Tại sao năm 1941 công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô dựng lại

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô [1925-1941]

II. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô [1925-1941]

1. Những kế hoạch năm năm đầu tiên

a] Bối cảnh

- Đến năm 1925, Liên Xô cơ bản hoàn thành công cuộc khôi phục kinh tế => Nhân dân Liên Xô bước vào thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội.

b] Nhiệm vụ trọng tâm: công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

Nhiệm vụ công nghiệp hóa được thực hiện theo đường lối ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp nặng: công nghiệp chế tạo máy móc và nông cụ, công nghiệp năng lượng, công nghiệp quốc phòng,...

c] Quá trình thực hiện:

- Quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Liên Xô được thực hiện thông qua những kế hoạch năm năm.

- Từ năm 1925 - 1941, nhân dân Liên Xô đã thực hiện 3 kế hoạch năm năm:

+ Lần thứ nhất [1928 - 1932].

+ Lần thứ hai [1933 - 1937].

+ Lần thứ 3 được thực hiện từ năm 1937, song, bị gián đoạn bởi cuộc chiến tranh xâm lược của phát xít Đức vào năm 1941.

d] Thành tựu:

- Kinh tế:

+ Từ 1 nước nông nghiệp lạc hậu, Liên Xô đã vươn lên trở thành 1 cường quốc công nghiệp xã hội chủ nghĩa.

+ Năm 1937, sản lượng công nghiệp chiếm 77,4% tổng sản phẩm quốc dân.

+ Hoàn thành tập thể hóa nông nghiệp với 93% số hộ nông dân và hơn 90% diện tích ruộng đất được đưa vào nền nông nghiệp tập thể hóa. Sản xuất nông nghiệp cũng từng bước được cơ giới hóa.

Các nhà lãnh đạo Liên Xô đi thăm nhà máy thủy điện Đơ-nhi-ép

- Văn hóa - giáo dục: thanh toán nạn mù chữ, hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước và tiến tới thực hiện phổ cập giáo dục THCS tại các thành phố lớn.

- Xã hội: các giai cấp bóc lột bị xóa bỏ, chỉ còn lại 2 giai cấp lao động là công nhân, nông dân và dội ngũ trí thức XHCN.

Một lớp học xóa mù chữ ở Liên Xô, năm 1926

e] Ý nghĩa, hạn chế:

- Ý nghĩa:

+ Liên Xô bước đầu xây dựng được cơ sở vật chất - kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội.

+ Tăng cường sức mạnh đất nước.

+ Nâng cao đời sống nhân dân.

- Hạn chế:

+ Xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp.

+ Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ.

+ Chưa chú trọng đúng mức đến việc nâng cao đời sống nhân dân.

Nhận xét: Mặc dù còn có những hạn chế song công cuộc xây dựng Chủ nghĩaxã hội ởLiên Xô1925 - 1941 vẫn đạt được những thành tựu to lớn, tạo nên những biến đổi nhiều mặt, có lợi cho nhân dân, xây dựng lại lực lượng vũ trang hùng mạnh để bảo vệ tổ quốc, giúp đỡ phong trào cách mạngthế giới.

2. Quan hệ ngoại giao của Liên Xô

- Liên Xô đã từng bước phá vỡ chính sách bao vây, cô lập của các nước phương Tây:

+ Trong vòng 4 năm [1922 - 1925], Liên Xô đã được các cường quốc tư bản: Đức, Anh, Italia, Pháp, Nhật, lần lượt công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao.

+ Năm 1933, Mĩ công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô.

- Vai trò và uy tín của Liên Xô ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

ND chính

- Những kế hoạch năm năm đầu tiên: bối cảnh thực hiện, nhiệm vụ trọng tâm, quá trình thực hiện, thành tựu,...

- Quan hệ ngoại giao của Liên Xô.

Loigiaihay.com

Sơ đồ tư duyCông cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô

Loigiaihay.com

  • Chính sách kinh tế mới và công cuộc khôi phục kinh tế [1921 - 1925]

    Tóm tắt mục I. Chính sách kinh tế mới và công cuộc khôi phục kinh tế [1921 - 1925]

  • Chính sách kinh tế mới tác động đến nền kinh tế nước Nga như thế nào ? [xem bảng thống kê]

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 55 SGK Lịch sử 11

  • Việc thành lập Liên bang Xô viết có ý nghĩa như thế nào?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 55 SGK Lịch sử 11

  • Qua bảng thống kê trang 57, hãy nhận xét về thành tựu của Liên Xô trong lĩnh vực công nghiệp.

