So sánh đường lối đổi mới của Việt Nam và Trung Quốc

Sự tương đồng, khác biệt giữa đường lối cải cách và đổi mới trong kinh tế ở Trung Quốc - Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [176.86 KB, 33 trang ]

ĐỀ CƯƠNG
Lời mở đầu
Nội dung
I. Hoàn cảnh tiến hành đổi mới và cải cách ở Trung Quốc và Việt Nam
1. Điểm tương đồng
2. Điểm khác biệt
II. Nền kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường ở Trung Quốc và Việt Nam
1. Ở Trung Quốc
2. Ở Việt Nam
III. Những cải cách và đổi mới trong kinh tế ở Trung Quốc và Việt Nam
1. Chế độ sở hữu
2. Nông nghiệp
3. Công nghiệp
4. Kinh tế đối ngoại
IV. Đường lối và chính sách mở cửa ở Trung Quốc và Việt Nam
V. Thành tựu đạt được ở Trung Quốc và Việt Nam trong cải cách, đổi mới
1. Ở Trung Quốc
2. Ở Việt Nam
VI. Những bài học kinh nghiệm trong đổi mới, cải cách
1. Ở Trung Quốc
2. Ở Việt Nam
Kết luận.
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trước khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Trung Quốc đã
trải qua hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến và thực dân. Vốn là quốc gia
có diện tích lớn, đông dân, tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng dưới sự
thống trị của phong kiến và thực dân làm cho nền kinh tế Trung Quốc lâm vào
khủng hoảng, nghèo nàn, lạc hậu. Sau khi thành lập Trung Quốc đã lựa chọn
con đường xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, đưa đất nước ngày càng phát triển.
Những cuộc cải cách của Trung Quốc trong quá trình xây dựng Chủ Nghĩa Xã


Hội được ghi nhận như những cố gắng lớn lao nhằm tìm ra lối thoát cho một
quốc gia Xã hội chủ nghĩa trì trệ trở thành năng động, phát triển. Nó còn đóng
góp nhiều kinh nghiệm cho các nước phát triển đi lên hiện đại.
Việt Nam là nước láng giềng với Trung Quốc, cũng phải trải qua nhiều
năm dưới ách thống trị của phong kiến và chủ nghĩa đế quốc thực dân cùng với
các cuộc chiến tranh liên miên đã làm cho đất nước bị tàn phá nặng nề. Ngay
sau khi thành lập nước chúng ta đã kiên quyết xây dựng thành công Chủ Nghĩa
Xã Hội, cũng thực hiện nhiều cải cách trong kinh tế, nhiều nhà nghiên cứu và
hoạt động thực tiễn của Việt Nam đã từ lâu quan tâm đến việc theo dõi cuộc cải
cách kinh tế ở Trung Quốc, lấy đó làm kinh nghiệm cho Việt Nam. Có người
cho rằng công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam rất giống với cải cách kinh tế ở
Trung Quốc, thậm chí cho rằng là “bản sao” của cuộc cải cách ấy. Tuy nhiên
nếu xem xét kĩ thì thấy rằng bên cạnh nhiều điểm tương đồng, cải cách kinh tế
và mở cửa ở Trung Quốc với đổi mới kinh tế ở Việt Nam còn có nhiều điểm rất
khác nhau. Tìm hiểu sự tương đồng và khác biệt này sẽ giúp cho ta thấy được
những gì có thể tham khảo, những gì không thể hoặc không nên tham khảo từ
cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc vào Việt Nam để có những đường lối
chính sách phù hợp, thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế nói riêng và của toàn
đất nước nói chung.
2
NỘI DUNG
I. HOÀN CẢNH TIẾN HÀNH ĐỔI MỚI VÀ CẢI CÁCH
Ở TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM.
Đối với công cuộc cải cách, đổi mới thì hoàn cảnh có vai trò hết sức quan
trọng. Tuy đó không phải là điều kiện quyết định đối với thành công của cuộc
cải cách, đổi mới đó nhưng nó lại góp phần vào sự thành công và thắng lợi. Và
thực tế lịch sử ở Việt Nam và Trung Quốc đã chứng minh điều đó. Qua nghiên
cứu chúng ta thấy giữa Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng và
khác biệt về hoàn cảnh khi tiến hành cải cách, đổi mới.
1. Về điểm tương đồng: Thứ nhất cả Việt Nam và Trung Quốc

đều tiến hành cải cách, đổi mới trong điều kiện điểm xuất phát thấp, nền kinh tế
lạc hậu, và đều là những nước nông nghiệp với trình độ kĩ thuật lạc hậu, còn phụ
thuộc vào “nền văn minh đòn gánh”, đời sống của nhân dân thuộc loại thấp,
những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống như ăn, ở… vẫn chưa được giải quyết
đầy đủ; cơ sở công nghiệp yếu mỏng, mất cân đối, công nghiệp lạc hậu gây khó
khăn cho việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, nơi sản sinh và nuôi dưỡng yếu
tố bất lợi cho việc hình thành và phát triển kinh tế thị trường. Trong khi đó nông
nghiệp được coi là nghành chủ yếu nhưng cũng không tránh khỏi tình trạng lạc
hâu, trì trệ, công cụ canh tác còn thô sơ, lạc hậu, năng suất thấp kém, sản lượng
ít không đủ đáp ứng nhu cầu trong nước. Mặt khác cơ chế kinh tế khi chưa đổi
mới kìm hãm nền kinh tế, nhiệt tình lao động, năng lực sáng tạo và nguồn lực tài
nguyên chưa được khai thác, huy động đầy đủ, thậm chí còn bị xói mòn. Cơ chế
kinh tế vận động thiếu năng lực, kém hiệu quả mất cân đối, nguy cơ bất ổn định
tiềm tàng trong đời sống. Kinh tế xã hội tích nén lại, tình trạng thiếu hụt kinh
niên đang gia tăng nhanh trong đời sống xã hội…
Thứ hai cả hai nước có cùng chung ý thức hệ mong muốn thực hiện, xây
dựng Chủ nghĩa xã hội trên cơ sở kinh tế nghèo nàn lạc hậu, muốn bỏ qua chế
độ Tư bản chủ nghĩa, quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Trong thời gian dài cả hai
nước đều theo đuổi mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung mà có nguồn gốc là
3
mô hình kinh tế kế hoạch hoá Xô Viết, mô hình đó đã lâm vào khủng hoảng
nghiêm trọng biểu hiện ở năng suất sút kém ở mọi nghành, kinh tế lạc hậu về
khoa học, kĩ thuật, đời sống nhân dân thiếu thốn, nhưng vẫn luôn hi vọng, tin
tưởng vào sự thắng lợi của Chủ nghĩa xã hội. Cả hai nước đều cùng chịu tác
động của văn hoá, lịch sử truyền thống tương tự nhau. Di sản nặng nề của tư
tưởng phong kiến, quan liêu vẫn phát huy và ảnh hưởng không nhỏ vào đời sống
xã hội ở Việt Nam và Trung Quốc, đó chính là nguyên nhân kìm hãm hai nước
trong tình trạng trì trệ, kém phát triển lâu dài.
Thứ ba tuy hai nước bắt đầu cải cách và đổi mới không cùng thời gian
nhưng bối cảnh quốc tế suốt thời kì đó không có sự thay đổi lớn và những yếu tố

tác động đến cuộc cải cách này vẫn tồn tại. Đáng kể nhất là việc Liên Xô và các
nước Đông Âu đang trong quá trình từ bỏ mô hình Chủ nghĩa xã hội kiểu Xô
Viết và chuyển sang nền kinh tế thị trường. Đặc biệt lúc này kinh tế Nhật Bản và
nền kinh tế công nghiệp mới NIEs trong khu vực đã đạt được những thành tựu
nổi bật và kinh nghiệm quý báu. Điều đó thúc đẩy Việt Nam và Trung Quốc
phải đổi mới để theo kịp các nước. Đây cũng là lúc thế giới đang đi đến đòi hỏi
sự hợp tác phân công lao động của tất cả các nước, xu hướng hợp tác hoá, quốc
tế hoá ngày càng cao bất kể sự khác nhau về chính trị, văn hoá. Đồng thời nguy
cơ các thế lực Tư bản chủ nghĩa và phản động đang tìm mọi cách phá hoại cách
mạng, thực hiện âm mưu diến biến hoà bình để thay đổi, xoá bỏ chế độ Chủ
nghĩa xã hội.
Thứ tư là sự yếu kém về năng lực lãnh đạo, tổ chức và sự trì trệ trong phát
triển kinh tế xã hội đã làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản, vào nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Vì thế cần phải sáng
tạo trong đường lối kinh tế và công tác lãnh đạo phải triệt để sáng suốt.
2. Về sự khác biệt: Thứ nhất về điều kiện tự nhiên Trung Quốc là
nước đông dân, lãnh thổ rộng lớn [ thứ ba trên thế giới ], chính điều đó tạo điều
kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư, khoa học kĩ thuật hiện đại do tạo
được thị trường có nhiều ưu thế, hấp dẫn về tài nguyên, lao động. Tuy nhiên nó
cũng tạo ra sự khó khăn cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và quản lý… Còn ở
4
Việt Nam tuy ít dân hơn, diện tích cũng nhỏ hơn, quy mô vừa phải hợp lí, do đó
tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc tiếp nhận sự chỉ đạo vĩ mô của nhà nước.
Thứ hai về điều kiện xã hội: ở Việt Nam phải gánh chịu hậu quả của hai
cuộc chiến tranh chống ngoại xâm với hơn 30 năm đấu tranh không ngừng, đã
tàn phá nền kinh tế nặng nề, khả năng phục hồi lâu, còn ở Trung Quốc không có
chiến tranh mà chỉ có một số cuộc nội chiến, đụng độ ở vùng biên giới ít gây
ảnh hưởng đến nền kinh tế và cùng với đó là một số chính sách kinh tế xã hội
như cuộc cách mạng đại văn hoá đã có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển
kinh tế, nó đã đẩy mạnh bánh xe tiến trình lịch sử Trung Quốc hàng chục năm.

