Sự cần thiết ban hành Luật nhà giáo

Tiếp tục chương trình phiên họp thứ hai, sáng 30/9, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thảo luận về 2 dự án luật: Giáo dục đại học và Phòng, chống tác hại của thuốc lá. Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng điều khiển phiên họp.

Sự cần thiết ban hành Luật nhà giáo

Bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục đại học

Thẩm tra sơ bộ dự án Luật Giáo dục đại học, Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng tán thành với sự cần thiết ban hành Luật để thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới và phát triển giáo dục đại học; tạo hành lang pháp lý thuận lợi và thống nhất để điều chỉnh toàn diện các vấn đề liên quan đến giáo dục đại học, góp phần đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Tuy nhiên, nhiều chủ trương, chính sách quan trọng như xã hội hóa giáo dục, phân tầng các cơ sở giáo dục đại học và trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học...còn chưa được thể chế hóa. Một số vấn đề lớn của giáo dục đại học như về mô hình tổ chức, hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học, về kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo quốc tế...chưa được giải quyết đủ thấu đáo, triệt để.

Nhiều điều khoản thay vì được quy định cụ thể ngay trong Luật lại được giao cho các văn bản dưới luật. Thường trực Ủy ban đề nghị tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn chỉnh để đáp ứng yêu cầu của một luật chuyên ngành và giải quyết có hiệu quả những vấn đề cơ bản, cấp bách của giáo dục đại học hiện nay.

Theo ông Phan Xuân Dũng, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, thực tế trong giáo dục đại học đã có sự phân tầng, có trường ở mức cao, cũng có trường ở mức trung bình và sự phân tầng này là cần thiết. Một trong những vấn đề cần lưu ý hiện nay là đổi mới trong nhận thức tăng cường đầu tư trong nước, để có các trường có thương hiệu, trường chuẩn, nâng cấp trường. Các trường thứ hạng cao cũng cần đầu tư mạnh, chú trọng công tác nghiên cứu khoa học. Khâu kiểm định cũng nên làm rõ, công khai để các trường và xã hội biết đang ở thứ hạng nào.

Tán thành với Báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý cũng cho rằng cần quy định cụ thể hơn Hội đồng trường trong trường công lập và Hội đồng quản trị trong các trường ngoài công lập về cơ cấu thành phần, chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động; việc bổ nhiệm, miễn nhiệm thành viên; mối quan hệ với Hiệu trường và các tổ chức khác trong nhà trường để bảo đảm hiệu quả hoạt động.

Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội Trương Thị Mai đồng tình cao với những ý kiến xác đáng trong Báo cáo thẩm tra và cho rằng, cần khắc phục tình trạng quy mô không đáp ứng được số người học; rà soát lại toàn bộ vấn đề quản lý nhà nước và đảm bảo các quy định không mâu thuẫn với Luật giáo dục.

Theo bà Trương Thị Mai, cần hướng tới việc thiết lập cho được một mức sàn từ giáo trình, chương trình giảng dạy, cơ sở vật chất, tiêu chuẩn giảng viên để xã hội yên tâm rằng các cơ sở giáo dục đại học trên toàn quốc ít nhất đều đảm bảo đạt nột chuẩn nhất định. giáo dục đại học cần được nghiên cứu để thích ứng đối với sự phát triển nhanh của xã hội, ví dụ về phân tầng, tuyển sinh đầu vào, chất lượng đầu ra...Vấn đề quan trọng là tăng cường quản lý Nhà nước.

Góp ý kiến vào dự thảo Luật, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nêu rõ, việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục đại học là một yêu cầu khách quan, tất yếu và phù hợp với xu thế phát triển hiện nay đồng thời nhấn mạnh phải coi đó là tư tưởng xuyên suốt của dự án Luật này.