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 58 SGK Lịch sử 11

  • Nêu những thành tựu của Liên Xô qua hai kế hoạch 5 năm đầu tiên

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 58 SGK Lịch sử 11

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô [1925 - 1941]

Mục 1

1. Hoàn cảnh

- Liên Xô vẫn là nước có nền kinh tế nông nghiệp, nghèo nàn và lạc hậu.

- Sự phụ thuộc vào máy móc nhập khẩu.

=> Thực hiện công cuộc công nghiệp hóa Xã hội chủ nghĩa,tiến hành công cuộc tập thể hóa nông nghiệp, thu hút nông dân tham gia vào các nông trang tập thể.

Mục 2

2. Các kế hoạch 5 năm và thành tựu

Bằng hai kế hoạch 5 năm - kế hoạch 5 năm lần thứ nhất [1928 - 1932] và kế hoạch 5 năm lần thứ hai [1933 - 1937], Liên Xô đã giành được những thắng lợi to lớn trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội: trở thành nước công nghiệp hóa Xã hội chủ nghĩa với:

-Công nghiệp: Sản lượng công nghiệp đứng đầu châu Âu, đứng thứ hai trên thế giới [sau Mĩ].

- Nông nghiệp:

+ Đã tiến hành tập thể hóa nông nghiệp.

+ Có quy mô sản xuất lớn và được cơ giới hóa.

- Về văn hóa - giáo dục:

+ Liên Xô đã thanh toán nạn mù chữ.

+ Phát triển hệ thống giáo dục quốc dân.

+ Đạt nhiều thành tựu rực rỡ về khoa học - kĩ thuật và văn hóa - nghệ thuật.

- Về xã hội: các giai cấp bóc lột đã bị xóa bỏ, chỉ còn lại hai giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức Xã hội chủ nghĩa.

Từ tháng 6 - 1941, trước cuộc tấn công xâm lược của phát xít Đức, nhân dân Liên Xô phải ngừng việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ ba [1937 - 1941].

ND chính

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô [1925 - 1941]: hoàn cảnh, nội dung và thành tựu của các kế hoạch 5 năm.

Loigiaihay.com

Sơ đồ tư duy

Sơ đồ tư duy Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô [1925 - 1941]

loigiaihay.com

  • Lý thuyết Liên Xô xây dựng chủ nghĩa xã hội [1921 - 1941]

    Lý thuyết Liên Xô xây dựng chủ nghĩa xã hội [1921 - 1941]

  • Bức áp phích nói lên điều gì?

    Bức áp phích [Hình 58 - SGK trang 83] nói lên điều gì ?

  • Nội dung chủ yếu của chính sách kinh tế mới? Chính sách này đã có tác động thế nào đến tình hình nước Nga?

    Nội dung chủ yếu của chính sách kinh tế mới ? Chính sách này đã có tác động thế nào đến tình hình nước Nga ?

  • Vì sao nhân dân Liên Xô phải thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa?

    Vì sao nhân dân Liên Xô phải thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ?

  • Nêu những thành tựu về văn hóa - giáo dục của Liên Xô trong thời kì đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội [1925 - 1941].

    Nêu những thành tựu về văn hóa - giáo dục của Liên Xô thời kì đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội [1925 - 1941].

Vì sao Liên Xô sụp đổ: II. Sự chống phá điên cuồng và thâm độc của phương Tây

Ngày đăng:30/06/2021 - 14:49

Để lật đổ Liên Xô, các thế lực thù địch ở phương Tây đặc biệt là Mỹ đã đặt ra nhiệm vụ hàng đầu cần phải lũng đoạn được cơ quan đầu não. Đó là Đảng Cộng sản Liên Xô. Từ đó, kẻ thù giấu mặt đã len vào nhiều vị trí then chốt trong bộ máy của Đảng Cộng sản Liên Xô.Mỹ đã sử dụng nhiều lực lượng từ bên ngoài xâm nhập vào nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua các “cuộc chiến” về tổ chức nhân sự, thông tin báo chí, tài chính và các cuộc chiến khác.

