.

Đất nước là tiếng gọi thiêng liêng mà con người chúng ta ai cũng phải trân trọng. Lấy cảm hứng từ đất nước, hai nhà thơ lớn của dân tộc là Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi cũng đã cho ra hai tác phẩm khác nhau nhưng cùng một nhan đề “Đất Nước”. Cùng một chủ đề, cùng một tên gọi nhưng hai bài thơ lại có hai cách thể hiện tình yêu đất nước khác nhau.

Mỗi chúng ta sinh ra đều có cho mình một quê hương. Từ tình yêu với quê hương đã hình thành nên trong mỗi người tình yêu với đất nước. Đất nước có từ thời cha ông ta và nó còn tồn tại được đến ngày nay là nhờ công của những người đi trước đã giữ gìn. Đất nước là của tất cả chúng ta nhưng cũng là của riêng mỗi người. Mỗi người sẽ nhìn đất nước dưới con mắt khác nhau ở những góc độ khác nhau. Chẳng hạn như Nguyễn Đình Thi, ông nhìn đất nước theo nhiều chiều không gian. Ở nơi ấy có trời xanh, có núi rừng, có những cánh đồng chạy dài thơm mát, có những con đường đi mãi mà không hết và có cả “những dòng sông đỏ nặng phù sa”. Đó là cảnh đất nước trong sự thanh bình và trù phú.

Với Nguyễn Khoa Điềm, ông lại cụ thể hóa đất nước hơn với những địa danh mà tên tuổi của chúng mỗi khi nhắc đến ai ai cũng đều phải biết. Đó là núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút, non Nghiên, Hạ Long, Ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm,… Không đơn thuần tả cảnh thiên nhiên, đất trời như Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa hình ảnh con người vào trong thơ của mình. Chính con người với những truyền thuyết từ thời Thánh Gióng đã tạo nên một đất nước tươi đẹp như ngày hôm nay. Đằng sau những vần thơ tưởng như chỉ miêu tả thiên nhiên đất nước ấy là một nỗi xúc cảm to lớn của con người, của chính tác giả khi đứng trước đất nước tươi đẹp.

Ở những câu thơ tiếp theo của mình, Nguyễn Đình Thi đã khắc họa được một đất nước đẹp tươi trong chính sự đau thương:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều

Nước Việt Nam từ trong máu lửa

Trong cái cảnh đẫm máu và lầm than ấy, đất nước chúng ta vẫn hiên ngang, bền vững giữa đất trời. Sau tất cả, trên bầu trời chim vẫn hót. Dưới mặt đất hoa vẫn nở. Súng đạn kia dù có sức mạnh đến mấy cũng không thể nào bắn được vào lòng yêu nước thương nòi của nhân dân ta. Chính lòng yêu nước ấy đã tạo cho chúng ta sức mạnh để vùng lên khỏi đầm lầy máu lửa. Để đến hôm nay, đất nước ta đón nhận những tia nắng bình minh đầy tươi đẹp.

Tuy không miêu tả cụ thể về một đất nước trong đấu tranh nhưng ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm vẫn cho thấy những con người sẵn sàng đứng lên chống lại quân thù khi đất nước có giặc xâm chiếm:

Có nội thù thì vùng lên đánh bại

Đi trả thù mà không sợ dài lâu

Đó là những điểm chung mà chúng ta bắt gặp ở hai bài thơ Đất Nước. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy được những nét riêng khi mà chúng được sáng tác ở hai hoàn cảnh khác nhau. Một bên là sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Pháp, một bên là sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Vì vậy mà ta có thể thấy Nguyễn Đình Thi ca ngợi đất nước trong sự đấu tranh gian khổ và chiến thắng lẫy lực của dân tộc trước giặc Pháp. Nguyễn Khoa Điềm thì lại tập trung vào văn hóa dân tộc và đời sống tinh thần. Nếu Nguyễn Đình Thi chỉ tập trung ca ngợi đất nước ở hai thời điểm trong tranh đấu và sau thắng lợi thì Nguyễn Khoa Điềm lại miêu tả một đất nước kéo dài suốt bốnnghìn năm lịch sử.

Bằng những cách thể hiện khác nhau như vậy, Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo lồng ghép vào trong bài thơ tư tưởng của chính mình. Nguyễn Đình Thi thì khắc họa hình tượng đất nước của lịch sử tranh đấu. Nguyễn Khoa Điềm thì hướng đến một đất nước của nhân dân. Nhưng dù thế nào, đất nước cũng hiện lên thật gần gũi và thân thương.

Sự giống nhau trong cách miêu tả đất nước của hai nhà thơ giống như một lời khẳng định về vẻ đẹp của đất nước. Dù trải qua bao nhiêu biến cố thì vẻ đẹp của đất nước vẫn sẽ trường tồn với thời gian. Chính tình yêu với đất nước đã khiến cho những tâm hồn trở nên đồng điệu với nhau. Tình yêu đất nước cũng chính là khởi nguồn cho những giá trị nhân văn cao đẹp.

Bây giờ và sau này, đất nước vẫn sẽ là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà thơ khác nữa. Bởi vẻ đẹp của đất nước có nói bao nhiêu cũng là chưa đủ. Và bởi những góc nhìn khác nhau của những người khác nhau cũng sẽ mang đến cho chúng ta một Đất Nước khác nhau. Giống như Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm đã làm rất tốt điều đó.

"Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu. Nghe dịu nỗi đau của mẹ. Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ. Các anh không về mình mẹ lặng im…" [Tạ Hữu Yên]. Cứ mỗi lần nghe lại bài hát này lòng ta xốn xangda diết ! Nhớ những ngày bé thơ đến lớp, cô giáo dạy tôi viết hai chữ “Việt Nam” và gọi đó là Đất Nước. Tôi mơ hồ chả hiểu, chỉ biết rằng đó là cái gì lớn lao và thật quý báu lắm ! Thời gian trôi qua nhanh, mang tuổi thơ bé bỏng của tôi đi xa. Cho đến hôm nay, qua bao nhiêu vần thơ đọc được tôi đã thấm thía hai tiếng thiêng liêng “Đất Nước”. Nhưng rất buồn là tôi không thể viết thành thơ. Trong những vần thơ “Đất nước” mến yêu dạt dào cảm hứng ấy, có tác phẩm của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm.

Hai nhà thơ đã truyền cho tôi cảm xúc mạnh mẽ. Những vần thơ giúp tôi nhìn ra chân dung của đất nước. Bình dị và trong sách, hồn hậu và nhân ái, nghèo khổ nhưng oai hùng. Có lẽ chính những điều ấy đã khơi gợi cảm hứng cho các bài thơ, đã gieo vào lòng từng nhà thơ bao suy tư và trăn trở. Từ cảm xúc của những ngày sống hết mình với chiến đấu, từ vốn tri thức khá phong phú của mình, qua chương “Đất nước” Nguyễn Khoa Điềm đã cắt nghĩa sâu xa cho tuổi trẻ thành thị miền Nam lúc này. Những hiểu biết về lịch sử dân tộc như sống dậy, lay động tâm hồn tác giả. Mỗi câu chuyện cổ tích, những thời khắc lịch sử của những cuộc đấu tranh giữ nước và dựng nước ngày càng thiêng liêng, tha thiết hơn bao giờ ….

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”…mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre và đánh giặc

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Trong hai câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm man mác âm hưởng sử thi. Yếu tố cổ điển và hiện đại hoà quyện vào nhau tạo thành một cấu trúc hai cực. Đất nước mình chân thật như cuộc sống. Những câu thơ dài tuôn chảy êm dịu như dòng sông. Một dòng cảm xúc dào dạt âm thầm nhưng mãnh liệt. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm bắt nguồn từ những huyền thoại: “Ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”. Dường như nhà thơ đã huy động vào đây nhiều vốn liếng, trí tuệ, sự từng trải, gửi gắm vào đây bao kỉ niệm suy tư. Nguyễn Khoa Điềm đã cùng ta hành hương về với cội nguồn dân tộc và rồi tham gia vào cuộc chiến đấu chung là con đường đúng đắn duy nhất đối với người thanh niên yêu nước. Nhà thơ mạnh dạn để cái “tôi” của mình xuất hiện. Có thể nói rằng, muốn viết những vần thơ tuyệt vời về Đất nước không chỉ đơn thuần là nhà thơ biết rung động trước một vầng trăng, một tia nắng, một điệu dân ca hay một tiếng thơ cổ điển. Đây là cả một quá trình suy ngẫm, và “nhìn lại” đất nước. Từng lời thơ đầm ấm giàu ý thức của tuổi trẻ đã nhận ra vai trò của mình trước thời đại và nhận thức được đất nước này là của nhân dân. Chúng ta phải chiến đấu để bảo vệ đất nước tươi đẹp. Nhà thơ cảm nhận phát hiện ra đất nước từ cáinhìn tổng hợp, nhiều mặt và dường như đã toàn vẹn. Với Nguyễn Đình Thi cảm hứng về đất nước bắt nguồn từ những chất liệu hình ảnh cụ thể, sinh động của cuộc kháng chiến chín năm cứu nước thần thánh của chúng ta. Bài thơ mang tính khái quát về cảm hứng lịch sử và truyền thống của dân tộc. Có phải chăng, cái cảm hứng ấy của hai nhà thơ này đều bắt nguồn từ lòng yêu nước sâu sắc? Do hoàn cảnh và thời điểm lịch sử mà mỗi nhà thơ lại có cảm nhận khác nhau. Cảm hứng về đất nước đến với Nguyễn Đình Thi trong lúc cuộc kháng chiến đang diễn ra dữ dội và tàn khốc. Người thanh niên Hà Nội ấy, cũng đã bước vào cuộc kháng chiến nhưng tâm hồn anh thanh niên vẫ đủ sức cảm nhận:

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày thu đã xa.

Chính “mùa thu Hà Nội” ngày hôm nay đã gợi cảm hứng cho tác giả. Nhìn mùa thu này nhà thơ lại nhớ đến mùa thu xưa. Dường như lời hát “Mùa thu rồi ngày hăm ba, ta ra đi theo tiếng gọi sơn hà nguy biến. Rên khắp trời, lời hoan hô quân, dân ta tiến ra trận tiền” còn vang vọng bên tai. Hôm nay đứng giữa đất trời chiến khu trong buổi sáng mùa thu mát lành nhà thơ suy tư về đất nước. Cái cảm giác đầu tiên mà Nguyễn Đình Thi bắt gặp là cái rất riêng, rất đặc trưng về, rất Hà Nội : mùi hương cốm mát. Phải là một chàng trai Hà Nội chính gốc mới có được cái cảm nhận ấy. Phải gắn bó máu thịt với thủ đô mới chan hoà tình thương nơi này đến thế ! Niềm cảm xúc dâng trào. Những hồi tưởng về mùa thu trước tuy êm ái nhưng thật ra lòng nhà thơ dạt dào biết bao

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Người ra đi mang dáng dấp của cậu học tròtrong sáng lưu luyến bao nhiêu kỉ niệm đẹp với từng con phố dài xao xác hơi may. Có một chút lưu luyến bâng khuâng trong lòng người, nhưng không hề bi luỵ. Câu thơ mang màu sắc lãng mạn tươi mát trong lành:

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi cũng bắt đầu vui phơi phới của người tự do. Đứng giữa một vùng chiến khu tự do nhà văn đón nhận đất nước với những điều mới mẻ:

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trong biếc nói cười thiết tha.