Đồng tình với Báo cáo thẩm tra và ý kiến của nhiều ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội đề nghị cần thể hiện rõ tư tưởng trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục đại học một cách mạnh mẽ, triệt để hơn, theo hướng xác định rõ những nội dung được tự chủ về chuyên môn và về kế hoạch tài chính, tổ chức, cán bộ với mức độ và lộ trình cụ thể. Theo Chủ tịch, quy định Hội đồng trường là thiết chế bắt buộc đối với cơ sở giáo dục đại học được trao quyền tự chủ cao.

Ban soạn thảo cần nghiên cứu kỹ 4 tồn tại được nêu rõ trong Báo cáo giám sát và 5 kiến nghị đối với Chính phủ; các ý kiến nêu trong Báo cáo thẩm tra. Mục tiêu dự án Luật này có bước đột phá, đó là cơ quan quản lý nhà nước chuyển sang hoạch định chính sách, giám sát, kiểm tra, không làm thay việc của cơ sở, nghĩa là tăng cường hết trách nhiệm tự chủ. Dự thảo cũng cần đề cập đến việc công bố một chuẩn toàn quốc đối với cơ sở giáo dục đại học...

Kết luận nội dung này, Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng đề nghị Ban soạn thảo và cơ quan thẩm tra rà soát để làm rõ việc đảm bảo tính thống nhất giữa Luật này với Luật giáo dục và các luật khác có liên quan. Trong quá trình soạn thảo cần đảm bảo nâng cao tính tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học nhưng đồng thời cũng phải đúng quy định của pháp luật hiện hành.

Dự thảo cần nêu rõ hơn nữa việc phân tầng các trường đại học, quản lý giáo viên, nghiên cứu khoa học, đầu tư cơ sở vật chất, đặc biệt cần làm rõ chương trình và sách giáo khoa đại học, vấn đề tuyển sinh, kiểm định, đưa ra một mức sàn để xã hội có cơ sở đánh giá; trách nhiệm bảo đảm tổ chức Đảng, các tổ chức chính trị xã hội hoạt động.

Giảm nhu cầu sử dụng thuốc lá và kiểm soát chặt chẽ nguồn cung cấp

Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Xuyên, dự án Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá được xây dựng nhằm thực hiện đồng bộ các biện pháp giảm nhu cầu sử dụng thuốc lá vì lợi ích sức khỏe nhân dân.

Hiện nay, Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ sử dụng thuốc lá cao hàng đầu thế giới. Tổ chức Y tế thế giới ước tính mỗi năm Việt Nam có khoảng 40.000 người tử vong vì các bệnh có liên quan đến thuốc lá, con số này sẽ tăng lên tới 70.000 người vào năm 2030 (gấp 4 lần số ca tử vong vì tai nạn giao thông đường bộ mỗi năm).

Trong khi đó, giá thuốc lá ở Việt Nam thuộc loại thấp nhất thế giới; việc kinh doanh thuốc lá lậu chưa được kiểm soát. Hệ thống văn bản pháp luật về phòng chống tác hại thuốc lá chưa đồng bộ, có nhiều khoảng trống, hiệu lực pháp lý thấp. Do đó, việc ban hành Luật phòng chống tác hại thuốc lá là hết sức cần thiết, nhằm thực hiện đồng bộ các biện pháp giảm nhu cầu sử dụng thuốc lá và kiểm soát chặt chẽ nguồn cung cấp.

Thẩm tra sơ bộ, Thường trực Ủy ban về các vấn đề xã hội cho rằng, mục tiêu của dự án Luật phòng chống tác hại thuốc lá mang đậm tính nhân văn, đó là chủ động bảo vệ sức khỏe của người dân. Quy định của dự thảo phù hợp với quyền công dân nói chung, bảo đảm quyền được bảo vệ sức khỏe của người không hút thuốc lá cũng như quyền, nghĩa vụ của người hút, khuyến khích người đang hút hạn chế và bỏ, người mới hay có ý định hút thuốc lá không nên hút.. nhằm bảo vệ sức khỏe bản thân, cộng đồng và thế hệ tương lai.