Tổng thống Mỹ G. H. W. Bush [bên trái] và Tổng Bí thư ĐCS Liên Xô M. S.Gorbachev

1. Thủ đoạn “diễn biến hoà bình”

Để lật đổ Liên Xô, các thế lực thù địch ở phương Tây đặc biệt là Mỹ đã đặt ra nhiệm vụ hàng đầu cần phải lũng đoạn được cơ quan đầu não. Đó là Đảng Cộng sản Liên Xô. Từ đó, kẻ thù giấu mặt đã len vào nhiều vị trí then chốt trong bộ máy của Đảng Cộng sản Liên Xô. Chúng thực hiện nhiều ý đồ: Gây mâu thuẫn nội bộ, tăng cường khuynh hướng ly tâm, làm suy yếu khuynh hướng hướng tâm và trung tâm cũ, tăng cường những trung tâm mới mang hình thức hợp pháp nhằm làm tan rã, xáo trộn toàn bộ hệ thống xã hội, thiết lập biên giới mới ở các nước cộng hoà có mối quan hệ độc lập với bên ngoài.

Mỹ đã sử dụng nhiều lực lượng từ bên ngoài xâm nhập vào nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua các “cuộc chiến” về tổ chức nhân sự, thông tin báo chí, tài chính và các cuộc chiến khác.

Vì sao quá trình sụp đổ của Liên Xô lại diễn ra vào những năm 1985 - 1991?

Vào thời điểm này, phương Tây đang đứng trước một cuộc khủng hoảng toàn cầu. Đối với Mỹ, các nhà nghiên cứu chủ đạo của Mỹ khẳng định, cuộc chạy đua vũ trang đã trở thành trò ngu xuẩn đối với chính Mỹ và không thể giành được chiến thắng trước Liên Xô. Theo dự đoán của họ, nếu đến giữa năm 1990 mà không xảy ra những thay đổi căn bản thì ở nước Mỹ sẽ có một sự bùng nổ lớn về chính trị và xã hội. Lối thoát duy nhất đối với nhà cầm quyền Mỹ là phá tan Liên Xô từ bên trong.

Những năm 1988 - 1989, Liên Xô thật sự rơi vào vòng luẩn quẩn. Quá trình tan rã ĐCS Liên Xô đã đến đỉnh điểm và nó đã bộc lộ tính chất tự huỷ về mặt tổ chức.

Nắm bắt tình thế có một không hai đó, phương Tây đã tác động thêm vào chiến dịch cải tổ sai lầm của Liên Xô. Vào năm 1991, Gorbachev triển khai “Tuyên bố về chủ quyền”. Quan điểm của Tuyên bố là xoá bỏ tính toàn vẹn của Liên Xô. Đây đích thực là cuộc đảo chính “nhung lụa’ mà chính các đại biểu Xô viết cũng không kịp hiểu rằng, người ta đã đưa cho họ thông qua văn bản gì.

Thành tố kiến tạo hệ thống quan trọng nhất là sự hiện diện của ĐCS Liên Xô. Việc xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng được hợp pháp hoá bằng sự xoá bỏ Điều 6 trong Hiến pháp Liên Xô cũng đồng nghĩa với việc gạt bỏ ĐCS Liên Xô ra khỏi nền tảng quốc gia, để sau đó không lâu, chính ngôi nhà Xô viết cũng sụp đổ.

Nếu như trước năm 1985, các cuộc tiếp xúc với nước ngoài kể cả cấp cao cũng rất hạn chế, thì trong quá trình cải tổ các cuộc gặp giữa “các nhà cách mạng cộng đồng” [chống Xô viết] với phương Tây trở nên đặc biệt thường xuyên hơn.

Những kẻ phá hoại bên ngoài từ Mỹ luôn tìm cách kết hợp được với kẻ phá hoại bên trong theo nguyên tắc “một cộng một luôn lớn hơn hai”. Tháng 4-1990, tại thành phố Worrenton [bang Virginia] đã diễn ra hội nghị vấn đề so sánh những chỉ số kinh tế của Liên Xô và Mỹ. Phía Liên Xô có Viện sĩ Bogomlov và Tikhonov, phía Mỹ có đại diện các Trung tâm nghiên cứu và CIA. Đại diện Liên Xô đã khuyên Mỹ tăng cường áp lực với Gorbachev nhân tình hình trong nước căng thẳng để ông ta nhân nhượng lớn hơn cho Washinhton.