Phải có con mắt tinh tế, giao cảm với thiên nhiên nhà thơ mới nhận được sự ”thay áo mới” của mùa thu. Tất cả như nô nức, muôn âm thanh trong trẻo xanh biếc của trời thu như hoà quyện vào nhau; đất nước như “đang cười, đang nói”. Tâm hồn nhà thơ dạt dào mênh mông thấy đất nước mình như “rừng tre phấp phới”. Hình ảnh cây tre cũng được các nhà thơ nhắc đến khi viết về đất nước:

Ta yêu Việt Nam đẹp, Việt Nam thơ bát ngát câu Kiều bờ tre, mái rạ

Mái đình cong congnhư em gái giữa đêm chèo

Cánh cò Việt Nam trong hơi mát xấm xoen cò lả

Cái đôn hậu nhân tình trong nét chạm chùa Keo

Từ xúc cảm mãnh liệt dạt dào nhà thơ cảm nhận được đất nước mình không giống Chế Lan Viên với lối trầm ngâm, lắng đọng mà ở đây, đất nước hiện lên nô nức, tươi mát nhưng cũng hết sức hào hùng:

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Nhà thơ không thiên tả cảnh mà nghiêng về yếu tố tượng trưng. Chỉ một vài hình ảnh cụ thể như: “núi rừng, những cánh đồng, ngả đường, dòng sông” nhà thơ đã vẽ nên đất nước. Một đất nước được khẳng định chủ quyền “Trời xanh đây là của chúng ta”, giống Lý Thường Kiệt ngày xưa đã khẳng định: “Nam quốc sơn hà nam đế cư”. Mượn một vài hình ảnh cụ thể nhưng có tính khái quát cao nhà thơ đã gửi gắm tình cảm, gửi gắm tâm trạng của mình trong đó. Niềm tự hào nhà thơ thể hiện qua điệp ngữ “của chúng ta”. Rất đẹp, rất thơ với “những cánh đồng, những dòng sông, rừng núi”…Cảm hứng lịch sử với truyền thống dân tộc đã nhắc nhở nhà thơ đừng quên:

Nước của những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về.

Có nhìn về quá khứ xa xôi mới quý hơn những ngày mình đang sống. Ởđây càng thấy quý hơn bởi chữ “tâm” của nhà thơ. Không chỉ có cảm nhận đất nước trong hiện tại với biết bao niềm vui chào đón mà còn nhìn lại lịch sử dân tộc. Có phải chăng những tiếng “rì rầm” trong đất ấy, những buổi ngày xưa vọng về thôi thúc bước chân và trái tim nhà thơ? Cảm hứng thời đại đã kết hợp nhuần nhuyễn với cảm hứng lịch sử truyền thống đã tạo ra những câu thơ tuyệt vời. Thi sĩ Gớt[ Đức] có nói rằng: “Nhà thơ phải biết nắm lấy cái riêng biệt và từ đó, nếu cái riêng biệt là chân chính nhà thơ biểu hiện cái khái quát”. Nguyễn Đình Thi đã đi theo cái hướng này và đã thành công. Bằng những liên kết sóng đôi nhà thơ thường đi từ cái cụ thể đến cái khái quát.

Do đó mạch thơ tuôn trào theo cảm xúc không bị dàn trải. Nhà thơ cảm nhận đất nước bằng chính cái tâm hồn của mình, đáy lòng mình, không triết lý, không ồn ào nhưng đầy khích lệ. Chính vì vậy mà đất nước Việt Nam hiện lên rất hiện thực. Đó là một đất nước tạo hình trong đau khổ. Chiến tranh kéo dài không biết bao năm từ Đinh, Lý, Trần, Lê và cho đến ngày hôm nay vẫn chưa hết. Đất nước vẫn còn:

Những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều.

Từ xúc cảm khôngchỉ là niềm vui mà còn là nỗi đau nên trong bài thơ Đất nước lại có những vần thơ “đẫm nước mắt” như thế. Hình ảnh “cánh đồng quê chảy máu” đã tố cáo tội ác của giặc. Lấy “máu đỏ mà tưới trên cánh đồng vàng” không phải là tàn nhẫn hay sao? Cái hay của Nguyễn Đình Thi là ở chỗ đó. Hiện thực, quá khứ đã hội tụ về đây đó trong bài thơ nhưng với tâm hồn của một người lính mang dáng dấp học trò, cảm hứng lãng mạn luôn luôn chi phối.

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Tình cảm riêng tư cũng đã trở thành cảm hứng về đất nước. Trong cái chung bao giờ cũng có cái riêng Nguyễn Đình Thi đã từng nói “Ta yêu em như yêu đất nước”. Chính những tình cảm này đã góp phần tạo nên “Đất nước” đôn hậu, ân tình và trìu mến hơn. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm cũng được khơi gợi từ chuyện giữa “anh và em”.

Đất là nơi anh đến trường

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.

Nguyễn Khoa Điềm đã tiếp nhận đất nước trên nhiều phương diện. Từ địa lý cho đến lịch sử, rất cụ thể. Những câu thơ dài xen lẫn những câu ngắn và lối chiết tự khiến cho lời thơ có vẻ trầm tư. Tình yêu lứa đôi nảy sinh trong tình yêu đất nước. Cảm hứng đất nước bắt nguồn từ cách cảm nhận của nhà thơ qua những trắc nghiệm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tư tưởng của nhân dân đã chi phối toàn bộ cảm hứng, cấu từ hình tượng thơ. Nhà thơ cảm nhận rằng chính nhân dân đã làm nên đất nước và đất nước đã muôn đời là của nhân dân. Đất nước đối với nhà thơ vừa cụ thể mà cũng huyền ảo. Bởi vì cảm hứng ấy bắt nguồn từ những câu chuyện cổ, từ những điều gần gũi thân thương với cuộc sống của chúng ta:

Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.

Rất cụ thể, gần gũi và bình dị: “Tóc mẹ…gừng cay muối mặn”. Nhưng đây cũng là sự sáng tạo. Nhà thơ cảm nhận đất nước theo chiều dài, lẫn chiều sâu, xuyên suốt từ quá khứ cho đến hiện tại. Truyền thống, phong tục được coi là chất sống vĩnh hằng. Đất nước là tất cả những gì có trong cuộc sống, là mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng:

…Em ơi em Đất Nước là một phần trong máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời…

Lời nhắn nhủ có vẻ riêng tư nhưng thật ra tác giả muốn nói chung với tất cả chúng ta. Không phải là lời giáo huấn mà là nỗi tâm tình, đầm ấm và thắm thiết. Những gì đã qua mà nhà thơ chứng kiến, đã biết, đã hiểu là nguồn cảm hứng chủ yếu của bài thơ. Tình yêu nước thể hiện thầm kín trong từng câu thơ. Dường như đối với Nguyễn Khoa Điềm đất nước mênh mông rộng lớn lắm nhưng nó không xa lạ gì với chúng ta, nó ở ngay trong ta. Tất cả những gì có trong cuộc sống đều góp phần tạo nên đất nước. Đó là cảm nhận của lớp người đi trước. Nhà thơ đã khắc hoạ lại đất nước hết sức điển hình. Một đất nước Việt Nam với những chuyện cổ tích, ca dao, bình dị, chân tình nhưng người dân giàu lòng yêu thương, sẵn sàng hi sinh mình để tạo nên dáng hình xứ sở. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm không dừng lại ở một giới hạn nào, bởi vì đất nước kết tinh trong mỗi con người. Đất nước hoá thân trong đời sống của mỗi cá nhân và mỗi cá nhân đang sống đều mang di sản đất nước của cha ông để lại.

Ôi đất nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta

Vì vậy, chúng ta hôm nay có trách nhiệm giữ gìn và truyền cho thế hệ mai sau. Cảm hứng thời đại xen với cảm hứng truyền thống. Lịch sử dân tộc tạo ra mạch thơ dài không ngơi nghỉ. Nhưng điều đó khiến ta liên tưởng đến đất nước mình…Trong từng thời điểm, đất nước có những phút giây thơ mộng nhưng qua bao nhiêu chặng đường mà nhà thơ đã đi đất nước sống trong cực nhọc, nặng nề dưới bom đạn, chiến tranh. Nhưng mà cha ông ta:

Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững

Lưng đeo gươmta mềm mại bút hoa

Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng

Sống hiên ngang mà nhân ái chan hoà

Chính nỗi đau đớn mà đất nước đã phải chịu đựng làm xốn xang tâm hồn của nhà thơ. Thật vậy, bốn ngàn năm qua tổ quốc ta chưa hề chấm dứt chiến tranh:

“Đất nước tôi, đất nước tôi, từ thuở còn nằm nôi sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa…”

Những buổi trưa hè giọng ca dao vẫn cất lên trên đất nước đau thương. Cũng là một đất nước Việt Nam nhưng mỗi nhà thơ đều cảm nhận ở những điều khác nhau. Cảm hứng về “đất nước” bắtđầu từ hiện thực. Nhưng ở mỗi nhà thơ đều mang hình nét lãng mạn, lạc quan:

Đất Nước của nhân dân, Đất Nước củaca dao thần thoại

Dạy anh biết “Yêu em từ thuởtrong nôi”

“Đất nước” là chủ đề bao trùm thơ Việt Nam trong giai đoạn 1945-1975. Biết bao nhà thơ đã viết về đề tài này. Nhưng tôi cho rằng trong tất cả những bài thơ Đất nướccủa Nguyễn Đình Thi là người thành công hơn cả. Đất nước của Nguyễn Đình Thi rất chân thật nhưng rất nghệ thuật nhờ nhà thơ đã chọn hình tượng đặc sắc. Tuy nhiên ở mỗi bài thơ Đất nước nhà thơ nào cũng có nét hay riêng.

Tóm lại, cảm hứng đất nước của nhà thơ bắt nguồn từ lòng yêu nước chân thành, sâu sắc ! Cảm hứng đó không bắt gặp trong hiện tại mà họ còn tìm về quá khứ. Với những năm tháng gian khổ chiến tranh với truyền thống tốt đẹp của dân tộc…Chính các nhà thơ cũng có một phần tạo ra: “Nam quốc sơn hà” tươi đẹp ! Để chúng ta có thể tự hào: “Đất nước tôi…sáng ngời muôn thuở. Khi trăng đã vào cửa sổ đòi thơ…”

Hình tượng đất nước là hình tượng xuyên suốt nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Trải qua trường kì lịch sử đấu tranh để sinh tồn và xây dựng, hình tượng đất nước được bồi đắp hoàn thiện qua những áng thơ văn tiêu biểu như của Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu... Đặc biệt là trong thơ ca Việt Nam hiện đại, các nhà thơ đã tạc nên tượng đài cao cả về đất nước trong một thời đại mới.

Hai nhà thơ: Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm qua hai bài thơ cùng mang tên Đất nước đã đem lại cho người đọc những cảm nhận mới mẻ, đầy đủ, trọn vẹn và sâu sắc về đất nước.