Hút thuốc lá gây tác hại nghiêm trọng đối với sức khỏe nhưng là hành vi có thể chủ động phòng được. Do đó, mục tiêu quan trọng nhất đúng như tên gọi dự án Luật này là phòng, chống tác hại của thuốc lá đối với sức khỏe con người.

Tuy nhiên, theo bà Trương Thị Mai, Chủ nhiệm Ủy ban Ủy ban về các vấn đề xã hội, vẫn còn những ý kiến quan tâm đến tính khả thi và tác động của dự án Luật, nhất là quy định cấm hút thuốc ở địa điểm công cộng. Thực tế, sau 5 năm thực hiện, chỉ xử phạt được vài trường hợp, tình trạng hút thuốc lá vẫn công khai diễn ra. Luật cần tiếp tục bổ sung các quy định cụ thể để khắc phục./.

Luật Nhà giáo - cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và quản lý đội ngũ nhà giáo

01/06/2011

ThS. ĐẶNG THỊ THU HUYỀN

Vụ Pháp chế, Bộ Giáo dục và Đào tạo

Từ viết tắt In trang Gửi tới bạn

1. Xây dựng Luật Nhà giáo là tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đội ngũ nhà giáo

Nhà giáo là lực lượng lao động đông đảo trong xã hội, có nhiều đặc thù và có vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục. Trong hơn 60 năm xây dựng nền giáo dục mới, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát triển đội ngũ nhà giáo. Hiện nay, cả nước có hơn một triệu nhà giáo ở các cấp học và trình độ đào tạo khác nhau. Đội ngũ này đã có những đóng góp to lớn vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, tiếp tục truyền thống văn hiến của dân tộc. Hiện nay, các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp đến nhà giáo và các hoạt động dạy học của nhà giáo chủ yếu được điều chỉnh bởi Luật Giáo dục, Luật Cán bộ công chức, Luật Viên chức và một số văn bản dưới luật khác. Tuy nhiên, Luật Giáo dục - với 120 điều thì chỉ có 13 điều quy định trực tiếp về nhà giáo và chưa điều chỉnh cụ thể, đầy đủ các quan hệ xã hội liên quan đến nghề dạy học; Luật Viên chức (có hiệu lực từ 01/01/2012) sẽ điều chỉnh chung về viên chức ở cơ sở sự nghiệp công lập, nhưng chưa thể hiện được đặc điểm riêng biệt của nhà giáo và cũng chưa điều chỉnh đội ngũ nhà giáo ở các cơ sở giáo dục ngoài công lập - hiện đang tăng nhanh về số lượng. Từ 1999 đến 2010, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chủ trì soạn thảo và ban hành hơn 80 văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến nhà giáo. Nếu tính cả các văn bản ban hành trước đó và văn bản do cơ quan khác ban hành đang còn hiệu lực, thì số lượng văn bản ban hành liên quan đến nhà giáo lên tới 140 văn bản. Các văn bản này nhìn chung đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo, song còn tản mạn, thiếu tính hệ thống, tính đồng bộ, giá trị pháp lý không cao.

Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, nhiều vấn đề như vị trí, vai trò của nhà giáo, phương pháp giảng dạy của nhà giáo, việc đào tạo, quản lý đội ngũ nhà giáo… đứng trước yêu cầu cần được đổi mới một cách cơ bản. Việc thu hút đầu tư trong lĩnh vực giáo dục tất yếu dẫn đến sự gia tăng những người làm nghề giáo dục ở nước ngoài vào Việt Nam. Để phát triển đội ngũ nhà giáo, một số nước như Trung Quốc, Thái Lan… đã xây dựng văn bản luật riêng về nhà giáo. Một số nước khác có những quy định pháp luật rất cụ thể điều chỉnh các quan hệ về nhà giáo.