Mặt khác người Trung Quốc sớm tỉnh ngộ, nhận ra lý do đưa đất nước làm vào
khủng hoảng nghèo nàn còn người Việt Nam chưa phân biệt được đâu là lỗi do
chính trị, đâu là lỗi do mình nên chưa tìm được lối thoát cho nền kinh tế.
Thứ ba về điều kiện bên ngoài: Trung Quốc có một lực lượng đông đảo
người Hoa và người Hoa kiều đang sống ở nhiều nước và khu vực trên thế giới
đặc biệt là ở các nước và vùng lãnh thổ như Hồng Kông, Đài Loan, Singapo,
Malaxia đây được coi là bốn nước Trung Quốc nhỏ, có tiềm năng về vốn, kỹ
thuật, tri thức quản lý kinh doanh, truyền thống tổ chức chặt chẽ… những người
này có quan hệ mật thiết với đất nước, trợ giúp rất nhiều cho công cuộc cải cách,
đổi mới ở Trung Quốc. Còn ở Việt Nam mặc dù cũng có một cộng đồng người
Việt kiều đang sinh sống và học tập ở nước ngoài nhưng số lượng vừa phải,
không đủ mạnh như Trung Quốc để góp phần vào sự phát triển chung của đất
nươc.
Thứ tư về địa vị chính trị: Trung Quốc là nước có uy thế chính trị lớn, là
một trong năm thành viên thường trực của hội đồng bảo an liên hiệp quốc.
Trong những năm 60 Trung Quốc có sự phân biệt trong quan hệ với Liên Xô và
các nước Đông Âu, thắt chặt mối quan hệ chính trị kinh tế với Mĩ và các nước
Tây Âu. Trong khi đó Việt Nam khi tiến hành cải cách, đổi mới còn đang bị Mĩ
cấm vận nên gặp nhiều khó khăn, địa vị chính trị thấp kém.
5
Thứ năm là về thời điểm tiến hành cải cách: Trung Quốc tiến hành đổi
mới sớm hơn Việt Nam [năm 1978] còn Việt Nam tiến hành năm 1986, do đó
Việt Nam đã có nhiều kinh nghiệm tiếp thu trực tiếp từ Trung Quốc.
II. NỀN KINH TẾ HÀNG HOÁ VÀ KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG Ở VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC:
Ngay từ đầu cuộc cải cách và đổi mới, Trung Quốc và Việt Nam đều
xem xét và trước sau lần lượt xác định lựa chọn nền kinh tế thị trường, hàng hoá
nhiều thành phần thay thế cho nền kinh tế tập trung cao độ trước đây. Từ đại hội
XIV Đảng cộng sản Trung Quốc [tháng 10-1992], Trung Quốc tuyên bố mục
tiêu của họ là thực hiện nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Việt Nam từ đại

hội VI Đảng cộng sản Việt Nam đã dùng khái niệm kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Dù có khác nhau về chữ nghĩa, nhưng cả hai loại quan điểm trên đều có nhiều
cái chung: thứ nhất là đều chủ trương lấy chế độ công hữu làm nền tảng, tuy có
thừa nhận tính đa dạng của các thành phần kinh tế khác nhau; thứ hai là đều xem
phân phối theo lao động là chính, đồng thời thừa nhận các hình thức phân phối
khác nhau; thứ ba là khẳng định vai trò định hướng và khống chế của nhà nước;
đồng thời thừa nhận vai trò điều tiết thị trường. Sở dĩ có những quan điểm chung
này là vì Việt Nam và Trung Quốc có những nét tương đồng về hoàn cảnh lịch
sử của đất nước. Tuy nhiên giữa Trung Quốc và Việt Nam vẫn có những sự khác
nhau trong cách làm và thực hiện các chính sách, kế hoạch.
1. Ở Trung Quốc: Khi cải cách mới bắt đầu, tuy Trung Quốc chưa
nêu lên một cách rõ ràng phải thực hiện kinh tế thị trường trong điều kiện chủ
nghĩa xã hội, nhưng trong thực tiễn đã bắt đầu cải cách theo phương hướng này.
Sau khi hội nghị Trung ương 3 khoá XI của Đảng cộng sản Trung Quốc, Chính
phủ Trung Quốc thực hiện cơ chế thị trường đầu tiên ở nông thôn với biện pháp
ban đầu là thực hiện chế độ khoán sản lượng đến hộ gia đình, làm cho nông dân
trở thành chủ thể kinh doanh tự chủ, nâng cao giá nông sản phẩm, mở của thị
trường thành thị và nông thôn, điều này là hoàn toàn phù hợp với Trung Quốc
6
một đất nước có 80% dân số là nông dân. Bởi vì Trung Quốc có ổn định hay
không trước hết phải xem 80% dân cư đó có ổn định không, không có ổn định ở
nông thôn thì không có ổn định ở thành thị; còn ở thành thị, tiến hành thí điểm
cải cách mở rộng quyền tự chủ kinh doanh xí nghiệp, giảm bớt kế hoạch pháp
lệnh đối với sản xuất và tiêu thụ … Những cải cách này tuy mới chỉ là bước đầu
nhưng nó đã phá vỡ thể chế kinh tế kế hoạch, làm cho cuộc cải cách của Trung
Quốc từ đây bước vào quỹ đạo đi theo hướng thị trường. Đại hội XII Đảng cộng
sản Trung Quốc năm 1982 đã tổng kết những kinh nghiệm bước đầu của cải
cách ở thành thị và nông thôn, nêu lên phương châm “kinh tế kế hoạch là chính,
điều tiết thị trường là phụ”, phân kế hoạch thành hai loại là kế hoạch pháp lệnh

và kế hoạch mang tính chỉ đạo; đồng thời yêu cầu tự giác lợi dụng quy luật giá
trị, vận dụng các đòn bẩy kinh tế như giá cả, thuế, cho vay…hướng dẫn các xí
nghiệp thực hiện kế hoạch Nhà nước. Mặc dù việc nhận thức về thị trường lúc
đó còn có tính hạn chế tương đối, nhưng đối với lý luận kinh tế kế hoạch truyền
thống mà nói, đây là một lần đột phá. Theo đà cải cách nông thôn đạt được
thành tựu to lớn, để thích ứng với trọng điểm của cải cách chuyển từ nông thôn
sang thành thị. Hội nghị Trung ương 3 khoá XII Đảng cộng sản Trung Quốc
năm 1984 đã thông qua “Nghị quyết của trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc
về cải cách thể chế kinh tế”, nêu rõ kinh tế xã hội chủ nghĩa là kinh tế hàng hoá
trên cơ sở chế độ công hữu. Phát triển đầy đủ kinh tế hàng hoá là giai đoạn
không thể bỏ qua của sự phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện tất yếu để thực
hiện hiện đại hoá kinh tế của Trung Quốc. Chỉ có phát triển đầy đủ kinh tế hàng
hoá, mới có thể làm cho nền kinh tế có sức sống chân chính. Chính vì thế lúc
này nền kinh tế thị trường của Trung Quốc tồn tại nhiều thành phần kinh tế đó
là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế hỗn hợp, kinh tế tư doanh, kinh tế
cá thể, trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể giữ vị trí chủ đạo, các thành
phần kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể và tư doanh ở cả thành thị và nông thôn đều
cần phải tiếp tục khuyến khích phát triển. Cũng trong thời gian này Trung Quốc
tuyên bố đã kết thúc thời kì quá độ, đang ở giai đoạn đầu tiên của chủ nghĩa xã
hội, và giai đoạn này kéo dài khoảng 100 năm. Chính việc xác định này đã cho
7
phép Trung Quốc duy trì nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần khác nhau
trong một thời gian dài. Điều này rất quan trọng vì nó làm cho các thành phần
kinh tế và lực lượng thị trường trong và ngoài nước yên tâm đầu tư và kinh
doanh. Mặt khác Trung Quốc đã hạn chế, khắc phục được mặt trái của cơ chế
thị trường, đem lại sự công bằng, bình đẳng hơn cho người lao động, đây là bản
chất nền kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc. Về vấn đề này, báo
cáo chính trị tại đại hội XV Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1997 đã khẳng
định rõ: kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là phát triển kinh tế thị trường dưới
điều kiện của Chủ nghĩa xã hội. Điều kiện của Chủ nghĩa xã hội là nắm vững