Được sự trợ giúp của Cơ quan tình báo Mỹ, Viện Nghiên cứu Krill công khai hoạt động ở Liên Xô từ 1986. Trong thời gian cải tổ, Viện đã tổ chức 150 cuộc hội thảo khắp các thành phố lớn ở đất nước Xô viết. G. Burbulisa - một tuyên truyền viên của Đảng Cộng sản Liên Xô, qua khoá hướng dẫn của Viện Krill, đã tuyên bố: “Liên Xô phải bị phá sản”. Thực tế trong thời Gorbachev đã phát triển mạnh mẽ tư tưởng “tự do, dân chủ”. Việc này có liên quan chặt chẽ tới Quỹ Di sản của Mỹ nhằm giúp đỡ những người đấu tranh cho “tự do” ở Liên Xô. Bàn tay của CIA phối hợp với Viện Krill cùng nhằm mục tiêu hình thành trên lãnh thổ Liên Xô những cơ cấu quyền lực có khuynh hướng “dân chủ” của phương Tây.

Tại Mỹ, chiến tranh tâm lý chống Liên Xô được triển khai ở cấp quốc gia. Những năm cải tổ, Mỹ tăng tài trợ cho các trung tâm chống phá Liên Xô nhiều hơn. Ngân sách trong năm tài chính 1983 của Mỹ cấp cho Vụ “Các vấn đề nội bộ Liên Xô” của Trung tâm RAND Corporation [Mỹ] là 13,5 tỷ USD.

2. Những đòn phép thâm độc và hèn hạ

Một trong những dự án nổi tiếng nhất thuộc chuyên ngành bí mật nhất mang tên Dự án Havard đã được áp dụng trong thời gian cải tổ ở Liên Xô nhằm phi ý thức hệ, thực chất là thay đổi hệ tư tưởng Mác - Lênin bằng một hệ tưởng khác. Đối tượng chịu tác động của những đòn chiến tranh tâm lý Mỹ là người dân Liên Xô, nhất là những người cầm quyền cao nhất, làm cho họ không có khả năng nhận thức được tình thế và cũng không phát hiện ra được những độc chất trên mặt trận tư tưởng, mất tính độc lập quyết định.

Phương Tây xây dựng cả một ngành khoa học gọi là ngành Klemli học chuyên nghiên cứu những đặc điểm cá nhân và những khả năng tiềm ẩn của những nhân vật chủ chốt trong giới lãnh đạo ở Liên Xô. Trong những năm 1980, kẻ thù của Liên Xô đã bắt đầu tăng cường mọi nỗ lực điều khiển ban lãnh đạo cao nhất.

Chiến tranh tâm lý của Mỹ đã gây mất ổn định trong nhận thức và hấp dẫn người dân bằng màn kịch chính trị lớn - cải tổ. Quần chúng chỉ còn là đám đông. Trong tình trạng đó, nhiều người đã để mất thái độ trách nhiệm công dân vốn có đối với những đổi thay trong xã hội Xô viết đang đứng trước những nguy cơ to lớn.

Cùng với chiến tranh tâm lý, thế lực thù địch với Liên Xô đã mở cuộcchiến tranh tổ chức. Sau khi Breznev qua đời, Andropov và Chernenko ốm yếu, phương Tây đã nghiên cứu tỉ mỉ phẩm chất của Romanov và Gorbachev. Họ đã quyết định loại bỏ Romanov và dọn đường cho Gorbachev. Họ đã bịa đặt và tung ra những lời vu khống đối với Romanov trên các phương tiện thông tin đại chúng đến mức các chiến hữu, thậm chí Andrôpv - người đã từng coi Romanov là bạn cũng không thể có cách nào bác bỏ sự vu khống đó. Đặc biệt là thông tin vu khống, Romanov ăn chơi, xa xỉ, sử dụng đồ dùng bằng vàng bạc, châu báu của Sa hoàng để lại trong đám cưới con ông ta.