Thực tiễn nêu trên đặt ra yêu cầu khách quan cần phải pháp điển hoá các quy định của pháp luật về nhà giáo trong một văn bản có giá trị pháp lý cao. Xây dựng Luật Nhà giáo là bước đi tất yếu, làm cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và quản lý đội ngũ nhà giáo.

Nhà giáo là lực lượng xã hội đông đảo và có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong xã hội. Sự ổn định và phát triển của đội ngũ nhà giáo không chỉ có tác động đối với xã hội trong hiện tại mà còn có ý nghĩa hết sức lâu dài. Những năm qua, chúng ta đã có nhiều giải pháp xây dựng, quản lý đội ngũ nhà giáo và đã thu được kết quả rất quan trọng. Tuy vậy vẫn còn nhiều vấn đề chưa giải quyết được cơ bản, nhiều giải pháp đưa ra vẫn mang tính tình thế. Vì vậy cần cógiải pháp mang tính đột phá để đáp ứng nhu cầu đặc biệt trong điều kiện hội nhập và phát triển kinh tế tri thức ngày nay. Một trong các giải pháp đó là giải pháp pháp lý. Dùng pháp luật để quản lý đội ngũ nhà giáo sẽ tạo ra mặt bằng pháp lý, tạo sân chơi bình đẳng, tạo tính cạnh tranh lành mạnh cho các nhà giáo từ khi chuẩn bị bước vào nghề, hành nghề, ra khỏi nghề khi cần thiết, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Dùng pháp luật để quản lý đội ngũ nhà giáo còn tạo sự tin cậy, minh bạch để các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước trực tiếp tham gia vào việc phát triển giáo dục ở nước ta.

Nói như vậy không có nghĩa mọi quan hệ về nhà giáo đều cần và có thể quản lý bằng pháp luật. Việc tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đội ngũ nhà giáo là cần song cũng rất khó vì đội ngũ nhà giáo rất đa dạng về trình độ, điều kiện làm việc, địa bàn làm việc, đối tượng tác động… Nhà nước cần xác định rõ vấn đề nào pháp luật tác động thì hiệu quả, vấn đề nào pháp luật chưa có điều kiện vật chất để thực hiện hoặc khó thực hiện về kỹ thuật. Bên cạnh đó, cũng cần quan tâm đến thực tế là nhà giáo có nhiều vai trò khác nhau trong xã hội, vì vậy, họ chịu tác động giao thoa của nhiều văn bản luật khác nhau.

Việc tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đội ngũ nhà giáo là nhu cầu khách quan. Muốn tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đội ngũ nhà giáo cần có pháp luật về nhà giáo; cần tổ chức đưa pháp luật vào cuộc sống; kiểm tra, xử lý vi phạm, bảo đảm pháp luật về nhà giáo được thực hiện trong thực tế.

2. Mục đích ban hành Luật Nhà giáo

Việc ban hành Luật Nhà giáo sẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc xây dựng đội ngũ nhà giáo, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các hoạt động của nhà giáo, tạo cơ sở pháp lý để tổ chức quản lý các hoạt động của nhà giáo. Đồng thời, Luật Nhà giáo cũng tạo điều kiện thu hút các lực lượng xã hội tham gia vào việc xây dựng đội ngũ nhà giáo nói riêng và phát triển sự nghiệp giáo dục nói chung. Luật Nhà giáo được ban hành cần đạt các mục đích sau đây:

Một là, thống nhất quan niệm về nhà giáo, xác định rõ các chức danh nhà giáo, nâng cao vị thế của nhà giáo, tạo điều kiện thuận lợi để tiến hành rà soát, sắp xếp lại đội ngũ nhà giáo, từ đó xây dựng và thực hiện kế hoạch tổng thể đào tạo, bồi dưỡng, bảo đảm đủ số lượng và cân đối về cơ cấu; nâng cao chất lượng và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nhà giáo.

