Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm

Đại thi hào Nguyễn Du - Danh nhân văn hóa thế giới, là một trong những tác giả tiêu biểu nhất trên văn đàn Việt Nam. Với khối lượng tác phẩm đồ sộ, Nguyễn Du đã trở thành lịch sử và một huyền thoại, đặc biệt với tác phẩm Truyện Kiều đã đưa văn học Việt Nam đến gần hơn với bạn bè quốc tế. Sau đây là chi tiết vềcuộc đời và sự nghiệp văn chương của đại thi hào Nguyễn Du:

Tóm lược tiểu sử cuộc đời Nguyễn Du

Nguyễn Du [sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766? –1820] tự là Tố Như [素如], hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn lạp hộ, Nam Hải điếu đồ, là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là "Đại thi hào dân tộc" và được UNESCO vinh danh là "Danh nhân văn hóa thế giới". Ông có một cuộc đời vô cùng gian truân và cực khổ.

Bạn đang xem: Sự nghiệp văn học của nguyễn du

Cuộc đời Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – XIX. Đây là giai đoạn lịch sử đầy biến động với hai đặc điểm nổi bật là chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng và phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là phong trào Tây Sơn. Yếu tố thời đại đã ảnh hưởng sâu sắc tới ngòi bút của Nguyễn Du khi viết về hiện thực đời sống. cuộc đời từng trải, phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc, đi nhiều, tiếp xúc nhiều đã tạo cho Nguyễn Du vốn sống phong phú và niềm thông cảm sâu sắc với những đau khổ của nhân dân. Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.

Thuở nhỏ Nguyễn Du sống trong nhung lụa, nhưng cuộc sống này kéo dài không quá mười năm. Vì 10 tuổi đã mồ côi cha, năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, ông và các anh em ruột phải đến sống với người anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản [khi ấy ông Khản đã hơn Nguyễn Du 31 tuổi].

Năm 1780 , khi ấy Nguyễn Du mới 15 tuổi thì xảy ra “Vụ mật án Canh Tý”: Chúa Trịnh Sâm lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử, thay cho con trưởng là Trịnh Tông. Ông Khản giúp Trịnh Tông, việc bại lộ, bị giam. Đến khi Trịnh Tông lên ngôi, ông Khản được cử lên làm Thượng thư Bộ Lại và Tham tụng. Quân lính khác phe [sử gọi là “kiêu binh”] không phục, kéo đến phá nhà, khiến ông Khản phải cải trang trốn lên Sơn Tây sống với em là Nguyễn Điều rồi về quê ở Hà Tĩnh . Thế là anh em Nguyễn Du từ bấy lâu đã đến nương nhờ ông Khản, mỗi người phải mỗi ngã.

Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường [tú tài], sau đó không rõ vì lẽ gì không đi thi nữa. Trước đây, một võ quan họ Hà [không rõ tên] ở Thái Nguyên , không có con nên đã nhận ông làm con nuôi. Vì thế, khi người cha này mất, Nguyễn Du được tập ấm một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên.

Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện tại huyện Phù Dung [nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên ]. Tháng 11 cùng năm, đổi làm Tri phủ Thường Tín [Hà Tây, nay thuộc Hà Nội].

Kể từ đó, Nguyễn Du lần lượt đảm đương các chức việc sau:

Năm 1803 : đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc.

Năm 1805 : thăng hàm Đông Các điện học sĩ.

Năm 1807 : làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.

Năm 1809 : làm Cai bạ dinh Quảng Bình.

Năm 1813 : thăng Cần Chánh điện học sĩ và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc.

Xem thêm: Ly Kỳ Sự Tích Bà Chúa Xứ Núi Sam Ở Vùng Châu Đốc An Giang, See More Of Bà Chúa Xứ Thánh Mẫu On Facebook

Sau khi đi sứ về vào năm 1814 , ông được thăng Hữu tham tri Bộ Lễ.

Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng [1791-1840] lên ngôi, Nguyễn Du lại được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường thì mất đột ngột [trong một trận dịch khủng khiếp làm chết hàng vạn người lúc bấy giờ] ở kinh đô Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức 18 tháng 9 năm 1820. Lúc đầu [1820], Nguyễn Du được táng ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Bốn năm sau mới cải táng về Tiên Điền [Hà Tĩnh].

Sự nghiệp văn học của đại thi hào Nguyễn Du

Xét về nội dung, qua các sáng tác của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm, tức đề cao “tình”. Điều quan trọng hàng đầu, là sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh [xem: Văn tế thập loại chúng sinh, Sở kiến hành, Thái Bình mại ca giả v.v.].

Cái nhìn nhân đạo này khiến ông được đánh giá là “tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19”. Riêng với Truyện Kiều, kiệt tác này còn “thấm đẫm tinh thần ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình yêu lứa đôi.”