Phương thức nguy hiểm nhất mà phương Tây áp dụng ở Liên Xô là đưa kẻ thù giấu mặt hoặc những kẻ cơ hội thâm nhập cơ cấu quyền lực. Họ quan tâm thu nạp những nhân vật dễ bị mua chuộc là những kẻ thiếu hiểu biết về Tổ quốc, không có nguồn gốc xã hội, văn hoá, tình cảm với đất nước nơi họ sinh ra và lớn lên. Cho dù đây là việc khó, song nếu thành công sẽ là một chiến thắng trọn vẹn. Cho đến nay mọi người vẫn chưa biết các nhà chiến lược phương Tây đã sử dụng phương pháp nào để “đẩy” Gorbachev lên ngai. Chỉ biết rằng, nếu không có các cơ quan mật vụ nước ngoài thì điều này đã không xảy ra. Những thông tin có chủ định phát ra từ phương Tây nhằm vào cuộc chiến tranh tổ chức ở Liên Xô nhằm giành chiếc ghế cao cho “người của mình”. Những nhân vật then chốt trong ban lãnh đạo Liên Xô, nhiều người trong số đó trước đây đã từng học ở các trường nước ngoài, nay đã tha hoá biến chất được bố trí vào những vị trí quan trọng trong hệ thống điều hành. Khi chính quyền cao nhất Liên Xô đã bộc lộ những yếu kém thì cuộc bầu cử “thật sự dân chủ” vào Đại hội Đại biểu nhân dân và Xô Viết tối cao năm 1988 - 1989 đã đưa một số lượng đáng kể “các nhà dân chủ” tham gia chính quyền, để họ có thể can thiệp vào cơ cấu điều hành. Các nhân tố thù địch lọt được vào cơ quan điều hành quốc gia là một thành công của phương Tây trong âm mưu làm sụp đổ Liên Xô.

Bài học đắt giá là cần đặc biệt chăm lo xây dựng hệ thống chính trị từ Đảng, Nhà nước đến các đoàn thể nhân dân từ trung ương đến cơ sở thật sự trong sạch, vững mạnh, thật sự trung thành và tin cậy về chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.

Mục tiêu củachiến tranh kinh tế - tài chínhcủa Mỹ chống Liên Xô là khai thác được càng nhiều tài nguyên càng tốt, làm tê liệt chức năng điều hành nền tài chính quốc gia, ngăn cản Liên Xô tiếp cận khoa học công nghệ, phục vụ cho một “chiến lược gây căng thẳng”. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, hàng loạt biện pháp, chiến dịch đã được tiến hành nhằm vào những hướng phát triển kinh tế then chốt ở Liên Xô.

Đó là đòn giảm giá dầu mỏ. Liên Xô đã có được một nguồn ngân sách chủ yếu từ việc xuất khẩu dầu mỏ, chiếm tỷ trọng chủ yếu trong kim ngạch xuất khẩu. Cứ mỗi lần nâng giá lên 1 USD/thùng thì ngân khố quốc gia Liên Xô có thêm 1 tỷ USD. Mỹ không bao giờ bỏ qua chuyện này. Vào tháng 4-1981, Giám đốc CIA là W. Casey thăm Arab Saudi để gặp đồng minh cấp cao của mình là Turki Al Fasal và Nhà vua Al Saud. Arab Saudi chiếm 40% tổng sản lượng dầu lửa của OPEC, thực tế là nước định đoạt giá dầu mỏ. Sự giảm ngoại tệ xuất khẩu dầu thô sau đó làm cho Liên Xô không đủ tiền mua thiết bị khai thác dầu mỏ, đủ cạnh tranh với các nước khác.

Với đòn giảm giá dầu chằng những Mỹ đã giành được quyền kiểm soát giá dầu mỏ mà còn đẩy kinh tế Liên Xô thêm khó khăn trước thềm cải tổ.

Thứ hai là, việc bán tống bán tháo vàng của Liên Xô. Vào trước và trong những năm cải tổ của Liên Xô, cơ quan tình báo Mỹ có những báo cáo cho biết, “Liên Xô từ 1981 đã gia tăng số lượng vàng bán ra. Trong năm 1980 họ bán ra 90 tấn nhưng tháng 11 năm 1981 đã bán ra 240 tấn. Liên Xô đang có những khó khăn lớn và chúng ta cần tiếp tục phải kiên trì đường lối của mình”.

Cùng với lời khuyến nghị này là những hoạt động phá hoại ngầm của chính quyền Reagan nhằm đánh bại Liên Xô. Từ thời thượng cổ, vàng trong ngân khố thường được dùng để phá hoại nền độc lập của quốc gia thù địch. Mỹ cùng dùng thứ vũ khí bí mật này để phá hoại Liên Xô. Nhằm bóp nghẹt Liên Xô trên thị trường vàng, CIA đã bí mật ký nhiều thoả thuận với Nam Phi, đối thủ cạnh tranh của Liên Xô. Hậu quả là Liên Xô phải bán đổ bán tháo vàng. Lượng vàng dự trữ của Liên Xô sụt giảm ở mức nguy hiểm và cùng với điều này là sự suy yếu chung của đất nước.