Cùng ra đời sau Cách mạng tháng Tám, nhân dân được làm chủ đất nước mình, cả hai bài thơ đều thể hiện được hình tượng một đất nước giàu đẹp, nhân dân anh hùng. Cả hai nhà thơ đều tìm đến giọng thơ trữ tình - chính luận để thể hiện hình tượng đất nước. Hai bài thơ vừa có sự rung cảm sâu xa vừa có những tìm tòi, sáng tạo đầy tính trí tuệ. Vì thế, hình tượng đất nước đến với người đọc vừa qua sự rung cảm thẩm mĩ vừa có thêm những nhận thức sâu sắc về đất nước. Tuy nhiên, về cơ bản hai nhà thơ đã có những cách biểu hiện riêng về đất nước.

Đất nước của Nguyễn Đình Thi được khởi viết từ năm 1948 đến năm 1955 mới hoàn thành. Cảm hứng của nhà thơ đi suốt chiều dài của cuộc kháng chiến chống Pháp. Cảm hứng ấy còn được liên hệ với quá khứ và mở rộng tới tương lai về một đất nước hiền hòa mà bất khuất vươn dậy thần kì trong chiến thắng huy hoàng. Đất nước trong thơ Nguyễn Đình Thi mang màu sắc hiện đại. Nói như vậy không có nghĩa là bài thơ thiếu đi nét dân tộc, nét truyền thống. Tính dân tộc thể hiện trong vẻ đẹp trường cửu của mùa thu xứ sở, của gió heo may, của hương cốm mới,đặc biệt là cảm giác mát trong xao xuyến hồn người, một cảm giác gợi nhớ bâng khuâng:

“Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày đã xa”

Bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi được mở đầu với vẻ đẹp trường cửu ấy của mùa thu xứ sở. Tiếp đến là những hình ảnh mang đậm sắc màu Việt Nam trong chiều sâu tâm hồn dân tộc:

“Những cánh đồng thơm mát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa”

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về ”

Tuy nhiên, nhìn toàn bài, màu sắc hiện đại vẫn nổi lên khá rõ. Đó là một đất nước trong chiến tranh vệ quốc của thế kỉ XX. Hình tượng đất nước được ấp ủ, trải nghiệm, đúc kết trong suốt cuộc kháng chiến chín năm. Khi nói về những đau thương, hình tượng đất nước được thể hiện với những hình ảnh hiện đại, cách nói hiện đại.

“Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều”

Trong chiến tranh, đất nước bao giờ cũng gắn với những đau thương, tang tóc nhưng nếu trong thơ truyền thống là những hình ảnh: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn / Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ” [Nguyễn Trãi - Bình Ngô đại cáo] thì trong thơ Nguyễn Đình Thi, đó là hình ảnh cánh đồng “chảy máu”, “dây thép gai đâm nát trời chiều”, những hình ảnh gắn với tư duy thơ hiện đại. Những hình ảnh gợi nỗi đau vô tận và sự căm thù vô biên.

Từ trong đau thương uất hận, dân tộc ta đã đứng lên với tinh thần bất khuất:

“Xiềng xích chúng bay không khóa được

Trời đầy chim và đất đầy hoa

Súng đạn chúng bay không bắn được

Lòng dân ta yêu nước, thương nhà”.

Để thể hiện tinh thần bất khuất của dân tộc, nguyễn Đình Thi đã dùng những hình ảnh thơ hiện đại. “Xiềng xích” là cái hữu hạn, “trời đầy chim và đất đầy hoa” là cái vô hạn. “Súng đạn” là cái cụ thể, “lòng dân ta yêu nước thương nhà” là cái trừu tượng. Dùng cái cụ thể để “bắn” cái trừu tượng cũng như dùng cái hữu hạn để “khóa” cái vô hạn là không thể. Điều đó nói lên sự bất lực của kẻ thù và sự bất diệt của dân tộc ta.

Đặc biệt là hình tượng đất nước trong ánh sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trong chiến thắng chói lòa:

“Súng nổ rung trời giận dữ

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”

Đây là đỉnh cao của cảm xúc, suy tư về đất nước. Bức chân dung đất nước vừa cụ thể vừa âm vang chiến trận vừa vươn tới hình tượng sử thi hoành tráng giàu sức khái quát. Khổ thơ là một khám phá về hình tượng đất nước trong ánh sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Nước Việt Nam từ bùn lầy của nô lệ, từ đau thương trong máu lửa bứt dậy mạnh mẽ làm nên thiên thần thoại lịch sử chói sáng, chiến thắng huy hoàng. Đó là chân dung của một nước Việt Nam chói ngời trên nền của lửa máu, bùn lầy và khói đạn, một nước Việt Nam sừng sững kiêu hãnh giữa thế kỉ XX trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại.

Vẫn tiếp tục cảm hứng về đất nước, hình tượng đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm lại là một Đất Nước trong màu sắc văn hóa dân gian. Nhà thơ đã dùng một đất nước của ca dao, thần thoại để thể hiện hình tượng đất nước, thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Cách nói vừa quen thuộc vừa mới mẻ. Quen thuộc bởi dân gian cũng đồng nghĩa với nhân dân, một nhân dân ở phần cơ bản nhất, đậm đà nhất, dễ thấy nhất. Còn mới mẻ là bởi những chất liệu văn hóa dân gian được soi vào hình hài đất nước, gợi ra một đất nước vừa gần gũi vừa đậm chất thơ, vừa bình dị vừa vĩnh hằng trường cửu.

Khi nói về sự hình thành, lớn lên của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện gương mặt đất nước hiện ra từ chiều sâu của văn hóa dân gian, của phong tục tập quán từ lời kể của bà, lời ru của mẹ, từ muối mặn, gừng cay, từ những giọt mồ hôi vất vả, tảo tần.

Đất nước là những gì quen thuộc mà cũng đầy tôn kính, thiêng liêng:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái ngày xửa, ngày xưa mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó... ”

Khái niệm đất nước tiếp tục được làm rõ trong thước đo của “thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông”, thước đo của lịch sử, địa lí. Nói đến chiều sâu lịch sử cũng đồng thời là chiều sâu vẻ đẹp tâm hồn Việt Nam. Đó là huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, là truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ, những huyền thoại, truyền thuyết gợi ra quá trình sinh thành và lớn lên của dân tộc, cũng là quá trình trưởng thành bền vững của hình tượng đất nước.

Không gian địa lí không chỉ là núi, sông, đồng, bể... mà còn là không gian gần gũi với cuộc sống của mỗi người [Đất là nơi anh đến trường / Nước là nơi em tắm]. Đất nước cũng là không gian sinh tồn của cộng đồng qua bao thế hệ. Đất nước hóa thân trong mỗi con người [Trong anh và em hôm nay / Đều có một phần đất nước]. Hình tượng đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa cái nhỏ bé với cái lớn lao, giữa cái cụ thể với cái trừu tượng, giữa vật chất với tinh thần. Hình tượng đất nươc được soi chiếu trong cái nhìn của văn hóa dân gian. Từ kho tàng văn hóa dân gian phong phú, đẹp đẽ đó, nhà thơ phát hiện ra một đất nước đầy thi vị lại giàu chất trí tuệ.

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm ”

Những cái tên, những cảnh trí của thiên nhiên đất nước được cảm nhận qua cảnh ngộ, số phận của nhân dân. Những núi, sông, ruộng đồng, gò bãi... như là sự hóa thân những phẩm chất cao đẹp của nhân dân. Chính hình tượng đất nước được tạo nên từ những chất liệu đặc biệt ấy mà trở nên thiêng liêng, thân thiết bội phần.

Hình tượng đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm có bề dày bốn nghìn năm của một nhân dân vô danh đã dựng lên đất nước:

“Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”

Như vậy, hình tượng đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa có bề dày của lịch sử, bề rộng của không gian địa lí, bề sâu của văn hóa, phong tục tập quán. Tất cả đều được nhìn trong cái nhìn của văn hóa dân gian. Chính những phát hiện cùng với cách thể hiện mới mẻ ấy đã nêu bật được một tư tưởng cốt lỗi: “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại”. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn lọc những cái tiêu biểu nhất, có ý nghĩa nhất của văn hóa dân gian và “chế biến” nó để vận dụng sáng tạo vào thơ mình. Vì vậy, những yếu tố đó đã hòa nhập khá tự nhiên với tư duy và cách diễn đạt hiện đại tạo ra màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc vừa mới mẻ cho bài thơ. Đó chính là những đóng góp quan trọng của giọng thơ Nguyễn Khoa Điềm trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại khi tạo dựng chân dung đất nước trong thời đại mới.

Đất nước của Nguyễn Đình Thi hay Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đều thể hiện tình yêu quê hương đất Việt sâu sắc và cảm động. Hình tượng đất nước trong hai bài thơ là sự cảm nhận về đất nước trong ý thức mới đầy tính nhân văn của thời đại Hồ Chí Minh. Một gương mặt đất nước mang màu sắc hiện đại trong thơ Nguyễn Đình Thi. Một hình tượng đất nước đậm đà phong vị dân gian trong thơ Nguyễn Khoa Điềm đã đem lại cho người đọc hôm nay những rung động thẩm mĩ và những cảm nhận đầy đủ, trọn vẹn về Tổ quốc và nhân dân, từ đó thể hiện sâu sắc hơn tình yêu và ý thức trách nhiệm đối với đất nước và nhân dân mình.

--------------------------------------------------------------------

1. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về haibài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thivà Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm.

- Giới thiệu vấn đề nghị luận: Hình tượng đất nước trong hai bài thơ.

2. Thân bài

- Làm rõ đối tượng thứ nhất: Hình tượng đất nước trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi.

- Làm rõ đối tượng thứ 2: Hình tượng đất nước trongbài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.

- So sánh: Nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật

- Những đặc điểm giống nhau về hình tượng đất nước của 2 bài thơ

- Nguyễn Đình Thi khởi đầu bài thơ bằng những xúc cảm trước vẻ đẹp mùa thu.

- Đây là một quyết định khéo léo bởi vì trước kia mùa thu bao giờ cũng là thu thảm thu sầu còn từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 trở đi thì mùa thu vui - mùa thu cách mạng, mùa thu khai sinh ra đất nước.

- Khởi đầu bằng những cảm xúc trước vẻ đẹp mùa thu giúp cho Nguyễn Đình Thi có được những suy tư về đất nước một cách tự nhiên và thoải mái hơn.

- Nguyễn Khoa Điềm khắc họa hình tượng đất nước mình bằng cách đặt hình tượng này trong mối liên hệ với thời gian và không gian cụ thể còn về sau là thời gian không gian trừu tượng.

- Đất nước được nhìn qua chiều dài của thời gian và mặt khác đất nước được xác định bởi những không gian có thể là những không gian nhỏ, không gian cụ thể và cũng có thể là những không gian mênh mông không gian trừu tượng trong lòng người.

Hình tượng đất nước sẽ rất hoàn thiện khi nó được đặt trong 2 mối liên hệ này.

* Còn khi xét về phương diện con nghệ thuật thì hình tượng đất nước trong 2 bài thơ của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm có khá nhiều nét tương đồng.