chuyên chính dân chủ nhân dân, độc quyền sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, kiên
trì chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông. Những tiêu chí trên đây
đã tạo ra sự khác biệt về bản chất giữa Chủ nghĩa tư bản và Chủ nghĩa xã hội
khi cùng áp dụng nền kinh tế thị trường. Đó cũng là nét đặc sắc của Chủ nghĩa
xã hội đang được xây dựng ở Trung Quốc.
2. Ở Việt Nam: Tháng 12-1986 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI của Đảng diến ra trong bối cảnh đất nước đang trong cuộc khủng hoảng kinh
tế – xã hội trầm trọng. Trong khi đó các thế lực thù địch hợp sức tấn công Chủ
nghĩa xã hội quyết liêt. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật, từ khảo nghiệm thực tế, từ trong phong trào quần chúng nhân dân kết hợp
với trí tuệ của toàn Đảng, Đại hội VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất
nước, khẳng định quyết tâm đổi mới theo tinh thần cách mạng và khoa học, đổi
mới tư duy, khắc phục quan niệm, nhận thức giản đơn về Chủ nghĩa xã hội, về
sản xuất hàng hoá và thị trường Xã hội chủ nghĩa. Một trong những đường lối
đổi mới quan trọng nhất là đổi mới về cơ chế và chính sách kinh tế. Đại hội VI
kiên quyết xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, từng bước thực
hiện cơ chế hạch toán kinh tế trong kinh doanh, thực hiện nhất quán chính sách
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo
pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, kiên trì chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế
8
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã trở
thành một đường lối kinh tế quan trọng, sự thực sự lựa chọn đó không phải xuất
phát chủ yếu từ những phân tích lí luận và nghiên cứu mô hình kinh tế mà là kết
quả của một quá trình tìm tòi, mõ mẫm, làm thử hơn 10 năm khi thực hiện
chuyển đổi kinh tế. Trong những năm 80 nền kinh tế Việt Nam lâm vào trầm
trọng và kéo dài, tăng trưởng chậm, lạm phát rất cao, thất nghiệp lớn, nợ nần

trong và ngoài nước khó trả, hàng hoá thiếu thốn, kể cả lương thực, đời sống
nhân dân khó khăn. Đứng trước nhiệm vụ cấp bách phải sớm ra khỏi khủng
hoảng, thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và phát triển kinh tế, Việt Nam đã lựa chọn
con đường cải cách kinh tế sâu rộng và toàn diện gọi là chính sách “đổi mới”.
Quá trình đổi mới kinh tế cũng giống như Trung Quốc, chủ yếu là quá trình:
chuyển từ một nền kinh tế chỉ có hai thành phần là kinh tế nhà nước và kinh tế
tập thể chuyển sang một nền kinh tế nhiều thành phần bao gồm cả kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế hỗn hợp và kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài; đó là quá trình chuyển từ một nền kinh tế điều hành theo cơ chế kế
hoạch hoá tập trung và bao cấp chuyển sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế
thị trường có cạnh tranh và sự điều tiết của nhà nước; đó cũng là quá trình
chuyển từ một nền kinh tế khép kín và tự cấp tự túc sang nền kinh tế mở, cả đối
với trong và ngoài nước. Quá trình cải cách kinh tế đó đã chuyển một nền kinh
tế không hiệu quả sang một nền kinh tế có hiệu quả, từ sự điều hành duy ý chí
sang sự quản lý kinh tế hiện thực, chứ không có nghĩa là hoàn toàn thay đổi mục
tiêu xây dựng Chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam. Nền kinh tế nhiều thành
phần đó vận hành theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là xây dựng một đất
nước trong đó dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đến đầu những năm 90 những nội dung trên được diễn đạt thu gọn trong
một câu đã trở thành quen thuộc “xây dựng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã
hội chủ nghĩa”. Lúc này những đề xuất tại đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam
9
1986 đã bắt đầu phát huy kết quả. Tuy nhiên một đặc điểm nổi bật của tình hình
triển khai thực hiện chính sách cải cách thời gian đó là Việt Nam mở đầu đường
lối cải cách, đồng thời tìm lối thoát ra khỏi khủng hoảng chủ yếu bằng sức lực
của chính mình trong khi nguồn viện trợ của Liên Xô và các nước Xã hội chủ
nghĩa đã cạn dần và gần như chấm dứt khi Chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng
hoảng, đồng thời cuộc cấm vận kinh tế do Mĩ và các nước đồng minh áp đặt sau
chiến thắng của Việt Nam năm 1975 ngày càng khép chặt. Việc thực hiện các

chính sách đổi mới kinh tế vừa do áp lực của bối cảnh tình hình, vừa nhằm tìm
ra con đường phát triển lâu dài thích hợp với các điều kiện của Việt Nam đã và
đem lại kết quả nhanh chóng. Chỉ một chính sách giải toả “ngăn sông cấm chợ”
cho phép nông dân tự do bán nông phẩm làm ra, giảm bớt sự can thiệp độc
quyền của nhà nước, đã xoá bỏ được chế độ tem phiếu lương thực và tăng nhanh
sản lượng đưa Việt Nam từ một nước nhập khẩu sang một nước xuất khẩu lương
thực thứ hai, thứ ba thế giới, cùng với nó lạm phát giảm từ trên 700% xuống còn
45%, các doanh nghiệp vừa và nhỏ được hình thành tự do kinh doanh trong thị
trường. Đến năm 1993-1994 kinh tế Việt Nam đã thoát khỏi khủng hoảng, tăng
trưởng đạt 7-8% năm, lạm phát giảm còn 1-2%, tạo thêm nhiều việc làm, đời
sống nhân dân cải thiện rõ rệt… Trong điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam
những kết quả đó được đánh giá là to lớn và rất quan trọng, nó chứng tỏ một nền
kinh tế phụ thuộc vào viện trợ từ bên ngoài có thể vươn lên tự chủ bằng sức lực
của mình, một nền sản xuất kém hiệu quả có thể trở thành hiệu quả nhờ thay đổi
cơ chế quản lý kinh tế, nó cũng chứng tỏ chính sách phát triển kinh tế hàng hoá
hoàn toàn phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và có khả năng phát huy
các nguồn lực của đất nước để tạo ra bước phát triển tương đối nhanh và vững
chắc. Tuy nhiên khác với Trung Quốc hiện nay Việt Nam đang đặt mình ở thời
kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, nghĩa là chưa bước vào chủ nghĩa xã hôi, chưa
xác định thời gian [ dù một cách tương đối ], nên cải các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần có thể còn e ngại, hoài
nghi, băn khoăn về tính chất tạm thời và ngắn hạn của chính sách, do đó có thể
chưa dám đặt ra những kế hoạch làm ăn lâu dài. Như vậy mô hình kinh tế thị
10
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một vấn đề mới, hiện còn
đang trong giai đoạn hình thành và hoàn thiện. Tuy có nhiều kết quả có thể
khẳng định sự đúng đắn và ý nghĩa to lớn của nó, song còn nhiều vấn đề cần
tiếp tục nghiên cứu và phát triển.
III. NHỮNG CẢI CÁCH VÀ ĐỔI MỚI TRONG KINH
TẾ Ở TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM.