Hai là, tạo cơ sở pháp lý để quy hoạch, củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo. Thúc đẩy việc đổi mới chương trình, nội dung, phương thức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo. Bảo đảm việc đào tạo giáo viên có chất lượng cao, đẩy nhanh tốc độ nghiên cứu khoa học về giáo dục đạt trình độ tiên tiến ở khu vực và trên thế giới.

Ba là, tạo điều kiện pháp lý để cải tiến mạnh mẽ phương pháp giảng dạy, đẩy mạnh việc đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục theo hướng hiện đại và phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

Bốn là, góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý để đổi mới và nâng cao chất lượng công tác quản lý nhà giáo phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Năm là, tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và ban hành một số chính sách, chế độ đối với đội ngũ nhà giáo, tạo động lực thu hút, động viên đội ngũ nhà giáo toàn tâm, toàn ý phục vụ sự nghiệp giáo dục, tạo cơ sở pháp lý để nhà giáo hưởng các quyền và thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và tham gia các hoạt động xã hội.

Sáu là, tác động tới người học, tới gia đình và xã hội quan tâm nhiều hơn đến sự nghiệp giáo dục, tôn trọng người thầy, quan tâm xây dựng đội ngũ nhà giáo, phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo” và truyền thống hiếu học của dân tộc, xây dựng xã hội học tập, thực hiện giáo dục thường xuyên và học tập suốt đời.

Bảy là, góp phần thực hiện quốc sách hàng đầu là phát triển sự nghiệp giáo dục, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, thực hiện mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Tám là, tạo cơ sở pháp lý thu hút, quản lý các Việt kiều, người nước ngoài có khả năng tham gia vào việc giảng dạy ở Việt Nam. Tạo điều kiện cho các nhà giáo Việt Nam ra nước ngoài giảng dạy, nghiên cứu khoa học. Đồng thời góp phần nâng cao vị thế cạnh tranh của nhà giáo trong quá trình hội nhập quốc tế.

3. Mối quan hệ giữa Luật Nhà giáo với một số văn bản luật khác

- Mối quan hệ giữa Luật Nhà giáo với Luật Giáo dục: Giáo dục là lĩnh vực xã hội rộng lớn. Để phát triển giáo dục cần nhiều yếu tố, trong đó đội ngũ nhà giáo giữ vai trò quyết định. Điều chỉnh các quan hệ xã hội về giáo dục có thể có nhiều văn bản luật khác nhau. Theo quy định tại Điều 1 của Luật Giáo dục thì: “Luật Giáo dục quy định về hệ thống giáo dục quốc dân; nhà trường, cơ sở khác của hệ thống giáo dục quốc dân, của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân; tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động giáo dục”. Như vậy, Luật Giáo dục là văn bản luật quy định chung nhất toàn bộ hoạt động giáo dục bao gồm mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, nơi tổ chức hoạt động giáo dục, đối tượng giáo dục, các điều kiện để thực hiện quá trình giáo dục. Luật Nhà giáo quy định về một yếu tố của hoạt động giáo dục - đội ngũ nhà giáo (chủ thể giáo dục). Quan hệ giữa Luật Giáo dục và Luật Nhà giáo là quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Theo đó, cái chung phong phú hơn cái riêng còn cái riêng sâu sắc hơn cái chung. Luật Nhà giáo phải lấy những quy định về hệ thống giáo dục quốc dân, nhà trường và các quy định cơ bản khác của Luật Giáo dục là cơ sở. Riêng các quy định về nhà giáo trong Luật Giáo dục thì Luật Nhà giáo có thể bổ sung, cụ thể hoá, hoàn thiện để nhằm mục tiêu thực hiện tốt hoạt động giáo dục. Dưới góc độ văn bản thì cả hai đều là văn bản luật do Quốc hội ban hành nên có tính độc lập tương đối. Dưới góc độ hệ thống thì Luật Nhà giáo không được có các quy định phá vỡ tính hệ thống của hoạt động giáo dục quy định trong Luật Giáo dục. Tuy nhiên, quan niệm cho rằng Luật Giáo dục là luật “mẹ”, Luật Nhà giáo chỉ được cụ thể hoá Luật Giáo dục và bị chi phối hoàn toàn bởi Luật Giáo dục là không hợp lý. Khi điều kiện cho phép, chúng ta có thể xây dựng Bộ luật Giáo dục trong đó quy định tất cả các vấn đề cơ bản về giáo dục thì không cần có luật riêng về giáo viên hay nhà giáo (Bộ Luật Giáo dục của Cộng hoà Pháp là một ví dụ).