- Vì đây là hình tượng đất nước được khắc họa trong thơ ca mà hình tượng thơ lại là hình tượng cảm xúc, cho nên cả 2 tác giả đều viết về đất nước bằng niềm tự hào sâu sắc, bằng những nhận thức thấm thía về lịch sử về truyền thống dân tộc.

- Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã khắc họa hình tượng đất nước của mình với 2 đặc điểm rất lớn, vừa trái ngược nhau lại vừa rất hài hòa với nhau.

- Đấy là một đất nước vất vả đau thương với những cảnh đồng quê chảy máu dây thép gai đâm nát trời chiều, với cái cảnh “bát cơm chan đầy… còn giằng khỏi miệng ta”. Tuy nhiên đất nước chúng ta còn là một đất nước anh hùng quật khởi và một cái đất nước quật cường đã khiến cho kẻ thù bất lực.

“Xiềng xích chúng bay

Lòng dân ta yêu nước thương nhà”

- Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn miêu tả những hình ảnh dân tộc bằng cách nối liền hiện tại với quá khứ và tương lai. Từ điểm nhìn hiện tại, Nguyễn Đình Thi lắng nghe những tiếng rì rầm trong lòng đất của quá khứ vọng về.

- Đấy là tiếng nói hình ảnh của đất nước chưa bao giờ khuất. Đồng thời cảm hứng thơ còn đưa Nguyễn Đình Thi hướng tới tương lai. Ông như nhìn trước một nước Việt Nam từ trong máu lửa rũ bùn đứng dậy sáng lòa.

- Còn ở trong bài thơ đất nước của mình, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại bộc lộ niềm tin sâu sắc của ông về những hình ảnh văn hóa lâu đời.

- Để viết nên bài thơ đất nước của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng với một mật độ rất cao các chất liệu văn hóa dân gian. Dựa trên rất nhiều câu ca dao tục ngữ, để viết nên những câu thơ của mình.

- Ông còn đưa vào bài thơ rất nhiều truyền thuyết, những sinh hoạt phong tục tập quán đậm đà bản sắc dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm còn ý thức một cách rất sâu sắc về những đóng góp lớn lao của nhân dân cho đất nước.

- Đó là những đóng góp từ nhỏ nhặt cho đến lớn lao, những đóng góp được ghi lại trong sử sách và cả những đóng góp âm thầm lặng lẽ không ai biết. Đó còn là những đóng góp kiên nhẫn, bền bỉ truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Những điểm khác nhau của hình tượng đất nước ở 2 tác phẩm

- Đây là 2 bài thơ được ra đời ở 2 thời điểm rất khác nhau và chính điều đó đã khiến cho hình tượng đất nước ở 2 bài thơ này có nhiều chỗ khác biệt.

- Nguyễn Đình Thi thì khắc họa hình tượng đất nước với 2 đặc điểm và đặt hình tượng đất nước trong mối quan hệ với quá khứ và tương lai.

- Trong khi ấy Nguyễn Khoa Điềm lại viết bài thơ này theo một định hướng tư tưởng nhằm chứng minh: “đất nước này là đất nước của người dân”, mà tư tưởng cơ bản này đã chi phối toàn bộ bài thơ và nó quy định bút pháp, nó buộc Nguyễn Khoa Điềm phải chọn cái giải pháp đi từ cụ thể đến khái quát. Điều này là rất dễ giải thích bởi vì bản thân tư tưởng đất nước của người dân vốn đã là trừu tượng. Để cho sáng tỏ nó chỉ có 1 cách là đi từ rất nhiều những hình ảnh cụ thể, những đóng góp của người dân cho đất nước, những chất liệu văn hóa dân gian… để rồi từ rất nhiều hình ảnh cụ thể ấy tư tưởng đất nước của người dân mới được làm sáng tỏ.

Lí giải sự khác biệt:

* Thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện

- Bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học.

* Do sự khác biệt về phong cách

- Thơ Nguyễn Đình Thi thường giàu nhạc tính có chất hội họa và điều đặc sắc nhất là có cả những suy tư sâu sắc của một tư duy triết học. Còn thơ Nguyễn Khoa Điềm thường viết về cuộc đấu tranh cách mạng.

- Ông hay đề cao phẩm chất của những bà mẹ anh hùng, những chiến sĩ giải phóng kiên cường. Đặc biệt ông có những cảm nhận rất phong phú và sâu sắc về đất nước trong những năm chống Mĩ.

* Về phương diện bố cục:

- Chúng ta rất dễ dàng nhận thấy ở 2 bài thơ đất nước đều chia làm 2 phần nhưng sự liên kết 2 phần ở mỗi bài lại rất khác nhau.

- Bài đất nước của Nguyễn Đình Thi được bắt đầu bằng những xúc cảm trước vẻ đẹp của mùa thu, mùa thu Hà Nội trong hồi tưởng và mùa thu Việt Bắc trong hiện tại. Để rồi sau đó mới chuyển sang quá khứ 2 thời điểm để diễn tả những suy tư cả tác giả đối với đất nước.

- Trong khi ấy thì bố cục 2 phần của bài thơ đất nước của Nguyễn Khoa Điềm lại theo một cách hoàn toàn khác. Phần 1 dành cho việc khắc họa hình tượng đất nước trong mối liên hệ với thời gian. Để rồi toàn bộ phần 2 nhằm chứng minh cho tư tưởng với đất nước của người dân.

3. Kết bài

- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.

- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.

- Giới thiệu về hình tượng đất nước [nhiều tác giả viết về hình tượng đất nước, trong đó nổi tiếng nhất là hai bài thơ đất nước của Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi]

- Tuy cùng tên nhưng mỗi bài lại viết lên hình tượng đất nước với những cảm nhận riêng biệt

2. Thân bài

2.1. Điểm giống nhau:

- Đều được ra đời sau Cách mạng tháng Tám [Nguyễn Đình Thi - 1948-1955, Nguyễn Khoa Điềm -1974]

- Nội dung: Hình ảnh nhân dân được làm chủ đất nước tự do, giàu đẹp. Đều ca ngợi và tự hào bởi truyền thống anh hùng, kiên cường của dân tộc

- Giọng thơ mộc mạc, giản dị, vừa trữ tình vừa có nét chính luận, mang tính triết lý hàm súc cao

- Thể hiện lòng yêu nước sâu sắc

2.2 . Điểm khác

2.2.1. Đất nước - Nguyễn Đình Thi

a. Cảm hứng sáng tác

- Lấy cảm hứng từ cuộc kháng chiến chống Pháp lần hai

- Kết cấu: Đi từ quá khứ đau thương tới hiện tại anh dũng, kiên cường, kết lại bằng hình ảnh tương lai tương sáng của dân tộc.

b. Đất nước qua cảm nhận của tác giả:

- Đất nước hiền hòa qua hình ảnh mùa thu

+ Mùa thu của đất nước hiện lên qua hình ảnh mùa thu của Hà Nội trong cái nhìn, nỗi nhớ từ mùa thu ở chiến khu ["những con phố dài xao xác hơi may", không khí "mát trong", "chớm lạnh", "hương cốm mới", ...]. => Mùa thu đất nước đẹp nhưng man mác buồn, đầy suy tư.

+ Đất nước hiện tại: Vui trong niềm vui phấn khởi "mùa thu nay đã khác rồi", niềm tự hào về đất nước được "thay áo mới", được hưởng tự do, được làm chủ quê hương, niềm tự hào đất nước giàu đẹp "trời xanh đây ... phù sa"[Sự chuyển biến trong tâm thế con người].

=> Chuyển biến của mùa thu hay chính là chuyển biến của đất nước: tươi vui, phấn khởi, tràn đầy niềm tự hào].

- Đất nước đau thương trong chiến tranh, nhưng vẫn vươn lên bất khuất

+ Những đau thương do chiến tranh gây nên, mất mát, tổn thương " Ôi những cánh đồng ... trời chiều", "Bát cơm chan ... lột da".

+ Thế nhưng với tinh thần anh dũng bất khuất, nhân dân ta đã đứng lên bằng tình yêu quê hương "Xiềng xích ... thương nhà", giành lại độc lập tự do, làm chủ đất nước non sông "khói nhà máy ... anh hùng".

- Đất nước trong tương lai đổi mới, đất nước của những con người anh hùng "ngày nắng đốt ... sáng lòa".

=> Vẻ đẹp hùng tráng của dân tộc Việt Nam, đất nước, con người Việt Nam. Bài thơ khái quát lên sức vươn dậy, đứng lên thần kì của người dân Việt từ quá khứ đau thương, tới hiện tại anh dũng và tương lai tươi sáng.

2.2.2 . Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm

a. Cảm hứng sáng tác

Cảm nhận từ chiều sâu về lịch sử, văn hóa, không gian, thời gian của đất nước.

b. Lý giải cội nguồn của đất nước [9 câu đầu]

- Khẳng định "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi": điều tất yếu, đương nhiên, nhưng là động lực cho ta đi tìm cội nguồn Đất Nước.

- Đất Nước được bắt nguồn từ những gì giản dị, thân thuộc nhất trong đời sống con người: tục ăn trầu "miếng trầu bây giờ bà ăn", những câu chuyện xa xưa "ngày xửa ngày xưa..." của mẹ, thói quen vấn tóc "tóc mẹ thì búi sau đầu", truyền thống đánh giặc của cha ông "dân mình biết trồng tre đánh giặc", ...

- Đất Nước trưởng thành trong quá trình lao động của con người "cái kèo, cái cột thành tên", "Hạt gạo...sàng".

=> Tác giả có cái nhìn khác lạ, mới mẻ về cội nguồn của Đất Nước. Đất Nước bắt nguồn từ chiều sâu lịch sử, văn học, phong tục, văn hóa của dân tộc.

c. Định nghĩa về Đất Nước [28 câu tiếp]

- Về phương diện không gian và địa lý:

+ Đất Nước là hợp nhất của hai yếu tố "Đất" và "Nước"

+ Đất Nước là không gian quen thuộc, riêng tư của đôi lứa yêu nhau, gắn liền với đời sống sinh hoạt của con người, kỉ niệm của đôi lứa [Đất là nơi anh ... nhớ thầm].

+ Đất nước là cả không gian bao la, không gian sinh tồn của các thế hệ con người dân tộc Việt [Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ].

- Đất nước được nhìn xuyên suốt chiều dài lịch sử:

+ Quá khứ: Đất Nước là nơi thiêng liêng, có mẹ u Cơ, cha Lạc Long Quân, sinh ra dân tộc Việt, nó gắn liền với truyền thuyết tổ tiên thiêng liêng. [Đất là nơi ...bọc trứng].

+ Hiện tại: Đất Nước nằm trong sâu thẳm mỗi con người, mỗi người đều mang một phần giá trị của Đất Nước. Khi những giá trị ấy gắn kết lại, Đất Nước sẽ "hài hòa, nồng thắm]. => gắn kết giữa cái chung và cái riêng [Trong anh và em ...vẹn tròn, to lớn].

+ Tương lai: Thế hệ con cháu chúng ta sẽ mang đất nước "đi xa", Đất Nước sẽ trường tồn "muôn đời".