Trong nền kinh tế cả Việt Nam và Trung Quốc đều có những cải cách cụ
thể trong từng lĩnh vực, nghành nghề để tạo nên sự phát triển chung cho toàn đất
nước:
1. Chế độ sở hữu: Trước cải cách, theo quan niệm truyền thống,
chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
[dưới hai hình thức nhà nước và tập thể; trong đó kinh tế nhà nước là hình thức
cao, kinh tế tập thể là hình thức thấp của chế độ công hữu, hình thức thấp phải
quá độ sang hình thức cao]. Cũng theo quan niệm này, chế độ công hữu không
chỉ xem xét là đồng nhất với chủ nghĩa xã hội, mà còn không dung hợp với cơ
chế thị trường; bỏi vậy chế độ công hữu càng lớn, càng thuần nhất thị càng có
nhiều chủ nghĩa xã hội, còn tư hữu bị đồng nhất với chủ nghĩa tư bản. Những
nhận thức sai lầm trên đã đẩy nền kinh tế ở Trung Quốc và Việt Nam đi đến trì
trệ, tụt hậu. Cùng với việc thừa nhận nền kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã
hội, cả Trung Quốc và Việt Nam đã có sự đột phá lớn trong vấn đề sở hữu. Cả
hai nước đã chọn kết cấu sở hữu đa nguyên gồm: chế độ công hữu, chế độ sở
hữu hỗn hợp, chế độ phi công hữu trong đó coi chế độ công hữu là chủ thể, địa
vị của chế độ công hữu chủ yếu ở vốn của sở hữu nhà nước và tập thể chiếm ưu
thế trong tổng số vốn xã hội. Tiếp đó Đảng cộng sản hai nước tiếp tục cải cách
chế độ sở hữu khi tách rời chế độ công hữu với hình thức thực hiện chế độ công
hữu. Đây chính là biện pháp mà Đảng và nhà nước ta đã học tập từ cải cách của
Trung Quốc. Theo đó thì trước cải cách, chế độ công hữu và hình thức thực hiện
nó là đồng nhất với nhau, thì ngày nay hình thức thực hiện chế độ công hữu rất
đa dạng, có thể thông qua hình thức sở hữu hỗn hợp cổ phần, hình thức tổ chức
11
vốn của xí nghiệp hiện đại. Thông qua hình thức cổ phần nhà nước, một mặt
vừa đảm bảo vai trò chủ thể của công hữu, mặt khác đảm bảo tránh sự phân hoá
hai cực, thực hiện mục tiêu giàu có.
2. Nông nghiệp: cả Việt Nam và Trung Quốc đều lấy đây làm nội
dung quan trọng nhất của công cuộc cải cách, đổi mới, với Trung Quốc ngay
sau Hội nghị TW lần 3, nông thôn Trung Quốc đã thực hiện ngay chế độ khoán

trong sản xuất nông nghiêp. Chế độ khoán thực chất là hình thức lao động hợp
đồng, được kí kết giữa ba bên: nhà nước, tập thể, hộ hay nhóm hộ nông dân. Sau
khi kí kết, các đội sản xuất căn cứ vào kế hoạch của nhà nước và điều kiện cụ
thể của mình để giao ruộng đất và các hạng mục sản xuất cho các hộ hoạc nhóm
hộ nhận khoán kinh doanh. Trong quá trình thực hiện hộ nông dân phải nộp thuế
nông nghiệp, phải bán một số lượng sản phẩm theo yêu cầu của nhà nước. Bên
cạnh đó, nông dân còn phải nộp một phần sản phẩm thu nhập cho tập thể để gây
công quỹ, phần còn lại hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của nông dân. Tất nhiên
phần hoa lợi mà nông dân được hưởng phải thoả đáng, có tác dụng khuyến
khích vật chất với người lao động. Như vậy chế độ khoán ở nông thôn Trung
Quốc là hình thái cụ thể của việc tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng
kinh doanh ruộng đất. Với việc tách rời như vậy, người nông dân đã phát huy
được quyền tự chủ trong kinh doanh sản xuất. Qua thực tế, chế độ khoán đã làm
cho kinh tế tập thể và hoạt động kinh doanh của gia đình có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi thể hiện qua các hợp đồng kinh tế.
Chế độ khoán trong nông nghiệp ở Trung Quốc bắt đầu từ năm 1979 tới
nay đã qua hai giai đoạn: từ 1979 đến 1983 là giai đoạn hình thành các hình
thức khoán, từ 1984 đến nay là giai đoạn tiến tới hoàn thiện chế độ khoán tới hộ.
Nhìn chung tới năm 1984, 100% các đội sản xuất đã thực hiện chế độ khoán.
Với chế độ khoán, hình thức của nó khá đa dạng như khoán theo chuyên
môn, tính thù lao theo sản lượng: khoán sản lượng tới tổ, tới người lao động và
tới hộ. Sự đa dạng về hình thức khoán có ưu điểm là nó phù hợp với tình hình
phát triển kinh tế không đồng đều giữa các vùng, những hình thức khoán nói
trên song song cùng tồn tại và bổ sung cho nhau. Nhìn chung tâm lý của người
12
nông dân thích khoán tới hộ hơn. Hình thức này dần dần trở thành phổ biến.
Qua thực tế diễn biến về nông nghiệp Trung Quốc trong những năm gần đây
cho thấy chế độ khoán mang tính phổ biến vì nó phù hợp với điều kiện khách
quan của Trung Quốc, phù hợp với yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.

Chế độ khoán đã đem lại những thắng lợi cơ bản cho nông nghiệp Trung
Quốc. Sản lượng lương thực tăng nhanh, nếu năm 1978 là 304,7 triệu tấn thì
năm 1987 là 402 triệu tấn. Những sản phẩm khác trong nông nghiệp như bông,
dầu, mía, thịt… đều tăng. Điều đáng chú ý là ở nông thôn Trung Quốc cả nông,
lâm, ngư nghiệp và chăn nuôi đều phát triển nhanh chóng. Theo đà phát triển
của nông nghiệp, thì các nghành phi nông nghiệp ở nông thôn cũng phát triển
mạnh. Tỉ trọng giá trị sản lượng của công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải
và thương nghiệp ở nông thôn trong tổng giá trị sản phẩm của kinh tế nông thôn
tăng từ 31,4% năm 1978 lên 46,9% năm 1986.
Cũng giống như Trung Quốc, kể từ năm 1976 Việt Nam đã bắt đầu tiến
hành cải cách nhưng đến năm 1986 mới thực sự đi vào cải cách có hiệu quả.
Ngày 13/1/1981 Ban chấp hành TW Đảng cộng sản Việt Nam ban hành chỉ thị
100 CT/TW về “cải tiến công tác khoán”, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm
lao động “trong hợp tác xã nông nghiệp”, đánh dấu bước đột phá đầu tiên trong
tư duy quản lý kinh tế, tạo động lực quan trọng thúc đẩy quá trình đổi mới trong
nông nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế nước ta.
Trong thời kì đầu của cuộc cải cách, cả Trung Quốc và Việt Nam đều thực
hiện chính sách nâng giá nông sản, giảm giá vật tư nhưng lại có kết quả trái
ngược nhau. Ở Trung Quốc chính sách này đã chẳng những làm cho thu nhập
của nông dân tăng lên mà còn thúc đẩy sản lượng tăng trưởng theo định hướng.
Còn ở Việt Nam động lực đổi mới này suy giảm nhanh chóng do trong nền kinh
tế mức trợ cấp chung vẫn cao, thâm hụt ngân sách nhà nước tăng, tỉ lệ lạm phát
cao. Đến năm 1987 ở nhiều nơi, phần còn lại của nông dân sau khoán chỉ còn
20% hay thấp hơn nữa, nhiều người không nộp đủ sản lượng phải nợ hợp tác xã,
sản xuất nông nghiệp lại bị trì trệ. Thời tiết xấu năm 1987 đã làm giảm sản
13

VN và TQ: Một mô hình, hai tầm nhìn

Mục lục

Tiền đềSửa đổi

Lenin là người đưa ra chính sách kinh tế mới

Theo lý luận của Lenin thì chủ nghĩa xã hội là bước chuyển giữa chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Để khôi phục nền kinh tế Nga sau nội chiến, Lenin đã đề ra Chính sách kinh tế mới [NEP] là một mô hình kinh tế hỗn hợp, đan xen giữa kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể với kinh tế tư bản tư nhân. Theo đó nhà nước cho phép một số thị trường được tồn tại, các ngành công nghiệp nhà nước đó sẽ hoàn toàn tự do đưa ra các quyết định kinh tế của mình. Đồng thời Lenin cũng đưa ra ý tưởng về việc áp dụng chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vào nước Nga mà theo ông "Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội[5]" và "chủ nghĩa tư bản nhà nước là cái gì có tính chất tập trung, được tính toán, được kiểm soát và được xã hội hoá[5]".

Sau khi Lenin mất, Stalin đã xóa bỏ NEP và xây dựng mô hình kinh tế chỉ huy dựa trên ý tưởng của Lenin. Những người theo chủ nghĩa Stalin [không nhầm lẫn với chủ nghĩa Marx nguyên bản] nhiều lần nhấn mạnh rằng cơ chế thị trường là một cơ chế hoạt động kém, cần phải được thay bằng cơ chế kế hoạch hóa có ý thức.

Ngoài Lenin và những người kế thừa ông, nhiều nhà kinh tế cũng quan tâm đến kế hoạch hóa nền kinh tế và việc kết hợp giữa thị trường và kế hoạch. Năm 1901, Vilfredo Pareto xuất bản tác phẩm Sistemi Socialisti xem xét các mô hình đáp ứng các yêu cầu kinh tế - xã hội mang tính xã hội chủ nghĩa của ông[6]. Những lý luận đầu tiên về chủ nghĩa xã hội thị trường được nhà kinh tế Enrico Barone người Ý nêu ra vào năm 1908 trong tác phẩm "Il Ministro della Produzione nello Stato Collettivista", tạp chí Giornale degli Economisti, số 2, tháng Chín-Mười, trang 267-293. Barone đã đưa ra một mô hình toán về một nền kinh tế tập thể, theo đó các quan hệ tiền tệ hàng hóa trong nền kinh tế đều có thể tính toán được và từ đó có thể điều chỉnh để sao cho phúc lợi tập thể đạt mức tối ưu.[7] Năm 1929, Fred Manville Taylor người Mỹ trong công trình "The Guidance of Production in a Socialist State" đã nêu ra những điều kiện để nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có thể, về mặt lý thuyết, đạt được hiệu quả trong phân phối nguồn lực[8].