Tác phẩm bằng chữ Hán:

Những tác phẩm bằng chữ Hán của Nguyễn Du rất nhiều, nhưng mãi đến năm 1959 mới được ba nhà nho là: Bùi Kỷ, Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm, phiên dịch, chú thích và giới thiệu tập: Thơ chữ Hán Nguyễn Du [NXB Văn hóa, 1959] chỉ gồm có 102 bài. Đến năm 1965 NXB Văn học đã ra Thơ chữ Hán Nguyễn Du tập mới do Lê Thước và Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, gồm 249 bài như sau:

Thanh Hiên thi tập còn gọi là Thanh Hiền tiền hậu tập [Tập thơ của Thanh Hiên] gồm 78 bài thơ trong giai đoạn 1786-1804, gồm 10 năm gió bụi, ông sống ở Thái Bình quê vợ, 6 năm trở lại nhà dưới chân núi Hồng, và 2 năm làm chi huyện ở huyện Bắc Hà. Tập thơ là các bài viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.

Nam trung tạp ngâm [Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam] gồm 40 bài, giai đoạn 1805-1812, ông được thăng hàm Đông các đại học sĩ, làm quan ở Kinh Đô 5 năm và làm cai bạ ở Quảng Bình 3 năm

Bắc hành tạp lục [Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc] gồm 131 bài thơ, giai đoạn 1813-1814, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.

Tác phẩm bằng chữ Nôm:

Những tác phẩm bằng chữ Nôm của Nguyễn Du gồm có:

Đoạn trường tân thanh còn có tên gọi khác là Kim Vân Kiều truyện,[Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột. Tên phổ biến là Truyện Kiều], được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thúy Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái có tài sắc. Về thời điểm sáng tác, Từ điển văn học [bộ mới] ghi: "Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc [1814-1820], có thuyết cho nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình [1804-1809]. Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn”. Văn chiêu hồn [tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh], còn có tên gọi khác là Văn chiêu hồn, Văn tế chiêu hồn.

Vài nét về tác phẩm truyện Kiều – tác phẩm tiêu biểu nhất của đại thi hào Nguyễn Du

Đoạn trường tân thanh, thường được biết đến với cái tên đơn giản là Truyện Kiều là một truyện thơ của đại thi hào Nguyễn Du. Đây được xem là truyện thơ nổi tiếng nhất và xét vào hàng kinh điển trong văn học Việt Nam, tác phẩm được viết bằng chữ Nôm theo thể lục bát, gồm 3254 câu.

Câu chuyện dựa theo tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, một thi sĩ thời nhà Minh, Trung Quốc.

Tác phẩm kể lại cuộc đời, những thử thách và đau khổ của Thúy Kiều, một phụ nữ trẻ xinh đẹp và tài năng, phải hy sinh thân mình để cứu gia đình. Để cứu cha và em trai khỏi tù, cô bán mình kết hôn với một người đàn ông trung niên, không biết rằng anh ta là một kẻ buôn người, và bị ép làm kĩ nữ trong lầu xanh.

Tác phẩm Truyện Kiều có thể nói là đỉnh cao của ngôn từ Việt, sự kết tinh từ những tinh hoa nhất của văn học Việt Nam. Người ta vẫn thường nói truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn nước ta còn. Bởi vậy Nguyễn Du là đại diện xuất sắc cho nên văn học nước nhà.

Nguyễn Du xứng đáng là đại thi hào, danh nhân văn hóa thế giới, là vì sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam.

Nguyễn Du là một trong những tác giả tiêu biểu nhất trên văn đàn Việt Nam. Với nhiều năm hoạt động trong sự nghiệp cầm bút, Nguyễn Du để lại cho nền văn học Việt Nam một khối lượng tác phẩm đồ sộ. Hãy cùng tìm hiểu tóm tắt về cuộc đời và thân thế, sự nghiệp sáng tác văn học đại thi hào Nguyễn Du ngay trong bài viết dưới đây nhé!

1. Tiểu sử

Nguyễn Du [3 tháng 1 năm 1766 – 1820] tên tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn lạp hộ, Nam Hải điếu đồ, là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là "Đại thi hào dân tộc" và được UNESCO vinh danh là "Danh nhân văn hóa thế giới".

Năm 1803, khi vua Gia Long ra Bắc, Nguyễn Du từ Quỳnh Hải đem quân lương đi đón vua Gia Long, đến Phù Dung, trấn Sơn Nam Thượng thì gặp vua Gia Long, vua phong ngay tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam [nay là huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên]. Sự kiện này giống như Phi Tử đời Chiến Quốc dâng ngựa cho vua Chu Hiếu Vương mà được chức Phụ Dung, nên Nguyễn Du có danh hiệu là Phi Tử.

Nhờ thời kỳ đi giang hồ, Nguyễn Du đã thông thạo các ngôn ngữ Trung Quốc, nên chỉ mấy tháng sau thăng tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng [nay thuộc Hà Nội], ông được đặc cách lên ải Nam Quan tiếp sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia Long.