- Cái nhìn suy tư về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với Đất Nước: Mỗi cá nhân phải biết "gắn bó và san sẻ", đóng góp cho Đất Nước, bởi Đất Nước là "máu xương của mình".

- Nhận xét: Đất Nước hiện lên gần gũi, thân thuộc, nhưng không kém phần thiêng liêng, hào hùng. Khát vọng Đất Nước trong sự gắn kết của mọi người sẽ trường tồn mãi mãi.

d. Tư tưởng cốt lõi: Đất nước của nhân dân và những cảm nhận của tác giả về Đất Nước:

- Đất nước được làm nên từ phẩm chất, số phận của con người, là một phần máu thịt của con người

- Chính nhân dân là người làm nên lịch sử Đất Nước bốn ngàn năm:

+ Họ là những con người bình dị, "con trai, con gái bằng tuổi chúng ta", nhưng trong họ luôn chứa chan tình yêu nước.

+ Những con người vô danh đã làm nên đất nước, khẳng định vai trò của mỗi con người trong lịch sử dân tộc [Trong bốn ngàn ...Đất Nước]

- Chính nhân dân là người tạo ra và giữ gìn những giá trị vật chất và tinh thần để làm nên Đất Nước:

+ Văn hóa: "Họ giữ và ... hái trái"

=> Đặt nền móng cho sự phát triển dài lâu của Đất Nước.

- Tư tưởng cốt lõi, cảm hứng bao trùm trong đoạn thơ là tư tưởng "Đất Nước của nhân dân, .. thần thoại", Đất Nước ấy biết yêu thương, trân quý nghĩa tình, có ơn trả ơn, có thù trả thù, góp sức và công lao xây dựng Đất Nước, chiến đấu bảo vệ non sông.

- Nhận xét:

+ Về nội dung: Thể hiện cái nhìn mới mẻ về Đất Nước trên các phương diện như lịch sử, địa lý, văn hóa, với tư tưởng cốt lõi Đất Nước của nhân dân

+ Nghệ thuật: Sử dụng đa dạng và sáng tạo ngôn ngữ dân gian, các chất liệu như ca dao, tục ngữ, ... giọng điệu đậm chất suy tư, triết lý.

2.3 : Nhận xét chung:

- Cả hai bài thơ đều cảm nhận về đất nước ở một khía cạnh riêng, mới lạ, hiện đại

- Mỗi bài đều có cái nhìn riêng, hoàn thiện hình tượng đất nước trong mỗi người dân Việt Nam để chúng ta có cái nhìn đầy đủ nhất về Đất Nước.

3. Kết bài:

- Khẳng định tình yêu nước sâu sắc, khơi gợi tình yêu nước trong lòng mỗi người.

[Toquoc]- Điều khá thú vị trong thi phẩm “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi ở chỗ: Khi thể hiện ý thức làm chủ đất nước, hình tượng đất nước được miêu tả trong cái nhìn không gian. Nhưng khi gợi tả hồn đất nước, truyền thống dân tộc, tác giả lại cảm nhận đất nước theo chiều dài thời gian. Mạch thơ như lắng sâu khi tác giả cắt nghĩa cội nguồn của cảm xúc tự hào vui sướng của mình:

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về.

Cái tôi trữ tình đến đây chuyển hoá thành cái ta. Nhà thơ không chỉ nhân danh cá nhân mà nhân danh cộng đồng nói lên niềm tự hào và ý thức làm chủ. Cảm hứng trữ tình có phần riêng tư ở đoạn thơ mở đầu đến đây chuyển thành cảm hứng anh hùng ca.

Hai câu thơ đầu xét về ngữ pháp, ta thấy chúng có mối quan hệ liên hợp với nhau. Sự lặp lại của từ “nước” trong dòng thơ thứ hai thực hiện chức năng nối kết, bổ sung nghĩa. Hai câu thơ đầu như một định nghĩa về đất nước. Mà cốt lõi của định nghĩa là chân lí trường tồn của đất nước ta, sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Cả quá khứ mấy nghìn năm bỗng trở nên gần gũi với con người hôm nay. Nhà thơ cảm nhận truyền thống dân tộc như một mạch sống luôn chuyển vĩnh hằng trong lòng đất. Thi nhân như nghe thấy tiếng vọng của ngàn xưa, của hồn thiêng sông núi. Cách định nghĩa đất nước của Nguyễn Đình Thi như tạo ra một không khí trang trọng thiêng liêng trầm hùng khi nói về lịch sử dân tộc.

Đọc “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi điều ám ảnh lớn nhất đối với tôi là giai điệu thơ. Không gian thơ mở rộng đến vô cùng. Giọng thơ phấn khởi, tươi tắn, sôi nổi. Nhịp thơ vút đi vang vọng tiếng yêu đời. Hình ảnh thơ bừng sáng, rộn ràng, phơi phới. Âm hưởng lời thơ khoáng đạt. Trong cảm quan của Nguyễn Đình Thi đất nước là bầu trời xanh bao la, tươi đẹp hiền hoà, đất nước là ruộng đồng thẳng cánh cò bay thơm ngát hương lúa. Đất nước là những ngả đường bát ngát xuôi ngược từ Bắc vào Nam rộng dài từ Đông sang Tây. Đất nước còn là những dòng sông phù sa màu mỡ.

Về cách định nghĩa về “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm trong trường ca “Mặt đường khát vọng”, có thể nói ngắn gọn: Đó là tư duy thơ mới mẻ.

Nguyễn Khoa Điềm định nghĩa “Đất Nước” theo lối chiết tự và qui tụ về tư tưởng “Đất nước của Nhân dân”, khiến cho hình tượng “Đất Nước” hiện ra trong sự hình dung của người đọc vừa lớn lao, thiêng liêng, vừa gần gũi, quen thuộc.

Sau khi nêu cảm nhận của mình về nguồn gốc lịch sử văn hoá của đất nước. Nhà thơ hình tượng hoá nghĩa của từng yếu tố cấu thành “Đất Nước”. Cách chiết tự này của Nguyễn Khoa Điềm có sự kết hợp tư duy hình tượng với tư duy lôgíc để tạo nên chất chính luận và trữ tình đặc sắc cho tác phẩm .

Ví dụ, tác giả định nghĩa từng thành tố: “Đất là nơi anh đến trường - Nước là nơi em tắm”; “Đất là nơi chim về - Nước là nơi rồng ở...” Đất, trong đoạn thơ này, theo cảm nhận của chủ thể trữ tình vừa là không gian cụ thể, gắn bó với cuộc sống từng cá nhân, vừa là không gian rộng lớn, nơi sinh sống thương yêu, sẻ chia của cộng đồng. Nước là cũng vừa là không gian cụ thể, gắn với sinh hoạt đời thường, vẻ đẹp tâm hồn trong sáng hồn nhiên của con người, vừa là không gian gặp gỡ, hoà hợp. Trên cơ sở đó, tác giả cấp cho ta cảm nhận, cái nhìn chung về khuôn mặt, dáng hình Đất Nước: “Đất Nước là nơi ta hò hẹn”; “Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”; “Đất Nước là máu xương của mình”... “Đất Nước” theo Nguyễn Khoa Điềm có ý nghĩa biểu trưng cho tình nghĩa con người, vừa có nguồn gốc đẹp đẽ thiêng liêng, vừa bắt nguồn từ đời sống tình cảm hài hoà nồng thắm, vừa là không gian sum họp, đoàn kết, nguồn gốc của sự sống; vừa là nơi bao thế hệ đã đấu tranh kiên cường dũng cảm, đã hy sinh “hoá thân cho dáng hình xứ xở” để làm nên “Đất Nước muôn đời”.

Cách định nghĩa Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm rất thơ và khúc chiết, không chung chung trừu tượng mà khá cụ thể. Quan niệm đó, vừa có tính kế thừa, vừa phát triển mang ý nghĩa triết lí rộng lớn. Đất nước vốn là khái niệm không gian, đã được nhà thơ thời gian hoá, từ phạm trù khách quan, chuyển hoá thành chủ quan: Đất Nước kết tinh, hoá thân trong cuộc sống của mỗi con người: “Trong anh và em hôm nay - Đều có một phần Đất Nước - Khi hai đứa cầm tay - Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm”... Đất Nước được cảm nhận như sự thống nhất hài hoà của các phương diện văn hoá, truyền thống, phong tục tập quán, đời sống cá nhân và cộng đồng... Cách định nghĩa “Đất Nước” theo lối qui nạp trong “Mặt đường khát vọng” thể hiện chiều sâu, bề rộng văn hoá, những trải nghiệm, suy tưởng riêng và xúc động mãnh liệt, chân thành của Nguyễn Khoa Điềm.

Như vậy, cả Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm đều có cách định nghĩa khác nhau về đất nước. Điều đó đem lại cho người đọc những cảm nhận mới mẻ về hình tượng đất nước. Điểm chung lớn nhất trong cảm quan đất nước của hai thi nhân là đều cắt nghĩa đất nước từ cội nguồn văn hoá, lịch sử độc đáo, từ không gian địa lí cụ thể đến không gian có tính chất biểu trưng của dân tộc Việt. Cách định nghĩa đất nước của Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi thực tế là sự tiếp nối cách định nghĩa đất nước từ thời Lí Thường Kiệt và Nguyễn Trãi.

Từ xưa, Lí Thường Kiệt quan niệm đất nước gồm ba yếu tố: Cương vực lãnh thổ, thể chế chính trị và sách trời. Đất nước của Lí Thường Kiệt gắn với tư tưởng thiên mệnh [Nam Quốc sơn hà]. Còn Nguyễn Trãi khẳng định: Đất nước là của dân, do dân, do người hào kiệt nhiều đời xây dựng, gìn giữ. Chẳng thế mà trước hoạ xâm lăng, dân là người đầu tiên chịu tai vạ, quân cuồng Minh, bọn gian tà là người “dối trời, lừa dân” “nhiễu nhân dân”; họ Hồ phi nghĩa trái đạo “lòng dân oán hận”; cũng chính dân đoàn kết: “nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới” tạo thành sức mạnh tinh thần to lớn, diễn đạt khác đi dân là người mưu đồ đại nghĩa [Bình Ngô đại cáo].

Cái nhìn của Nguyễn Trãi về đất nước khá sâu sắc, toàn diện và có tính hiện đại. Một quốc gia độc lập phải có: nền văn hiến, phong tục tập quán lâu đời; lãnh thổ riêng, chủ quyền chính trị độc lập, truyền thống lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước; thời nào cũng có người tài giỏi. Tác giả lập luận chặt chẽ liền mạch, khẳng định sự tồn tại của nước ta như một chân lí hiển nhiên.

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văiệt nam hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi từ lâu

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có.

Ngôn ngữ thơ trang trọng, giản dị, giàu sắc thái trữ tình. Từ “cùng” khẳng định sự bình đẳng, mỗi bên hàm ý độc lập, từ “xưng đế” chứa đựng sức mạnh, từ “khác” nhấn mạnh bản sắc dân tộc, “vốn xưng” có nét nghĩa sự tự chủ, tự cường, “đời nào cũng có” chứa đựng lòng tự tôn dân tộc và cả sự thách thức ngầm kẻ thù xâm lược. Đoạn thơ ngắn nhưng nhịp thơ đa dạng phù hợp với lí lẽ phong phú sắc bén của tác giả. Giọng thơ đanh thép, trang nghiêm, ngợi ca tự hào chắc mạnh là chính kết hợp với nghệ thuật đối góp phần thể hiện sự bình đẳng của dân tộc ta và phong kiến phương Bắc trong quá trình hình thành phát triển của mình.