Trên cơ sở mô hình của Barone, vào năm 1936 nhà kinh tế người Ba Lan Oskar Ryszard Lange đã công bố cuốn sách của mình mang tên Lý thuyết kinh tế về chủ nghĩa xã hội trong đó ông kết hợp kinh tế học Marxist với kinh tế học tân cổ điển. Lange ủng hộ việc sử dụng các công cụ thị trường [giá cả] và đồng thời ủng hộ việc kế hoạch hóa. Lange cho rằng các nhà làm kế hoạch có thể tính toán và đặt ra các mức giá và chờ đợi phản ứng của thị trường để điều chỉnh cho phù hợp. Như vậy nền kinh tế sẽ có hiệu quả cao hơn thay vì để cho thị trường quyết định hoàn toàn. Lange đã phác họa một nền kinh tế mà các công ty sở hữu công cộng có thể tối đa hóa lợi nhuận của mình hoặc hoạt động theo công thức tối ưu hóa gần như thế. Cơ quan kế hoạch trung ương cố gắng thiết lập các giá cả cân bằng và làm trong sạch thị trường bằng cách mô phỏng cơ chế thị trường: khi thấy nhu cầu tăng, nó tăng giá lên và khi thấy nhu cầu giảm, nó giảm giá xuống. Ông khẳng định rằng một hệ thống như vậy có khả năng cân bằng giữa cung và cầu.[9]

Tuy nhiên, Friedrich von Hayek đã bác bỏ tư tưởng trên của Lange bằng lập luận: vấn đề lớn thực sự của chủ nghĩa xã hội không phải là việc liệu nó có thiết lập được giá cả cân bằng hay không mà là vấn đề có những động cơ khuyến khích gì để thu thập và áp dụng nhanh chóng những thông tin nhất thiết là tản mạn, lẫn lộn ở nhiều chỗ khác nhau. Những thông tin tản mạn đó được Hayek gọi là tri thức riêng phần, những tri thức được sở hữu và chỉ được sử dụng tốt nhất bởi mỗi cá nhân[10]. Trong bài luận "Sử dụng tri thức trong xã hội" [The Use of Knowledge in Society] đăng trên chuyên san American Economic Review năm 1945, Hayek cho thấy rằng kế hoạch hóa kinh tế tỏ ra kém hiệu quả hơn so với tự do hóa kinh tế bởi vì kế hoạch hóa không thể giải được bài toán của hệ thống giá cả là một hệ thống tự phát giúp con người truyền tải tri thức cần thiết từ người này sang người khác để phối hợp với kế hoạch cá nhân riêng rẽ. Giá cả có thể xem như là một hệ thống thông tin tự nhiên điều chỉnh hành vi của các cá nhân và tổ chức tham gia vào nền kinh tế từ đó dẫn đến sự cân bằng cung cầu. Đây là điều chưa có cơ quan kế hoạch hóa kinh tế nào làm nổi. Chính vì thế, Hayek chủ trương rằng cần phải để nền kinh tế hoạt động tự do trên nguyên tắc của cơ chế thị trường.

Lịch sử phát triển kinh tế thế giới cũng như ở Việt Nam cho thấy Chủ nghĩa xã hội kết hợp với yếu tố thị trường còn được gọi là Con đường thứ ba để phân biệt với hai con đường khác là kinh tế thị trường tự do [hay kinh tế tư bản chủ nghĩa] và kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Các nước Đông Âu và Liên Xô cũ đã rời bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa để chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự can thiệp của nhà nước. Các nước tư bản phát triển như Mỹ, Anh, Đức, Pháp và Nhật trong thế kỷ XX cũng điều chỉnh mô hình kinh tế theo hướng tăng cường sự can thiệp của bộ máy nhà nước [kinh tế hỗn hợp]. Nước Mỹ ngày nay, một tượng đài của chủ nghĩa tư bản, cũng không còn là Kinh tế thị trường tự do như trước mà là một nền kinh tế hỗn hợp trong đó nhà nước "đưa ra những ưu đãi hoặc ngăn cản chẳng với một nguyên tắc rõ ràng và nhất quán nào"[11]. Chủ nghĩa xã hội thị trường là đường lối phát triển kinh tế chủ đạo của một số nước phát triển tại Bắc Âu như Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch...

Tin hoạt động

Một số thành tựu nổi bật sau 35 năm đổi mới đất nước

31/01/2021 22:26
Xem cỡ chữ
Print
PhuthoPortal - Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Đại lộ Thăng Long - Thủ đô Hà Nội [Ảnh Tuyengiao.vn]

Quy mô nền kinh tế tăng nhanh

Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới [1986 - 1990], mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân6,8%. Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thếgiới.

Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm.

Những nỗ lực đổi mới trong 35 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục được cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho pháttriển. Tính riêng năm 2019, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ đồng; tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài [FDI] đạt 38,02 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm lại đây. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn là một điểm đến tin cậy cho các nhà đầu tư với tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD. Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước; phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn hóa cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp... Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển mạnhmẽ.

Qua 35 năm, từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông sản, như cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ... luôn duy trì ở mức cao. Các mặt hàng xuất khẩu khác cũng có bước tiếnlớn. Đặc biệt, trong bối cảnh bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19 khiến hoạt động thương mại và đầu tư thế giới suy giảm, thì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2020 vẫn đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm 2019; xuất siêu 19,1 tỷ USD - cao nhất trong 5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ năm 2016. Với kim ngạch xuất nhập khẩu ấn tượng đã đưa Việt Nam xếp thứ 22 thế giới về quy mô kim ngạch và năng lực xuất khẩu, đứng thứ 26 về quy mô thương mại quốc tế.

Phát triển gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa - xã hội

Trong suốt quá trình 35 năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm; từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảmnghèo. Công tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng.Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 22% năm 2005; 9,45% năm 2010, 7% năm 2015 và còn dưới 3% năm 2020 [theo chuẩn nghèo đa chiều].

Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Nhiều chỉ số về giáo dục phổ thông của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực, như: Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% [đứng thứ 2 trong khu vực ASEAN sau Singapore]; tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khốiASEAN.

Vị thế các trường đại học của Việt Nam đã được nâng lên trong bảng xếp hạng châu Á và thế giới, năm 2019 xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018. Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới. Việt Nam đang là điểm đến được lựa chọn của nhiều sinh viên quốc tế trong những năm gần đây.

Năng lực của hệ thống các cơ sở y tế được củng cố và phát triển. Nhờ đó, người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cũng được chú trọng đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân… Việt Nam là một trong số ít quốc gia có hệ thống y tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới tận thôn, bản; làm chủ được nhiều kỹ thuật công nghệ cao mang tầm thế giới như: ghép chi, tim, gan, thận...; kiểm soát được nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có Covid-19; chủ động sản xuất được nhiều loại vắcxin phòng bệnh, mới đây nhất là vắcxin phòng Covid-19...

Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm thực hiện. Đến nay, diện thụ hưởng chính sách an sinh xã hội ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của người dân, đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Trong 25 năm qua, ngành Bảo hiểm xã hội đã giải quyết cho hơn 112,5 triệu lượt người hưởng các chế độ bảo hiểm xãhội. Từ năm 2003 - 2018, ngành Bảo hiểm xã hội phối hợp với ngành Y tế đã đảm bảo quyền lợi cho trên 1.748 triệu lượt người tham gia khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế, bình quân mỗi năm có trên 109 triệu lượt người thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế.

Ngoài ra, các phong trào “Tương thân tương ái,” “Đền ơn đáp nghĩa,” “Uống nước nhớ nguồn” do các cấp và các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và toàn thể nhân dân thực hiện và hưởng ứng tham gia trong những năm qua cũng đã phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đóng góp đáng kể an sinh xã hội cho nhân dân, nhất là người nghèo, vùng khókhăn.

Hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế ngày càng được nâng cao

35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế; tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO. Đến nay, đã có 71 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của ViệtNam.

Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã ký kết 15 FTA khu vực và song phương và đang đàm phán 2 FTA với các đối tác khác. Các FTA mà Việt Nam tham gia có độ phủ rộng hầu hết các châu lục với gần 60 nền kinh tế có tổng GDP chiếm gần 90% GDP thế giới, trong đó có 15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác kinh tế - thương mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới là Bắc Mỹ, Tây Âu và Đông Á. Do đó, việc tham gia và thực thi các FTA sẽ mang lại những cơ hội lớn cho Việt Nam, tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sảnphẩm...

Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á [ASEAN], Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương [APEC], các tổ chức của Liên hợp quốc... đóng góp tích cực và đang trở thành nước có vị thế và vai trò ngày càng cao ở khu vực, được cộng đồng quốc tế tôn trọng. Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc, như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 - 2016, Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013 - 2017, Hội đồng kinh tế - xã hội của Liên hợp quốc [ECOSOC] nhiệm kỳ 2016 - 2018.

Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA. Trong bối cảnh vô cùng khó khăn của đại dịch Covid-19 và những thiệt hại nặng nề do thiên tai bão lũ... song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thếgiới.

Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Mai Trung Dũng [Trưởng Ban Tuyên giáo - Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh]

Trung Quốc: Nhìn lại quá trình 40 năm cải cách, mở cửa

Ngày đăng: 22/11/2018 07:12
Mặc định Cỡ chữ
Hội nghị Trung ương 3 khóa XI Đảng Cộng sản Trung Quốc [năm 1978] mang ý nghĩa lịch sử quan trọng, mở ra một thời kỳ mới cho nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trong công cuộc cải cách, mở cửa, hội nhập quốc tế. Trải qua 40 năm, sự nghiệp cải cách, mở cửa của Trung Quốc đạt nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo cơ sở vững chắc đưa quốc gia này tiếp tục tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.
Vận chuyển hàng hóa tại Liên Vận Cảng, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Ảnh: TTXVN

Các giai đoạn cải cách, mở cửa

Giai đoạn đầu chuyển đổi thể chế kinh tế [1978 - 1991]

Đảng Cộng sản Trung Quốc với phương châm “giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị”, chuyển trọng tâm công tác từ “lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” sang “lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm” nhằm mục tiêu xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa. Giai đoạn đầu tập trung vào chuyển đổi thể chế kinh tế với việc “khoán ruộng đất”, “phát triển xí nghiệp hương trấn” ở nông thôn, sau đó tiến hành mở rộng thí điểm quyền tự chủ kinh doanh của xí nghiệp quốc hữu ở thành phố, tiến hành mở cửa, xây dựng đặc khu kinh tế, xây dựng các loại thị trường. Việc xây dựng các đặc khu kinh tế [SEZs] ở Trung Quốc tương đối thành công. SEZs đã phát huy được vai trò “cửa sổ” và “cầu nối” có ảnh hưởng tích cực đối với trong và ngoài nước. SEZs của Trung Quốc đã đạt được thành công bước đầu trong sự kết hợp giữa kế hoạch và thị trường. Những năm 1984 - 1991, cải cách xí nghiệp quốc hữu là trọng tâm, cải cách giá cả là then chốt trong toàn bộ cuộc cải cách. Trong giai đoạn chuyển đổi thể chế kinh tế [1979 - 1991], Trung Quốc đã tìm tòi, tổ chức thí điểm, từng bước tiếp nhận cơ chế thị trường, sửa chữa những khuyết điểm của thể chế kinh tế kế hoạch.

Giai đoạn xây dựng khung thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa [1992 - 2002]

Bước sang thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới diễn ra những biến đổi to lớn và sâu sắc. Hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, Liên Xô giải thể, đảng cộng sản ở các nước Đông Âu mất địa vị cầm quyền. Chiến tranh lạnh kết thúc, nhiều nước tiến hành điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại.

Tại Trung Quốc, sự nghiệp cải cách, mở cửa đối mặt với nhiều thách thức to lớn. Vấn đề cải cách, mở cửa thành công hay thất bại, đi theo con đường xã hội chủ nghĩa [họ Xã] hay tư bản chủ nghĩa [họ Tư] thổi bùng các cuộc tranh luận [đại luận chiến]. Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương gác lại các cuộc tranh luận, tiến hành “Ba điều có lợi” [có lợi cho phát triển sức sản xuất xã hội chủ nghĩa, có lợi cho đất nước, có lợi cho đời sống nhân dân], mạnh dạn xông pha vào thực tiễn và lấy thực tiễn để kiểm nghiệm. Đại hội XIV Đảng Cộng sản Trung Quốc [năm 1992] nêu mục tiêu xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh mở cửa. Đây được coi là cuộc giải phóng tư tưởng lần thứ hai, là mốc qụan trọng trong tiến trình cải cách, mở cửa ở Trung Quốc.

Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 3 khóa XIV [năm 1993] thông qua “Quyết định về một số vấn đề xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, trong đó chỉ rõ: “lấy chế độ công hữu làm chủ thể, nhiều thành phần kinh tế khác cùng phát triển,... xây dựng chế độ phân phối thu nhập, lấy phân phối theo lao động làm chính, ưu tiên hiệu quả, quan tâm tới công bằng, khuyến khích một số vùng, một số người giàu có lên trước, đi con đường cùng giàu có”[1]. Đại hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc [năm 1997] đã xác định mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa.

Giai đoạn đẩy mạnh xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa [2002 - 2012], cải cách theo chiều sâu

Năm 2001 Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới [WTO]. Sự kiện này đánh dấu tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng của Trung Quốc. Từ Đại hội XVI [năm 2002] Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đứng đầu là Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào đã nêu ra quan điểm phát triển khoa học, xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy phát triển toàn diện hài hòa và bền vững kinh tế - xã hội. Đại hội XVII Đảng Cộng sản Trung Quốc [năm 2007] nêu chủ trương từ “tam vị nhất thể” - bao gồm kinh tế, chính trị và văn hoá sang “tứ vị nhất thể” - bao gồm kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội.

Bước sang thế kỷ XXI, Trung Quốc đã xây dựng được cục diện cải cách, mở cửa toàn phương vị, đa tầng nấc; hình thành các cực tăng trưởng, Trước đó, Tiểu Chu Giang với nòng cốt là Quảng Châu, Thâm Quyến được coi là cực tăng trưởng thứ nhất của Trung Quốc, hình thành trong giai đoạn đầu của cải cách, mở cửa với việc xây dựng 4 đặc khu [Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu, Hạ Môn]. Tiếp đó, từ năm 1984, Trung Quốc tiến hành mở cửa 14 thành phố ven biển, ven sông, ven biên giới. Từ năm 1990, Trung Quốc đẩy mạnh xây dựng Phố Đông, coi đây là “đầu tàu” lôi kéo và kết nối các điểm tăng trưởng hạ lưu sông Trường Giang và ven biển Đông Hải. Sự ra đời của Phố Đông [Thượng Hải] đánh dấu sự xuất hiện cực tăng trưởng thứ hai của Trung Quốc. Ngày 6-6-2006, Chính phủ Trung Quốc đã công bố “Ý kiến về mấy vấn đề thúc đẩy mở cửa phát triển Khu mới Tân Hải Thiên Tân”, đánh dấu việc chủ trương đưa Thiên Tân vươn lên trở thành cực tăng trưởng thứ ba của Trung Quốc, gắn liền các điểm tăng trưởng xoay quanh vịnh Bột Hải. Tiếp đó, vùng Thành Đô - Trùng Khánh [Xuyên Du], Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ [Quảng Tây], Khu kinh tế bờ Tây [Phúc Kiến] cũng phấn đấu trở thành cực tăng trưởng tiếp theo ở Trung Quốc. Năm 2008, Quốc vụ viện Trung Quốc đã phê chuẩn “Cương yếu quy hoạch Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ”, thể hiện quyết tâm của Trung Quốc trong xây dựng cực tăng trưởng mới - cực tăng trưởng kết nối giữa Trung Quốc và ASEAN.

Giai đoạn cải cách toàn diện và sâu rộng [từ năm 2012 đến nay]

Từ Đại hội XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 3 khóa XVIII thông qua Nghị quyết về cải cách toàn diện và sâu rộng, thực hiện “giấc mộng Trung Quốc”, “phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”. Tổng Bí thư Tập Cận Bình với tư cách là “hạt nhân lãnh đạo” đã kế thừa, phát huy và hoàn thiện cương lĩnh, đường lối phát triển của Trung Quốc, hình thành nên “Bố cục tổng thể”: phát triển “5 trong 1” [kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường] và bố cục chiến lược “Bốn toàn diện”. Kinh tế bước vào giai đoạn “trạng thái bình thường mới”, “Made in China 2025”... tìm kiếm chuyển đổi phương thức tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế và động lực phát triển mới. Sáng kiến “Vành đai, Con đường” được xem là giải pháp chiến lược, vừa thúc đẩy cải cách trong nước, vừa phát huy vai trò đối ngoại.

Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới đã được Đại hội XIX khẳng định, đưa vào Điều lệ Đảng, trở thành tư tưởng chỉ đạo đối với Đảng và Nhà nước Trung Quốc sau khi Hiến pháp được bổ sung, sửa đổi năm 2018. Trung Quốc đẩy mạnh cải cách, mở cửa toàn diện và sâu rộng hướng tới mục tiêu trở thành cường quốc xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.