Nền kinh tế Liên Xô vốn đã phát triển không thật tốt. Cho đến khi Mỹ thực hiện Chỉ lệnh của Hội đồng An ninh quốc gia [NSC], NSDD số 66 ngày 13-11-1982, áp dụng bổ sung các phương thức phá hoại có chủ ý trong lĩnh vực tài chính và kinh tế Liên Xô đã bị phá vỡ hoàn toàn.

3. Mạng lưới điệp viên

Tại phiên họp mở rộng của Xô viết tối cao Liên Xô ngày 17-6-1991, Chủ tịch KGB Liên Xô V.A. Kriuchkov đã công bố một tài liệu mật của BCH T.Ư ĐCS Liên Xô đề ngày 24-1-1977: “Thời gian gần đây, CIA Mỹ đang triển khai những kế hoạch đẩy mạnh hoạt động thù địch như phân hóa xã hội Xô viết và làm rối loạn nền kinh tế XHCN. Với mục tiêu đó, tình báo Mỹ đặt ra kế hoạch tuyển mộ những điệp viên có thế lực trong số công dân Xô viết và tiếp tục can thiệp vào lĩnh vực điều hành chính trị, kinh tế và khoa học của Liên Xô”.

CIA tìm cách tuyển mộ những nhân vật có phẩm chất cá nhân cũng như năng lực công việc mà theo họ trong tương lai sẽ có chức vụ trong bộ máy điều hành, đồng thời có thể hoàn thành được những nhiệm vụ mà họ giao cho. Những "điệp viên có thế lực” được hoạt động riêng lẻ ở cấp xây dựng đường lối để tiến hành phá hoại ngầm. CIA đưa chúng vào một Trung tâm trong khuôn khổ của tình báo Mỹ. Điệp viên có thế lực có nhiệm vụ tạo ra những rào cản trong chính sách đối nội, đối ngoại của Liên Xô, kiềm chế sự phát triển kinh tế của Liên Xô, đẩy những phát triển khoa học của Liên Xô vào hướng bế tắc. Rốt cuộc, Liên Xô từng bước phải chấp thuận nhiều ý tưởng của phuơng Tây. Những điệp viên có thế lực khi bị thá hoá về đạo đức và lý tuởng đã trở thành lực lượng chủ yếu và là chỗ dựa cho bọn phản cách mạng. Bọn chúng đã "kết thành tổ kén” trong ĐCS Liên Xô.

CIA Mỹ thường xuyên liên lạc với các điệp viên để tới giờ G "họ có thể sử dụng chúng một cách tích cực nhất”. Khi R. Reagan lên làm Tổng Thống Mỹ, giám đốc CIA lúc đó nhận định "đã tới thời điểm gây cho Liên Xô những tổn thất thật sự những hỗn loạn trong nền kinh tế của họ, cần nắm quyền kiểm soát và tác động đối với sự phát triển tiếp theo của Liên Xô. Tất cả những điều đó đương nhiên là vì lợi ích quốc gia Mỹ". Mỹ tiếp tục đổ tiền vào việc chống phá Liên Xô. Từ 1985 đến 1992, Mỹ đầu tư thúc đẩy ''tiến trình dân chủ hóa" ở Liên Xô 90 tỷ USD.

Phướng Tây đã hình thành cả một hệ thống phức tạp và to lớn để hủy diệt Liên Xô. Hệ thống đó bao gồm cả giới lãnh đạo phương Tây, các cơ quan mật vụ của chúng, đội quân thứ 5 ở Liên Xô và các nước Đông Âu.

Phân hệ "Những trung ương thần kinh Mỹ" là một thành tố quan trọng của hệ thống đó. Thành công trong việc phá hoại Liên Xô một phần đáng kể thuộc về "sự phân tích thầm lặng" của các bộ tham mưu từ bên kia đại dương. Chúng soạn ra các phương thức và nhào nặn những thông tin nhằm bóp chết Liên Xô. Vào những năm cải tổ, Mỹ đã phát triển tới 285 trung tâm. Đó là những trung tâm "Xô viết học'' chuyên thu thập thông tin, hoạch định kế hoạch làm suy yếu, tiến tới lật đổ Liên Xô.