Quan niệm về đất nước của Lí Thường Kiệt có màu sắc thần bí, còn ở Nguyễn Trãi sát với hiện thực hơn. Cái lí mà Lí Thường Kiệt dựa vào đó lá sách trời, còn Nguyễn Trãi thuyết phục người khác từ truyền thống văn hoá. Lí Thường Kiệt nhấn mạnh tư tưởng trung quân, Ức Trai triển khai nội dung nhân nghĩa bắt đầu từ sự nhìn nhận về đất nước, dân tộc. Lí Thường Kiệt đề cao tư tưởng trung nghĩa. Nguyễn Trãi gần gũi với dân đen, con đỏ nên nói đến nhân nghĩa nhiều hơn.

Hiền Thảo

Đề 7: Phân tích và so sánh hình tượng đất nước trong đoạn trích Đất Nước [ trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm] và bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi.

Hướng dẫn bài làm cách cảm nhận về lịch sử đất nước của nguyễn khoa điềm có gì khác với nguyễn trãi hay chế lan viên trong các đoạn trích bên? hãy nhất được tổng hợp chi tiết bêm dưới với 5 mẫu. Hãy cùng tham khảo với duhocmyau tham khảo nhé

Dehoctot.edu.vn xin giới thiệu tới các em học sinh và quý thầy cô giáo bài phân tích sự giống và khác nhau chi tiết nhất giữa Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh và Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi giúp các em rèn luyện kĩ năng và phương pháp làm văn dạng đề so sánh sao cho mạch lạc, hấp dẫn.

Cả hai tác phẩm đều được viết vào thời điểm có ý nghĩa lịch sử trọng đại của đất nước:

“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là kết thúc 10 năm gian khổ kháng chiến chống quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn

“Tuyên ngôn độc lập” của HCM là kết thúc thời kỳ nước ta bị “một cổ 2 tròng” dưới 2 tầng áp bức của thực dân Pháp và phát xít Nhật] , và mở ra một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên tự do, độc lập của đất nước !

Về thể loại

Cả hai tác phẩm đều thuộc thể văn chính luận có bố cục chặt chẽ [3 phần] lập luận sắc sảo ; lý lẽ hùng hồn, mang tính luận chiến cao ; dẫn chứng rõ ràng cụ thể, chính xác ; tình cảm thiết tha,… .

Hai tác phẩm đều có chung ý nghĩa “tuyên bố rộng rãi cho toàn thể nhân dân được biết về nền độc lập tự do của dân tôc”.

Về nội dung

Cả hai tác phẩm đều có các nội dung cơ bản giống nhau, đều mang giá trị Văn học – nhân văn sâu sắc :
Hai bản tuyên ngôn đều xuất phát từ tư tưởng nhân đạo của dân tộc : Bình Ngô đại cáo đứng trên lập trường Nhân nghĩa của dân tộc là “yên dân – trừ bạo” ; còn Tuyên ngôn độc lập thì đứng trên lập trường quan điểm về quyền sống, quyền tự do, độc lập của dân tộc
Hai bản “tuyên ngôn” đều có nội dung tố cáo tội ác “trời không dung đất không tha” của giặc
Hai bản “tuyên ngôn” đều có nội dung “lược thuật tóm tắt quá trình chiến đấu của nhân dân vì độc lập tự do”
Hai bản tuyên ngôn đều có lời tuyên bố hòa bình , mở ra một thời kỳ độc lập tự o cho đất nước và ý chí quyết tâm giữ gìn nền tự do độc lập đó

Điểm khác nhau giữa Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi

Về thời đại lịch sử và hoàn cảnh sáng tác

Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi ra đời vào cuối năm 1427 đầu năm 1428 sau khi chiến thắng quân Minh
Tuyên ngông độc lập của Hồ Chí Minh ra đời vào ngay khi cách mạng tháng Tám thành công 1945 – thời điểm nóng bỏng đến kết thúc của chiến tranh Thế giới thứ 2.

Về thể loại

Cùng mang phong cách của văn chính luận, nhưng :
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi được viết bằng chữ Nôm theo lối văn Biền ngẫu với thể loại “Cáo” dùng để kết thúc chiến tranh [thuộc nền văn học Trung đại] .
Tuyên ngôn độc lâoj của Hồ Chí Minh thì được viết theo lối văn hiện đại, bằng chữ Quốc ngữ [thuộc nền văn học Hiện đại]

Về cơ sở pháp lý

Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi dựa trên lập trường “Nhân nghĩa” của dân tộc Việt Nam [yên dân, trừ bạo]
Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đứng trên lập trường “quyền bình đẳng, quyền độc lập, tự do của các dân tộc” trên thế giới

Về phạm vi ý nghĩa

Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi có phạm vi nội bộ trong nước Đại Việt, chỉ “xa gần bá cáo / Ai nấy đều hay” …
Tuyên ngôn độc lập của HCM ngoài việc tuyên bố trước toàn thể dân tộc Việt Nam, mà còn có ý nghĩa tuyên bố với toàn thế giới về độc lập chủ quyền của dân tộc Việt Nam và ngăn chận cả âm mưu tái xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp!
Ở thời điểm này, tại biên giới phía Bắc, Mỹ đứng sau quân Tàu -Tưởng đang lăm le tràn vào nước ta núp dưới bóng của tổ chức Vệt Nam quốc dân Đảng. Tại phía Nam, lính viễn chinh Pháp đang núp sau quân đội Anh vào giải giáp vũ khí của Nhật . Thực dân Pháp lại tuyên bố rằng : Đông Dương là thuộc địa của Pháp bị Nhật chiếm, nay Nhật đã đầu hàng, vậy Đông Dương đương nhiên thuộc quyền “bảo hộ” của người Pháp… Tuyên ngôn độc lập đã cương quyết bác bỏ luận điệu đó của Pháp!

Đọc thêm: Bài thơ "Mới ra tù tập leo núi" của Hồ Chí Minh | Trích Ngục trung nhật ký [Nhật ký trong tù]

Về lòng yêu nước, thương dân

– Bình Ngô đại cáo: Quan niệm lấy dân làm gốc, yêu nước là yêu nhân dân: dân đen, con đỏ

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”

Nhândân là tầng lớp đáng thương nhất trong chiến tranh. Họ là nhân dân Đại Việt.

Đâylà quan niệm có tiến bộ nhưng chưa rộng mở.

– Tuyên ngôn độc lập: Yêu nước là yêu nhân dân đất nước, là đem lại độc lập cho dân tộc và dânchủ cho nhân dân “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ…”. Tình yêu con người được đề cập đến rộng rãi hơn, con người trên toàn thếgiới. Quan niệm tư tưởng tiến bộ của con người trong thời đại mới.

Về cách mở đầu

TrongBìnhngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã khẳng định một chân lý lịch sử:Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạothìTuyên ngôn độc lậpmở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nóinổi tiếng trong hai bản tuyên ngôn của thế giới. Câu thứ nhất được trích từTuyên ngôn độc lậpcủa nước Mỹ năm 1776:Tất cả mọi người đều sinh ra cóquyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được,trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnhphúc.

Câu thứ hai được rút ratừ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyềnCách mạng Pháp năm 1791:Người ta sinh ra tự do và bình đẳngvề quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.Đây là một dụng ý chiến lược và chiếnthuật của Bác. Người muốn dùng lời của ông cha người Pháp và người Mỹ để đậpvào lưng của con cháu họ, dùng cây gậy độc lập tự do đánh vào lưng những kẻ thùcủa độc lập tự do. Nếu câu mở đầu củaNamquốc sơn hàlà lời khẳng định chủ quyền dân tộc, mở đầu củaBìnhNgô đại cáolà một triết línhân nghĩa gắn với an dân thì mở đầu củaTuyênngôn độc lậplà một lời tranhluận ngầm nhằm lột tẩy những mưu mô thủ đoạn của bọn thực dân. Cách trích dẫnấy vừa tạo được cơ sở vững chắc choTuyênngôn độc lậpcủa Việt Nam,vừa sảng khoái niềm tự hào dân tộc. Như ngày xưa Nguyễn Trãi đã từng viết:Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập – Cùng Hán, Đường, Tống,Nguyên mỗi bên xưng đế một phươngnhằmđặt ngang hàng các triều đại nước Việt với các triều đại Trung Hoa cổ.

Về cách tố cáo tội ác của giặc

– Bình Ngô đại cáo: Ức Trai tiên sinh đã từng vạch tội giặc Minhmượngió bẻ măng, lợi dung thời cơphùTrần diệt Hồđể thôn tínhnước ta:Nhân họ Hồ chính sựphiền hà – Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa.Năm xưa, Nguyễn Trãi đã khái quát lạitội ác tày trời và chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Ngô qua hai câuthơ:Nướng dân đen trên ngọn
lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Trong tác phẩm của mình, Bác đã dùng lập luận bác bỏ để vạch trần năm tội ác vềchính trị, bốn tội ác về kinh tế của thực dân Pháp. Nếunước mẹ Pháp đưa ra chiêu bàibảo hộthì Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ:Trong năm năm, chúng bán nước tacho Nhật…ỞTuyên ngôn độc lập, với vănphong đĩnh đạc, giàu tính luận chiến, Bác đã viết:Chúng bóc lột dân ta đến xương tủy,khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướpkhông ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.Vớicách lặp kết cấu cú pháp, điệp ngữ “chúng”, kết cấu song hành, tăng tiến, Tuyênngôn độc lậplà bản tuyên cáochi tiết những hành động tham tàn bạo ngược của giặc Tây trên đất nước ViệtNam.

Đặc biệt, ởTuyên ngônđộc lập, với những dẫn chứng, số liệu cụ thể, bằng ngòi bút giàu sức chiếnđấu, Nguyễn Ái Quốc còn vạch rõ thủ đoạn thâm độc của chính sách ngu dân, caitrị dân tộc Việt Nam bằng rượu và thuốc phiện,lập nhà tù nhiều hơn trường học.Nước Pháp ở thời điểm này đang rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế; thay vì đổxuống biển hàng tấn rượu thì bọn thực dân đã mở rộng khai thác thuộc địa sangcác nước Đông Dương và biến các nước này trở thành nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừacủa chúng.

Vì vậy chúng cấm người dân Việt Nam không được nấu rượu bằng cácsản vật địa phương như gạo, mía, sắn mà phải dùng rượu Pháp. Trở lại những nămba mươi của thế kỷ hai mươi, ta mới thấy hết được không khí ngột ngạt, đau khổcủa thôn xóm Việt Nam.Khắp nơi , bọn tay sai phong kiến và thực dân Pháp truy tìm, bắt bớ bỏ tù hàngngàn người dân vì tội nấu “rượu lậu”. Bên cạnh đó, bọn chúng cho phép các tiệmhút được mở công khai ở Hà Nội, Hải Phòng nhằm làm suy nhược sức khỏe và bănghoại ý chí đấu tranh của tầng lớp thanh niên ta. Lên án âm mưu thâm độc này,trongTuyên ngôn độc lập,Bác viết:Chúng ràng buộc dưluận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm chonòi giống ta suy nhược.