Thành tựu và những vấn đề đặt ra trong tiến trình cải cách, mở cửa của Trung Quốc

Thành tựu

Trong hai thập niên cuối thế kỷ XX, ở Trung Quốc đã diễn ra những thay đổi to lớn. Trung Quốc đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội với bước chuyển biến lịch sử là “lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm”. Thể chế kinh tế, xã hội có bước chuyển biến mạnh mẽ theo hướng xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Trung Quốc cũng đạt được nhiều thành công trong ổn định tình hình trước những biến động lớn của thế giới. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đứng trước những thách thức to lớn, như phân hóa giàu nghèo, phân cực đô thị - nông thôn, ô nhiễm môi trường, nợ công của các địa phương, tham nhũng... Xây dựng Nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa trở thành phương hướng cải cách và phát triển chính trị ở Trung Quốc trước thềm thế kỷ XXI. Nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc, kiện toàn hệ thống chính trị, đẩy mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa trở thành yêu cầu và đòi hỏi quan trọng để Trung Quốc ứng phó thành công với khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á [năm 1997] và đặc biệt là chủ động mở cửa, đưa Trung Quốc phát triển vượt bậc khi gia nhập WTO. Năm 2010, Trung Quốc đã vượt Nhật Bản trở thành nền kinh tế có tổng lượng GDP lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ[2]. Mức tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 1997 - 2008 bình quân đạt trên 8%/năm.

Từ khi bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI đến nay, kinh tế Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu. Năm 2017, GDP của Trung Quốc đạt 82.712,2 tỷ nhân dân tệ [NDT], tăng 6,9% so với năm 2016[3]. Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP của Trung Quốc trong giai đoạn 2013 - 2017 là 7,1%, trong khi mức tăng trưởng trung bình của toàn cầu là 2,6% và của các nền kinh tế đang phát triển là 4%. Mức đóng góp trung bình của Trung Quốc vào tăng trưởng kinh tế thế giới trong giai đoạn 2013 - 2017 là khoảng 30%, lớn nhất trong tất cả các quốc gia và cao hơn cả tổng mức đóng góp của Mỹ, các nước trong khu vực đồng ơ-rô và Nhật Bản[4]. Một điểm đáng chú ý nữa là GDP của Trung Quốc năm 2016 đã đạt 10.730 tỷ USD, hoàn thành sớm hơn 4 năm mục tiêu GDP năm 2020, tăng gấp 4 lần năm 2000. Tỷ trọng GDP của Trung Quốc trong GDP toàn cầu từ 1,8% năm 1978 tăng lên 15% năm 2018.

Sáng tạo trở thành định hướng và giải pháp quan trọng trong chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế của Trung Quốc. Mức chi cho nghiên cứu và phát triển [R&D] đã tăng 52,2% kể từ năm 2012, đạt 1.570 tỷ NDT vào năm 2016. Tỷ lệ chi tiêu cho R&D trong GDP đã tăng từ 1,91% lên 2,11% [từ năm 2012 đến 2016]. Số lượng các đơn xin cấp bằng sáng chế mà Trung Quốc nhận được trong năm 2016 tăng 69% kể từ năm 2012, trong khi số bằng sáng chế được cấp năm 2016 tăng 39,7% kể từ năm 2012. Năm 2017, chi cho R&D là 1.750 tỷ NDT, tăng 11,6% so với năm 2016.

Từ năm 2013, Trung Quốc đã trở thành quốc gia hàng đầu trên toàn cầu về doanh số bán rô-bốt công nghiệp. Cường quốc rô-bốt sẽ là một nhiệm vụ chiến lược để Trung Quốc thúc đẩy mạnh mẽ Chiến lược “Made in China 2025”. Năm 2016, Trung Quốc đầu tư cho R&D là 1.567,67 tỷ NDT; nguồn tài chính dành cho khoa học công nghệ là 776,07 tỷ NDT. Năm 2016, trong số 53 doanh nghiệp khoa học công nghệ tiến hành IPO trên thế giới [phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu], Trung Quốc có 18 doanh nghiệp. Năm 2016, Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu các sản phẩm khoa học công nghệ cao đứng đầu châu Á. Các hạng mục khoa học lớn được hoàn thành, như máy tính Thiên Hà, tàu vũ trụ Thần Châu, trạm vũ trụ Thiên Cung, máy lặn Giao Long, máy bay vận tải cỡ lớn..

Về kinh tế đối ngoại, giá trị của thương mại hàng hóa đạt 27,7 nghìn tỷ NDT vào năm 2017, chiếm hơn 11% tổng khối lượng thương mại toàn cầu. Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn nhất của hơn 120 nước.

Mức độ đô thị hóa từ 17,9% năm 1978 tăng lên 58,5% năm 2017. Số thành phố từ 193 tăng lên 657 thành phố. Hiện nay, Trung Quốc có 136.000km đường cao tốc và 25.000km đường sắt cao tốc. Năm 2017, đường sắt cao tốc chuyên chở hơn 3 tỷ lượt khách[5].

Thu nhập của người dân được nâng cao, với mức bình quân đầu người tăng từ 7.311 NDT năm 2012 lên 23.821 NDT năm 2016, tỷ lệ tăng hằng năm là 7,4%. Năm 2017, thu nhập bình quân cư dân đạt 25.974 NDT. Thu nhập bình quân đầu người của người dân nông thôn ở khu vực nghèo tăng bình quân 10,7% trong giai đoạn 2013 - 2016, tăng nhanh hơn mức bình quân 8% đối với tất cả người dân nông thôn. Số người nghèo ở nông thôn từ 97,5% năm 1978 giảm xuống 3,1% năm 2017, còn khoảng 30,46 triệu người nghèo[6]. Mạng lưới an sinh xã hội đã được hình thành rộng khắp. Bảo hiểm dưỡng lão xã hội đã bao phủ tới 900 triệu dân, bảo hiểm y tế cơ bản đã tới hơn 1,3 tỷ người dân.

Năm 2017, dân số Trung Quốc là 1,39 tỷ người, trong đó dân số đô thị khoảng 813,47 triệu người. Số nghiên cứu sinh là 2,63 triệu người, sinh viên đại học, cao đẳng: 27,53 triệu, số học sinh trung học phổ thông: 23,74 triệu; trung học cơ sở: 44,42 triệu; tiểu học: 1.009 triệu. Từ năm 2011, số lượng nhân lực khoa học - công nghệ đã vượt 63 triệu người, năm 2017 đạt 81 triệu người. Số sinh viên du học nước ngoài trở về nước là hơn 1,1 triệu người. Năm 2016, số lượng đăng ký bản quyền tác giả là 1.257.439 [WIPO]. Năm 2017, Trung Quốc đứng thứ 25 trong bảng xếp hạng “sức mạnh mềm” thế giới.

Những vấn đề đặt ra đối với Trung Quốc hiện nay

Sau 40 năm tiến hành cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt, song cũng đang đứng trước nhiều vấn đề, thách thức lớn. Trung Quốc đang tìm kiếm sự thay đổi về phương thức và mô hình phát triển thay thế phương thức tăng trưởng chủ yếu dựa vào tài nguyên và nhân công rẻ, dựa vào đầu tư lớn và xuất khẩu mạnh trước đây. Kinh tế Trung Quốc nằm trong xu thế suy giảm tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc năm 2014 là 7,4%, mức thấp nhất trong 24 năm kể từ năm 1990, năm 2015 là 6,9%; năm 2016: 6,7%; năm 2017: 6,9%. Vấn đề đặt ra đối với kinh tế Trung Quốc hiện nay là chất lượng tăng trưởng kinh tế vẫn còn thấp, mất cân bằng, không hợp lý và không bền vững. Vấn đề nợ công và vấn đề sản xuất thừa vẫn chưa được giải quyết. Do tăng trưởng tốc độ cao trong một thời gian dài, những hệ lụy để lại cho nền kinh tế Trung Quốc vẫn chưa được giải quyết triệt để, chưa được khắc phục kịp thời, như cạn kiệt các nguồn tài nguyên và ô nhiễm môi trường, mức độ chênh lệch giàu - nghèo cao, phát triển không cân đối... vượt qua “bẫy thu nhập trung bình”, hướng tới thu nhập cao, chất lượng cao, phát triển xã hội và quản trị xã hội vẫn là những thức thức lớn. Từ năm 2018, vận hành kinh tế Trung Quốc là vượt qua ba trận chiến phòng ngừa hóa giải rủi ro lớn, xóa đói, giảm nghèo chuẩn xác, phòng, chống ô nhiễm[7] ; phát triển từ “tốc độ cao” sang “chất lượng cao” đặt ra nhiều thử thách lớn không dễ giải quyết nhanh chóng.

Trọng tâm của cải cách, xây dựng hiện đại hóa của Trung Quốc sẽ mở rộng từ kinh tế sang chính trị, xã hội. Qua bốn thập niên cải cách, mở cửa, các tầng lớp xã hội mới xuất hiện, sự di động xã hội giữa các tầng lớp và khu vực diễn ra mạnh mẽ. Sự xuất hiện của các tầng lớp xã hội mới, đặc biệt là tầng lớp trung lưu gắn với xây dựng xã hội khá giả sẽ là nhân tố không thể bỏ qua trong quá trình cải cách chính trị ở Trung Quốc. Việc chuyển đổi mô hình phát triển, cải cách xã hội đòi hỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc phải chuyển đổi phương thức lãnh đạo và nâng cao năng lực cầm quyền. Xây dựng và thúc đẩy pháp trị, dân chủ trở thành yêu cầu bức thiết.