Đánh giá Chỉ lệnh NSDD-75, những người tham gia soạn thảo nhận xét: Đây là tài liện xác định mục tiêu chiến lược của Hoa Kỳ là làm tan rã hệ thống Xô viết thông qua việc tận dụng những điểm yếu bên trong của nó. Những trụ cột cho nền chính trị của hệ thống Xô viết đã rất yếu và phải chống đỡ nhiều thử thách nên có thể tin rằng đó là nguyên nhân loại bỏ ảnh hưởng Xô viết trên trái đất này”.

Đến đúng thời điểm này phương Tây tung ra một đòn tấn công có tính toán chính xác vào Đảng Cộng sản để loại bỏ Đảng ra khỏi đời sống chính trị của đất nước. Điều đó đã được hoàn thành vào tháng 8-1991, vấn đề còn lại chỉ là hình thức "chia tay Xô viết" và cuối cùng là báo cáo với "quan thầy" Mỹ.

Tháng 7-1988 tại Viện Nghiên cứu những vấn đề kinh tế - xã hội ở Leningrat đã diễn ra cái gọi là “cuộc Hội thảo của phòng 38”. Phát biểu tại Hội thảo, nhà "nữ dân chủ" nổi tiếng Starovoitova đã trình bày quan điểm về quan hệ dân tộc của nhóm cấp tiến cải tổ do A. Yakolev - điệp viên của CIA - đại điện Bộ Chính trị BCH T.Ư ĐCS Liên Xô cổ súy. Theo bà ta, "phương án cấp tiên giải quyết vấn đề dân tộc đã xuất hiện trên cơ sở những cuộc hội đàm riêng giữa Yakovlev với một số nhà lãnh đạo Đảng của các nước Cộng hòa Estonia. Phương án này được coi là một sự sắp đặt có ý thức làm suy yếu mối liên hệ giữa các dân tộc, thúc đẩy khuynh hướng ly khai đòi “dân tộc độc lập” của các nước cộng hòa.

Tại hội thảo, bà Starovoitova tuyên bố việc phân hóa mối liên hệ giữa các dân tộc với nhà nước Trung ương ở Armenia đã có ý nghĩa như là một chiến thắng đối với chính sách dân tộc của Lenin.

Phương Tây tìm mọi cách hạn chế những năng lực của Cơ quan an ninh Xô viết [KGB], hủy hoại những phuơng pháp công tác có hiệu quả, làm giảm sút tinh thần cảnh giác làm chệch hướng các mục tiêu, tung tin giả, ly gián vu cáo cán bộ KGB, sử dụng những kẻ đại diện bí mật trong đội quân thứ 5 ngăn chặn các kênh thông tin của KGB và thủ tiêu vai trò tổ chức đảng trong KGB.

Sự kiện tháng 8-1991

Tháng 8-1991, đối với Liên Xô, là điểm tận cùng trong hệ thống mà chiến dịch cải tổ đã đẩy tới tình trạng rệu rã, nếu chỉ cần một đòn nhẹ, nhưng thâm độc và được tính toán chính xác vào chỗ dễ tổn thương nhất thì cả hệ thông đó lộn nhào, tán vỡ. Toàn bộ "cải tổ” diễn ra trước đó đã trở thành khúc dạo đầu cho những gì được hoàn thành cho tháng 8 đó.

Tháng 8-1991, có tin đồn một số người ở Liên Xô đã quyết định thành lập Ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp.

Các cơ quan thông tin đại chúng dưới bàn tay chỉ đạo của Yakovlev đã dọn đường dư luận rằng, sẽ có sự phục thù từ phía những người cộng sản. Kể từ đó, bất kỳ một hành động phản kháng nào cũng đều bị phe cải tổ quy kết là âm mưu phản loạn.

Phía Mỹ cũng chuẩn bị cho sự kiện tháng 8. Gần đây giới nghiên cứu có nhắc đến tài liệu do Mỹ soạn thảo, phụ lục số 7, mà các nhà nghiên cứu Mỹ cho rằng trong các tài liệu đó có nói đến vai trò của Gorbachev trong sự kiện này.

Dự án bạo loạn có hai phương án, có hoặc không có Gorbachev tham gia. Thực tế phương án đầu tiên đã diễn ra nhưng kịch bản đã phát triển tới mức mọi diễn biến không còn phụ thuộc vào vai trò của Gorbachev.