- Mối quan hệ giữa Luật Nhà giáo với các văn bản luật chuyên ngành về giáo dục: Ở nước ta hiện nay, liên quan đến hoạt động giáo dục có Luật Giáo dục, Luật Dạy nghề, Luật Phổ cập giáo dục Tiểu học, một số nghị quyết của Quốc hội mà vị trí của một số quy định trong Nghị quyết có giá trị như luật. Theo dự kiến, chúng ta sẽ ban hành Luật Giáo dục đại học (Quốc hội đã đưa vào chương trình và đang triển khai xây dựng). Có ý kiến cho rằng, cần ban hành một số đạo luật khác theo cấp học, trình độ đào tạo (ví dụ như Luật Giáo dục mầm non, Luật Giáo dục phổ thông…). Một số nước như Đài Loan, Thái Lan… đã thực hiện theo hướng này. Các văn bản luật này sẽ điều chỉnh toàn diện các hoạt động giáo dục ở phạm vi hẹp hơn Luật Giáo dục và thường gọi là luật chuyên ngành. Trong quan hệ với các luật chuyên ngành này thì Luật Nhà giáo là văn bản luật quy định chung về chủ thể giáo dục. Nói cách khác, dưới góc độ quy định về đội ngũ nhà giáo thì Luật Nhà giáo lại là cái chung, các luật chuyên ngành lại là cái riêng. Luật Nhà giáo quy định những vấn đề chung nhất, khái quát nhất liên quan đến nhà giáo. Luật chuyên ngành cụ thể hoá quy định về nhà giáo trong Luật Nhà giáo phù hợp đặc điểm của từng cấp học, trình độ đào tạo.

- Mối quan hệ giữa Luật Nhà giáo với Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức: Luật Nhà giáo có điểm giống Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức là đều điều chỉnh trực tiếp về con người. Đối tượng áp dụng của các văn bản luật này có phần giao thoa nhau. Vì vậy, những đối tượng vừa là giáo viên, vừa là cán bộ, công chức, viên chức thì phải chịu tác động của cả hai văn bản. Luật Nhà giáo lấy một số quy định của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức làm cơ sở. Đồng thời Luật Nhà giáo quy định các vấn đềđộc lập xuất phát từ đặc điểm nghề nghiệp của đội ngũ nhà giáo. Hiện nay vẫn có quan điểm cho rằng, nhà giáo là viên chức, do vậy, không cần ban hành Luật Nhà giáo khi đã ban hành Luật Viên chức! Quan niệm này, theo chúng tôi, là phiến diện, nhất là trong điều kiện đòi hỏi đổi mới giáo dục, đòi hỏi chất lượng ngày càng cao của đội ngũ nhà giáo cũng như việc xã hội hoá giáo dục, xây dựng xã hội học tập, hội nhập quốc tế về giáo dục ngày nay.

- Với các văn bản luật khác: Luật Nhà giáo còn có quan hệ với nhiều văn bản luật khác như: Luật Lao động, Luật Thanh tra, Luật Thi đua khen thưởng, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Thể dục thể thao, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân… Các quan hệ này vừa độc lập tương đối vừa ràng buộc nhau. Độc lập vì cùng là văn bản luật với mục đích điều chỉnh các nhóm vấn đề khác nhau. Ràng buộc bởi từng văn bản luật có vị trí chuyên ngành mà các văn bản luật khác phải tuân theo về nguyên tắc.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 11(196), tháng 6/2011)