Cục diện thế giới có nhiều diễn biến mới với vai trò và vị thế của Trung Quốc được nâng cao khi tổng lượng kinh tế đã đứng thứ hai thế giới. Mặt khác, Trung Quốc cũng phải đối mặt với những thách thức về vấn đề nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, giữa cải cách trong nước và mở cửa đối ngoại, quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, đặc biệt là cạnh tranh chiến lược với các nước lớn hiện nay.

Bài học kinh nghiệm

Qua bốn mươi năm cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho các mô hình chuyển đổi.

Thứ nhất, giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị. Cải cách, mở cửa trước hết phải giải phóng tư tưởng, đổi mới tư duy. Chuyển từ “lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” sang “lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm” là bước đột phá về giải phóng tư tưởng, đổi mới tư duy; “thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất kiểm nghiệm chân lý”, lấy cải cách kinh tế làm trọng tâm, phát triển miền duyên hải phía Đông giàu có lên trước; đó còn là nhận thức và giải quyết các mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội, nhận thức về thời đại của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Thứ hai, cải cách theo định hướng thị trường: Cải cách, mở cửa là quá trình thay đổi nhận thức và hành động cải cách theo định hướng thị trường; phát huy được các nguồn lực trong xã hội. Qua 40 năm cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã gây dựng được các loại thị trường của các loại hàng hóa, ngành, nghề; xây dựng các chuỗi giá trị theo các ngành nghề, hàng hóa; các nguồn vốn xã hội được huy động và phát huy. Kinh tế dân doanh trở thành lực lượng quan trọng. Năm 2017, Trung Quốc có 65,79 triệu hộ công thương cá thể, có hơn 27,2 triệu doanh nghiệp công thương dân doanh, đóng góp thuế vượt 50% tổng thuế thu; đóng góp cho GDP và đầu tư ra nước ngoài đều vượt 60%, chiếm hơn 70% doanh nghiệp kỹ thuật cao mới[8].

Thứ ba, tiến trình cải cách, mở cửa là tiến trình xử lý các cặp quan hệ giữa cải cách - phát triển và ổn định, giữa nhà nước với thị trường và xã hội, giữa kinh tế với chính trị và xã hội. Cải cách ở Trung Quốc tiến hành theo phương thức tiệm tiến, lấy cải cách kinh tế làm trọng tâm; thí điểm trước, nhân rộng sau.

Tiến trình cải cách, phát triển ở Trung Quốc 40 năm qua phản ánh quá trình kết hợp giữa cải cách thể chế kinh tế và thể chế chính trị [như thực hiện chế độ khoán ở nông thôn, cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách hành chính, chuyển chức năng của chính quyền theo hướng xây dựng chính phủ pháp trị, phục vụ; thực hiện chiến lược phát triển phối hợp vùng, miền...] Tuy nhiên, để cải cách sâu rộng, toàn diện thì cải cách thể chế phải đi trước một bước. Cải cách chính trị, xã hội phải có sự thích ứng trước những biến đổi của tình hình mới, yêu cầu mới. Phải đổi mới tư duy và tháo gỡ về thể chế để mở đường, dẫn dắt. Trung Quốc cũng chú ý giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, quan tâm phát triển xã hội, bảo đảm công bằng và bình đẳng.

Một trong những bài học kinh nghiệm lớn của Trung Quốc qua 40 năm cải cách, mở cửa là thực hiện kết hợp giữa sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhân dân làm chủ và quản trị đất nước theo pháp luật; giải quyết mối quan hệ giữa cải cách kinh tế và cải cách chính trị - xã hội; phát huy sáng tạo của đội ngũ trí thức, tính tích cực của các tầng lớp xã hội. Xây dựng hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả, hiệu lực pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật, minh bạch... Nâng cao năng lực quản trị quốc gia.

Từ cải cách mở cửa, thể chế chính trị đã được hình thành với mô thức: “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, quản trị đất nước theo pháp luật” và bốn chế độ cơ bản “chế độ đại hội đại biểu nhân dân, chế độ hợp tác đa đảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo và hiệp thương chính trị; chế độ tự trị dân tộc và chế độ tự trị quần chúng cơ sở”. Theo thống kê năm 2016, Trung Quốc có 4,518 triệu tổ chức cơ sở đảng với 89,447 triệu đảng viên[9]. Đây là lực lượng chính và cơ sở để Đảng Cộng sản Trung Quốc triển khai các công tác. Đây cũng là lực lượng lãnh đạo xã hội, lực lượng nòng cốt trong thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Từ quá trình cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã vượt qua hai cuộc khủng hoảng kinh tế [năm 1997 và năm 2007], vượt qua thách thức chu kỳ kinh tế. Trung Quốc cũng vượt qua thách thức của bất ổn xã hội [đỉnh cao là sự kiện Thiên An Môn năm 1989].

Trung Quốc đã lợi dụng tốt thời cơ gia nhập WTO, đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng, tận dụng tốt các nguồn lực trong và ngoài nước, bứt phá trong phát triển, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Trung Quốc cũng chú trọng giải quyết vấn đề “tam nông”, bảo đảm các vấn đề về an ninh, quản lý và phát triển xã hội. Trung Quốc cũng đã có nhiều kinh nghiệm trong sử dụng “thời kỳ cơ hội chiến lược”, xử lý quan hệ với các nước lớn, đặc biệt là với Mỹ.

Trung Quốc đang nỗ lực phấn đấu hướng tới mục tiêu xây dựng thành công xã hội khá giả toàn diện, hướng tới mục tiêu cơ bản hoàn thành hiện đại hóa vào năm 2035 và trở thành cường quốc hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.

Trung Quốc cũng bước vào “thời đại mới”, với sự chuyển biến từ “xây dựng kinh tế làm trung tâm” sang “lấy nhân dân làm trung tâm”, giải quyết các mâu thuẫn chủ yếu mới. Về kinh tế, tiếp tục đẩy mạnh chuyển biến từ “tốc độ cao” sang “chất lượng cao” qua các giải pháp, như xây dựng hệ thống kinh tế hiện đại hóa, tiếp tục thúc đẩy ý tưởng chiến lược “Vành đai, Con đường”, đẩy mạnh thực hiện thí điểm các khu mậu dịch tự do mới, tiêu biểu là khu mậu dịch tự do thí điểm Hải Nam. Trung Quốc đang hướng tới mục tiêu cường quốc với sự tin tưởng về con đường, lý luận, chế độ và văn hóa [4 tự tin].

Tuy nhiên, Trung Quốc tiến hành cải cách giai đoạn mới trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực biến đổi nhanh chóng và khó lường. Đặc biệt là sự đối nghịch giữa xu hướng đẩy mạnh toàn cầu hóa kinh tế và chống toàn cầu hóa kinh tế, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, chủ nghĩa dân tộc, dân túy... trong khi tình hình địa - chính trị xung quanh Trung Quốc có nhiều thách thức, như vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan, vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển với một số nước Đông Á..., cạnh tranh giữa các nước lớn trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là cạnh tranh chiến lược Trung Quốc - Mỹ, thể hiện trực tiếp qua cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc hiện nay.

Bước sang thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, dự báo Trung Quốc về cơ bản giữ được ổn định xã hội, kinh tế giữ tốc độ tăng trưởng trung bình, song những mâu thuẫn lớn có khả năng phát sinh từ nửa cuối thập niên thứ ba thế kỷ XXI. Chúng ta trông chờ Trung Quốc tiếp tục phát triển phồn vinh, đóng góp tích cực cho hòa bình và phát triển trong khu vực và trên thế giới. /.

TS.Nguyễn Xuân Cường - Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

---------------------------------------------------------

[1] //www.china.com.cn/chinese/archive/131747.htm
[2] //finance.sina.com.cn/roll/20100818/01258499585.shtml
[3] Công báo thống kê kinh tế xã hội Trung Quốc 2017 [人民日报 2018年03月01日 10 版]
[4] //europe.chinadaily.com.cn/business/2017-10/11/content_33104818.htm
[5] //www.gov.cn/xinwen/2018-02/14/content_5266772.htm
[6] //www.xinhuanet.com/politics/2018-09/04/c_1123374403.htm
[7] //politics.people.com.cn/n1/2017/1221/c1001-29719813.html [21-12-2017]
[8] //www.xinhuanet.com/fortune/2018-05/02/c_1122769552.htm
[9] //www.xinhuanet.com/politics/2017-06/30/c_1121242478.htm

Theo: tapchicongsan.org.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Toplist mới

Bài mới nhất

Chủ Đề