Về tính chất chính nghĩa, thái độ khoan hồng và nhânđạo

Nam Quốc Sơn Hà:sách trời đã định, không thể thay đổi.

TrongTuyên ngôn độc lập, Bác đã ngợica thái độ khoan hồng và nhân đạo của người dân đất Việt:Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3,Việt Minh đã giúp cho người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều ngườiPháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản cho họ. Tinh thầnnhân nghĩa đó vốn xuất hiện từ lâu trong đạo lý dân tộc:Đánh kẻ chạy đi không ai đánh ngườichạy lại.

Nguyễn Trãi:Đem đại nghĩađể thắng hung tàn – Lấy chí nhân mà thay cường bạo.Tư tưởng nhân nghĩa là sợi chỉ đỏxuyên suốt trongBình Ngô đạicáovà cuộc đấu tranh chốngquân Minh của quân dân Đại Việt.

Đọc thêm: Phân loại và cách làm bài dạng đề so sánh | Nghị luận văn học

Về tuyên bố độc lập

Lời kết thúcBìnhNgô đại cáovới sự hòa quyệngiữa cảm hứng độc lập và cảm hứng vũ trụ, Ức Trai tiên sinh trịnh trọng tuyênbố nền độc lập tự do:Xã tắctừ nay vững bền – Giang san từ đây đổi mới – Càn khôn bỉ mà lại thái – Nhật nguyệt hối mà lại minh – Muôn thuở nền thái bình vững chắc – Ngàn năm, vết nhụcnhã sạch làu.

ỞTuyên ngôn độc lập, trước khicông bố quyền được hưởng tự do độc lập một cách xứng đáng của dân tộc ta, HồChí Minh đã tuyên bố thoát lí mọi quan hệ với thực dân, xóa bỏ mọi hiệp ước,mọi quyền lợi của Pháp trên đất nước Việt Nam. Đây là một việc làm vô cùng cóý nghĩa. Để thiết lập một đất nước Việt Nam mới và mở ra một kỉ nguyên độc lậptự do của đất nước, ta phải xóa bỏ mọi ràng buộc, mọi mối quan hệ với thực dânPháp, phải đập tan mọi luận điệu của Đờ Gôn [tướng Pháp] và bọn thực dân phảnđộng Pháp đang âm mưu tái chiếm Đông Dương:NướcViệt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do,độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.Đoạn văn gồm ba ý, xây dựng theo lốităng cấp: quyền hưởng tự do độc lập của dân tộc, hưởng tự do độc lập là sựthực, quyết tâm giữ vững độc lập tự do bằng mọi giá của con người Việt Nam. Đâylà lời tuyên bố hào hùng, làkếtquả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu dân[TrầnDân Tiên].

Về nghệ thuật

Vềtổng thể,Tuyên ngôn độc lậpcó điểm tương đồng giữa các phần nhưBình Ngô đại cáosong bố cục ngắn gọn và chặt chẽ hơn.

Nếu Bình Ngô đại cáo sáng tác theo các thể thơ văn cổ Trung đại thìTuyên ngôn độc lậpviết theo phong cách văn chính luậnhiện đại với lập luận sắc sảo, bằng chứng rõ ràng, hình ảnh gợi cảm, ngôn từ
chính xác, kết hợp sâu sắc giữa văn học và chính trị, kế thừa và phát triển.

– Ngôn từ, hành văn, cách diễn dạt của Tuyên ngôn độc lập ngắn gọn, dễ hiểu, lập luận khoa học, sắc sảo. Nam Quốc Sơn Hà ngắn gọn, xúc tích chưa thật đầy đủ. Bình Ngô đại cáo dài hơn.

– Thể loại chữ viết hai bài trên: Tuyên ngôn độc lập là chữ quốc ngữ thể văn chính luận, Bình Ngô đại cáo chữ Hán thể phú, Nam Quốc Sơn Hà là chữ Hán thể thơ tứ tuyệt Đường luật.

Lí giải: Tại sao giữa Tuyên ngôn độc lập và Bình ngô đại cáo lại có sự khác nhau và giống nhau về nội dung và tư tưởng

– Giống: bởi vì cả hai tác giả đều là những danh nhân lớn của Việt Nam,tiếp thu tinh hoa dân tộc từ bao đời, có lòng yêu nước, yêu nhân dân.

– Khác: bởi vì hoàn cảnh sống giữa hai tác giả khác nhau, vốn sống, vốn hiểubiết và tài năng nghệ thuật cũng khác nhau, đặc biệt là ngoài tinh hoa của dântộc, Hồ Chủ tịch còn tiếp thu cả tinh hoa văn hoá thế giới một cách có chọnlọc.

Đánh giá

Cả 2 tác phẩm Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đều được coi là “Tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam” trong lịch sử hào hùng của dân tộc; khẳng định chủ quyền đất nước, là kim nam châm chỉ phương cho nhân dân tadựng và giữ nước.

Như vậy, Dehoctot.edu.vn vừa giới thiệu tới các em học sinh những nội dung cơ bản khi So sánh “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh và “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi. Dạng đề so sánh là một trong những dạng đề quan trọng, thường xuất hiện trong các đề thi học kì, thi tuyển sinh Đại học. Hy vọng đây là tài liệu hữu ích giúp các em ôn tập tốt hơn môn Ngữ văn 12luyện thi THPT Quốc gia nhé.

CÙNG CHUYÊN MỤC

  • Tổng ôn kiến thức tác phẩm Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh
  • Bài thơ Nam quốc sơn hà | Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam
  • Xin thầy hãy dạy cho cháu biết rằng có thể bán cơ bắp và trí tuệ cho…
  • Truyện ngắn: Cỏ lau - Nguyễn Minh Châu
  • Hệ thống câu hỏi ôn tập truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu - có…
  • Bình luận ý kiến: Khoa học mà không có lương tâm chỉ là sự tàn lụi của…

XEM THÊM

  1. Tìm hiểu tác phẩm Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh
  2. Tổng ôn kiến thức tác phẩm Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh
  3. Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi
  4. Phân tích hình tượng con Sông Đà trong tùy bút “người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân
  5. Công thức viết mở bài nghị luận văn học “chuẩn chỉnh” để đạt điểm tuyệt đối
  6. Tổng ôn kiến thức bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên
  7. Tổng ôn kiến thức bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
  8. Tổng ôn kiến thức bài thơ Sóng của nhà thơ Xuân Quỳnh

Quảng cáo

Xem thêm:

  • Soạn Tuyên ngôn độc lập - Phần tác giả siêu ngắn
  • Soạn Tuyên ngôn độc lập - Phần tác phẩm siêu ngắn
  • Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh

Đề bài

So sánh 3 văn bản được coi là tuyên ngôn độc lập của Việt Nam.

Lời giải chi tiết

1. Điểm giống nhau:

- Khẳng định chủ quyền, quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam.

- Thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, đồng bào.

- Tố cáo tội ác của giặc, vạch trần bộ mặt gian xảo của chúng đồng thời ca ngợi, tôn vinh con người Việt Nam.

2. Điểm khác nhau

a. Hoàn cảnh sáng tác, đối tượng:

Ba bản tuyên ngôn ra đời trong ba hoàn cảnh khác nhau, hướng tới những đối tượng cụ thể khác nhau

-Nam quốc sơn hà: Bắt đầu thời nhà Lý, dưới triều vua Lý Nhân Tông [1072-1127], tháng chạp năm BínhThìn [1076], sau khi hội quân với Chiêm Thành và Chân Lạp nhà Tống [Trung Quốc] đưa quân sang xâm chiếm nước ta vào đến sông Như Nguyệt [nay là sông Cầu thuộc làng Như Nguyệt, Bắc Ninh]. Vua Lý Nhân Tông sai tướng Lý Thường Kiệt đem quân chặn đánh nhưng quân giặc dùng súng bắn đá gây tổn thất cho ta rất nhiều. Lý Thường Kiết hết sức điều động dân quân chống giữ không cho giặc sang sông, nhưng lại lo quân mình ngã lòng, bèn ngâm lớn bài thơ có bốn câu bằng chữ Hán nói là của thần linh mách bảo để động viên, cổ cũ quan quân dốc lòng đánh giặc: Đêm khuya, các chiến sĩ nghe đọc mấy câu thơ đó ai nấy đều phấn chấn nên ra sức đánh giặc rất hăng làm cho quân Tống phải rút lui. Các nhà nghiên cứu sử đều cho rằng bài thơ trên có giá trị như bản tuyên ngôn độc lập vì đã rao truyền cho giặc biết sự độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của nước nhà mà không ai được xâm lấn. Nó còn nói lên khí phách, tư thế và quyết tâm của cả dân tộc lúc bấy giờ.

- Bản tuyên ngôn độc lập thứ hai là bàiBình Ngô đại cáodo Nguyễn Trãi soạn để bá cáo [công bố] cho thiên hạ biết sau khi Bình Định Vương Lê Lợi tổ chức thành công cuộc kháng chiến mười năm chống giặc ngoại xâm nhà Minh [1418-1427].

- BảnTuyên ngôn độc lập thứ ba do Chủ tịch Hồ Chí Minhsoạn thảo và tuyên đọc ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình – thủ đô Hà Nội khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Văn kiện lịch sử này không phải chỉ được đọc trước quốc dân đồng bào mà còn trước thế giới, đặc biệt là trước bọn đế quốc thực dân đang chuẩn bị tái chiếm nước ta. Mặt khác, tại thời điểm này thực dân Pháp tuyên bố: Đông Dương là đất bảo hộcủa người Pháp bị Nhật xâm chiếm, nay Nhật đã đầu hàng, vậy Đông Dương đương nhiên phải trở lại với người Pháp. Bản tuyên ngôn đã dứt khoát bác bỏ những luận điểm đó. Vì vậy đối tượng hướng tới của văn bản này, không chỉ là hai mươi triệu đồng bào Việt Nam để khẳng định quyền độc lập dân tộc, nhân dân tiến bộ thế giới để tranh thủ sự ủng hộ mà còn hướng đến bọn đế quốc: Anh, Pháp, Mỹ nhằm ngăn chặn mọi âm mưu xâm lược của chúng.

b. Cách khẳng định chủ quyền:

- Nam quốc sơn hà: chủ quyền được khẳng định trên 2 phương diện: bờ cõi, vua được ghi trong sách trời – lực lượng siêu nhiên thần bí.

-Bình Ngô đại cáo: chủ quyền được khẳng định trên nhiều phương diện hơn: tên nước, nền văn hiến, bờ cõi, phong tục, triều đại, anh hùng, hào kiệt – các phương diện sánh ngang với Trung Quốc.

-Tuyên ngôn độc lập:Đưa ra lập luận để khẳng định chủ quyền trên 2 phương diện: VN có quyền được hưởng tự do độc lập. Sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Từ đó mới tuyên bố độc lập. Đây là cách lập luận khoa học, chặt chẽ, thuyết phục.

c. Lòng yêu nước, thương dân:

-Nam quốc sơn hà: đề cập đến theo quan niệm Nho giáo, trung quân ái quốc. Yêu nước là yêu vua, yêu vua là yêu nước. Chủ quyền của nước chính là chủ quyền của vua.