Năm 1805, ông được thăng Đông các học sĩ, tước Du Đức hầu và vào nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân.

Năm 1807, ông được cử làm giám khảo kỳ thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm 1808, ông xin về quê nghỉ.

Năm 1809, ông được bổ chức Cai bạ [hàm Tứ phẩm] ở Quảng Bình.

Năm 1813, ông được thăng Cần chánh điện học sĩ [chính Tam phẩm] và được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh.

Năm 1814, ông đi sứ về, được thăng Lễ bộ hữu Tham tri [tòng Nhị phẩm].

Năm 1816, anh rể Nguyễn Du là Vũ Trinh vì liên quan đến vụ án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng Nam.

Năm 1820, vua Gia Long qua đời, Nguyễn Phúc Đảm nối ngôi, tức vua Minh Mạng. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch tả chết ngày mồng 10 tháng 8 năm Canh Thìn [tức 16 tháng 9 năm 1820] lúc 54 tuổi.

Năm 1824, di cốt của ông được cải táng về quê nhà là làng Tiên Điền, Hà Tĩnh.

2. Phong cách sáng tác

Trong sáng tác, Nguyễn Du rất đề cao cảm xúc, là một nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững rất nhiều thể thơ của Trung Quốc thế nên hầu hết ở bất cứ thể loại thơ nào ông cũng có thể hoàn thành tác phẩm một cách xuất sắc. Nhắc đến Nguyễn Du không ai là không nhớ đến tài năng làm thơ bằng chữ Nôm và đỉnh cao trong đó là tác phẩm Truyện Kiều, đã cho thấy được tài năng truyền tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn trong thể loại truyện và thơ.

Thơ và truyện của ông luôn nhiều màu sắc đặc biệt, sức sống dồi dào, đường nét phong phú. Những tác phẩm bằng chữ Hán của Nguyễn Du rất nhiều, nhưng mãi đến năm 1959 mới được nhà nho là: Bùi Kỷ, Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm, phiên dịch, chú thích và giới thiệu tập: Thơ chữ Hán Nguyễn Du [Nhà xuất bản Văn hóa, 1959] chỉ gồm có 102 bài. Đến năm 1965 Nhà xuất bản Văn học đã ra Thơ chữ Hán Nguyễn Du tập mới do Lê Thước và Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, gồm 249 bài.

Tác phẩm Truyện Kiều [Đoạn trường tân thanh] được Nguyễn Du sáng tác vào đầu thế kỉ 19 [khoảng 1805 – 1809]. Tác phẩm được sáng tác dựa trên cốt truyện “Kim Vân Kiều Truyện” của Trung Quốc, tác phẩm bao gồm 3254 câu thơ lục bát.

Truyện Kiều có giá trị nghệ thuật và giá trị nhân văn sâu sắc. Tác phẩm tố cáo, lên án xã hội cũ, một chế độ phong kiến thời xưa quá thối nát. Giá trị nhân văn được thể hiện ở chỗ Nguyễn Du đã thành công thể hiện được sự xót thương và tình cảm của mình dành cho Thúy Kiều, một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại bạc phận, bị tước đi quyền làm người, quyền mưu cầu hạnh phúc. Những biện pháp nghệ thuật được sử dụng như ẩn dụ, tả cảnh, ngụ tình và những tình huống truyện vô cùng độc đáo. Từ những chi tiết đó dù trải qua lớp bụi của thời gian Truyện Kiều vẫn là một tác phẩm kinh điển, làm nên tên tuổi và để lại rất nhiều cảm xúc trong lòng người đọc.

3. Nhận định về Nguyễn Du và tác phẩm của ông

Hồn Nguyễn Du phảng phất mỗi trang Kiều. – Khuyết danh

Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn. –  Chế Lan Viên

Truyện Kiều là một tiếng kêu thương, một bản tố cáo, một giấc mơ… một cái nhìn bế tắc. – Hoài Thanh

Truyện Kiều về mặt mỹ thuật rõ là cực tốt, mà ở trong đựng những vật có chất độc. – Huỳnh Thúc Kháng

Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học dân tộc thì Nguyễn Du với Truyện Kiều lại là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta. Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, có thể nói rằng ngôn ngữ Việt Nam đã trải qua một cuộc thay đổi về chất và đã tỏ rõ khả năng biểu hiện đầy đủ và sâu sắc. – Đào Duy Anh

4. Vinh danh

Hiện nay có rất nhiều trường học, thành phố tại Việt Nam mang tên Nguyễn Du.

Những tác phẩm của ông vẫn được bạn đọc lưu truyền đến ngày nay.

Hy vọng bài viết này sẽ giúp bạn đọc có thể hiểu thêm về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du, chúc bạn có kết quả học tập tốt!

Video liên quan

Chủ Đề