-Bình Ngô đại cáo: Quan niệm lấy dân làm gốc, yêu nước là yêu nhân dân: dân đen, con đỏ

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”

Nhân dân là tầng lớp đáng thương nhất trong chiến tranh. Họ là nhân dân Đại Việt.
=> Đây là quan niệm có tiến bộ nhưng chưa rộng mở.

-Tuyên ngôn độc lập: Yêu nước là yêu nhân dân đất nước, là đem lại độc lập cho dân tộc và dân chủ cho nhân dân “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ …”. Tình yêu con người được đề cập đến rộng rãi hơn, con người trên toàn thế giới. Quan niệm tư tưởng tiến bộ của con người trong thời đại mới.

d. Cách mở đầu:

-Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt vào đầu bằng một lời tuyên ngôn đanh thép: Nam quốc sơn hà Nam đế cư [sông núi nước Nam vua Nam ở];

-Bình Ngô đại cáo,Nguyễn Trãi đã khẳng định một chân lý lịch sử: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

-Tuyên ngôn độc lậpmở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nói nổi tiếng trong hai bản tuyên ngôn của thế giới. Câu thứ nhất được trích từ Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776: Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Câu thứ hai được rút ra từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền Cách mạng Pháp năm 1791: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đây là một dụng ý chiến lược và chiến thuật của Bác. Người muốn dùng lời của ông cha người Pháp và người Mỹ để đập vào lưng của con cháu họ, dùng cây gậy độc lập tự do đánh vào lưng những kẻ thù của độc lập tự do. Nếu câu mở đầu của Nam quốc sơn hà là lời khẳng định chủ quyền dân tộc, mở đầu của Bình Ngô đại cáo là một triết lí nhân nghĩa gắn với an dân thì mở đầu của Tuyên ngôn độc lập là một lời tranh luận ngầm nhằm lột tẩy những mưu mô thủ đoạn của bọn thực dân. Cách trích dẫn ấy vừa tạo được cơ sở vững chắc cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, vừa sảng khoái niềm tự hào dân tộc.

Trong phần mở đầu, ngoài việc trích dẫn lời lẽ của hai bản Tuyên ngôn độc lập trên, Bác còn thể hiện một tư duy đầy biến hóa và sáng tạo qua luận điểm suy rộng ra: Tất cả các dân tộc đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Ở đây, Bác đã nâng từ quyền con người lên thành quyền dân tộc, từ vấn đề nhân quyền, vấn đề quyền cá nhân lên thành quyền của mọi dân tộc bị áp bức trên thế giới. Một nhà văn hóa nước ngoài đã viết: Cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của dân tộc. Như vậy, tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh.

e. Cách tố cáo tội ác của giặc:

-Nam quốc sơn hà: lời vạch trần tội ác của quân xâm lược, là lời dự báo cho số phận của bọn cướp nước tội xâm phạm đất nước khác [d/c]. Cách nói hàm xúc, cô đọng.

-Bình Ngô đại cáo: Ức Trai tiên sinh đã từng vạch tội giặc Minh mượn gió bẻ măng, lợi dung thời cơ phù Trần diệt Hồ để thôn tính nước ta: Nhân họ Hồ chính sự phiền hà - Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa. Năm xưa, Nguyễn Trãi đã khái quát lại tội ác tày trời và chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Ngô qua hai câu thơ: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

-Tuyên ngôn độc lập: trong tác phẩm của mình, Bác đã dùng lập luận bác bỏ để vạch trần năm tội ác về chính trị, bốn tội ác về kinh tế của thực dân Pháp. Nếu nước mẹ Pháp đưa ra chiêu bài bảo hộ thì Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ: Trong năm năm, chúng bán nước ta cho Nhật… Ở Tuyên ngôn độc lập, với văn phong đĩnh đạc, giàu tính luận chiến, Bác đã viết: Chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Với cách lặp kết cấu cú pháp, điệp ngữ “chúng”, kết cấu song hành, tăng tiến, Tuyên ngôn độc lập là bản tuyên cáo chi tiết những hành động tham tàn bạo ngược của giặc Tây trên đất nước Việt Nam. Đặc biệt, ở Tuyên ngôn độc lập, với những dẫn chứng, số liệu cụ thể, bằng ngòi bút giàu sức chiến đấu, Nguyễn Ái Quốc còn vạch rõ thủ đoạn thâm độc của chính sách ngu dân, cai trị dân tộc Việt Nam bằng rượu và thuốc phiện, lập nhà tù nhiều hơn trường học. Nước Pháp ở thời điểm này đang rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế; thay vì đổ xuống biển hàng tấn rượu thì bọn thực dân đã mở rộng khai thác thuộc địa sang các nước Đông Dương và biến các nước này trở thành nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa của chúng. Vì vậy chúng cấm người dân Việt Nam không được nấu rượu bằng các sản vật địa phương như gạo, mía, sắn mà phải dùng rượu Pháp. Trở lại những năm ba mươi của thế kỷ hai mươi, ta mới thấy hết được không khí ngột ngạt, đau khổ của thôn xóm Việt Nam. Khắp nơi , bọn tay sai phong kiến và thực dân Pháp truy tìm, bắt bớ bỏ tù hàng ngàn người dân vì tội nấu “rượu lậu”. Bên cạnh đó, bọn chúng cho phép các tiệm hút được mở công khai ở Hà Nội, Hải Phòng nhằm làm suy nhược sức khỏe và băng hoại ý chí đấu tranh của tầng lớp thanh niên ta. Lên án âm mưu thâm độc này, trong Tuyên ngôn độc lập, Bác viết: Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.

g. Tính chất chính nghĩa, thái độ khoan hồng và nhân đạo:

-Nam quốc sơn hà:sách trời đã định, không thể thay đổi.

-Bình Ngô đại cáo -Nguyễn Trãi: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn – Lấy chí nhân mà thay cường bạo. Tư tưởng nhân nghĩa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong Bình Ngô đại cáo và cuộc đấu tranh chống quân Minh của quân dân Đại Việt. Sau khi giặc đầu hàng, lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn đã có những hành động hết sức cao thượng: Mã Kì, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà hồn bay phách lạc – Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà tim đập chân run. Sự thảm hại của kẻ thù vừa làm tôn lên khí thế hào hùng của nghĩa quân đồng thời càng làm nổi bật tính chất chính nghĩa, nhân đạo sáng ngời của cuộc kháng chiến chống quân Ngô thuở nào.

- TrongTuyên ngôn độc lập, Bác đã ngợi ca thái độ khoan hồng và nhân đạo của người dân đất Việt: Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản cho họ. Tinh thần nhân nghĩa đó vốn xuất hiện từ lâu trong đạo lý dân tộc: Đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại. Trong truyện cổ dân gian, khi nghe Thạch Sanh đàn, quân giặc rụng rời chân tay và xin hàng. Trước khi chúng về nước, Thạch Sanh không chỉ tha bổng mà còn cấp cho chúng niêu cơm “ăn mãi không hết”...

h. Tuyên bố độc lập:

- Lời kết thúcBình Ngô đại cáovới sự hòa quyện giữa cảm hứng độc lập và cảm hứng vũ trụ, Ức Trai tiên sinh trịnh trọng tuyên bố nền độc lập tự do: Xã tắc từ nay vững bền – Giang san từ đây đổi mới – Càn khôn bỉ mà lại thái – Nhật nguyệt hối mà lại minh – Muôn thuở nền thái bình vững chắc – Ngàn năm, vết nhục nhã sạch làu.

- ỞTuyên ngôn độc lập,trước khi công bố quyền được hưởng tự do độc lập một cách xứng đáng của dân tộc ta, Hồ Chí Minh đã tuyên bố thoát lí mọi quan hệ với thực dân, xóa bỏ mọi hiệp ước, mọi quyền lợi của Pháp trên đất nước Việt Nam. Đây là một việc làm vô cùng có ý nghĩa. Để thiết lập một đất nước Việt Nam mới và mở ra một kỉ nguyên độc lập tự do của đất nước, ta phải xóa bỏ mọi ràng buộc, mọi mối quan hệ với thực dân Pháp, phải đập tan mọi luận điệu của Đờ Gôn [tướng Pháp] và bọn thực dân phản động Pháp đang âm mưu tái chiếm Đông Dương: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Đoạn văn gồm ba ý, xây dựng theo lối tăng cấp: quyền hưởng tự do độc lập của dân tộc, hưởng tự do độc lập là sự thực, quyết tâm giữ vững độc lập tự do bằng mọi giá của con người Việt Nam. Đây là lời tuyên bố hào hùng, là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu dân [Trần Dân Tiên].

i. Về nghệ thuật.

- Về tổng thể, Tuyên ngôn độc lập có điểm tương đồng giữa các phần như Bình Ngô đại cáo song bố cục ngắn gọn và chặt chẽ hơn. Nếu hai tác phẩm trên sáng tác theo các thể thơ văn cổ Trung đại thì Tuyên ngôn độc lập viết theo phong cách văn chính luận hiện đại với lập luận sắc sảo, bằng chứng rõ ràng, hình ảnh gợi cảm, ngôn từ chính xác, kết hợp sâu sắc giữa văn học và chính trị, kế thừa và phát triển.

- Ngôn từ, hành văn, cách diễn dạt của TNĐL ngắn gọn, dễ hiểu, lập luận khoa học, sắc sảo. NQSH ngắn gọn, xúc tích chưa thật đầy đủ. BNĐC dài hơn.

- Thể loại chữ viết hai bài trên: TNĐL là chữ quốc ngữ thể văn chính luận, BNĐC chữ Hán thể phú, NQSH là chữ Hán thể thơ tứ tuyệt Đường luật.

3. Lí giải: Tại sao giữa TNĐL và BNĐC lại có sự khác nhau và giống nhau về nội dung và tư tưởng.

- Giống: là bởi vì cả hai tác giả đều là những danh nhân lớn của Việt Nam, tiếp thu tinh hoa dân tộc từ bao đời, có lòng yêu nước, yêu nhân dân.

- Khác: là bởi vì hoàn cảnh sống giữa hai tác giả khác nhau, vốn sống, vốn hiểu biết và tài năng nghệ thuật cũng khác nhau, đặc biệt là ngoài tinh hoa của dân tộc, Hồ Chủ Tịch còn tiếp thu cả tinh hoa văn hoá thế giới một cách có chọn lọc.

4. Đánh giá:

Cả 3 đều khẳng định chủ quyền đất nước, là kim nam châm chỉ phương cho nhân dân ta dựng và giữ nước.

Loigiaihay.com

  • Phân tích bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh
  • Giá trị lịch sử và chất chính luận qua Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh
  • Phân tích giá trị của những tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc
  • Phân tích ý nghĩa của những tuyên bố khẳng định độc lập chủ quyền của Việt Nam trong bản Tuyên ngôn độc lập
  • Phân tích “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh

Quảng cáo

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Ngữ Văn 12 - Xem ngay

Báo lỗi - Góp ý

Video liên quan

Video liên quan

Chủ Đề