Ủy ban quốc gia về tình hình khẩn cấp đã chọn được phương án không chỉ thuần túy chống Gorbachev mà còn cô lập được ông ta. Yeltsin nhận được một cú chuyền bóng thuận lợi đến như vậy, không thể không đáp lại bằng một đòn tuyệt vời.

A. A. Prokhanov nhớ lại: Tôi nhớ tới cuộc nói chuyện tại văn phòng báo Day với sếp của Viện RAN Corporation là Djeremi Izrael. Trên bàn để tấm sơ đồ được vẽ bằng những nét bút cẩu thả. Vòng tròn "Trung tâm Kremli” có đại diện là M. S. Gorbachev, vòng tròn "Trung tâm song song” có đại diện là Yeltsin, vòng thứ ba chỉ ''nhà vàng'' ở đó có một nhóm cố vấn chỉ đạo. Tay người Mỹ đó đã yêu cầu các cố vấn phải làm sao để kết nối toàn bộ quyền lực từ vòng tròn thứ nhất tới "vòng tròn thứ hai”. Hắn còn gặng hỏi: "Trong vài ngày liệu có thể thiết lập được một tình trạng vô chính phủ để loại bỏ Gorbachev và trong bầu không khí xã hội hỗn loạn có thể phong tỏa được việc điều hành đối với quân đội, KGB, và cảnh sát của Yeltsin không?".

Vào tháng 2-1991, vấn đề này đã được nhóm thân cận với Yeltsin bàn định và phương án "trung tâm đã được Yeltsin thông qua sau khi tiếp thu kết luận của G. Popov – một chuyên gia vừa từ Mỹ trở về. Tại Mỹ, Popov đã tiếp xúc với Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Baker cùng nhóm nghiên cứu của ông ta và các chuyên gia CIA.

M. S. Gorbachev đã thành lập Ủy ban quốc gia về tình trạng khẩn cấp dường như để kiềm chế xu hướng ly khai của các nước cộng hòa. Các thành viên nằm trong Ủy ban này là Kriuchkov, Iazov [Bộ trưởng Quốc phòng], Pugo và một số người khác.

Nhưng B. K. Pugo và X. F. Akhzomeiev - hai nhân vật kiên cường nhất trong số những người có khả năng và quyền hạn ngăn chặn việc việc Liên Xô tan rã – đã không được tham gia vào kịch bản và đã bị sát hại. Số nhân vật còn lại đã phản bội Liên Xô và ĐCS Liên Xô. Toàn bộ thời gian 4 tháng cuối cùng năm 1991, sự tồn tại của Liên Xô chỉ còn mang tính hình thức. Người ta chứng kiến một sự thật đau lòng, những nhân vật có thể ngăn chặn sự sụp đổ của Liên Xô hoặc bị bắt giam hoặc đã chết.

Gorbachev chấp nhận vai trò của mình trong vở kịch chính biến tháng 8. Ông ta cần phải loại bỏ nguy cơ lơ lửng trên đầu mình để củng cố quyền lực cá nhân bằng bất cứ giá nào. Nhưng Gorbachev đã sa vào bẫy để rồi chính ông ta cũng bị loại bỏ.

Nếu theo kịch bản của những bộ tham mưu cải tổ ở nước ngoài thì việc loại bỏ M. S. Gorbachev vào thời điểm cuối năm 1991 là điều cần thiết. Người ta chỉ bảo đảm mạng sống cho những chính khách đã giữ vai trò hai mặt. Còn khi xong việc, chính Mỹ lại là người lật bỏ chiếc mặt nạ đó.

  • Chia sẻ:
  • |
  • In bài viết
Nguồn: //tulieuvankien.dangcongsan.vn/ho-so-su-kien-nhan-chung/su-kien-va-nhan-chung/vi-sao-lien-xo-sup-do-ii-su-chong-pha-dien-cuong-va-tham-doc-cua-phuong-tay-3384

Mục lục

Quốc hiệuSửa đổi

Bài chi tiết: Các tên chính thức của Liên Xô

Từ "Liên Xô" là gọi tắt của "Liên bang viết" [tiếng Nga: Советских Союз, chuyển tự. Sovietskikh Soyuz]. Trong tiếng Việt, "Xô viết" là từ được viết theo kiểu đọc phiên âm tiếng Việt cho từ Soviet. Từ "Soviet" [tiếng Nga: Совет, chuyểntựSoviet] trong tiếng Nga có nghĩa là "hội chúng", "đại hội", "hội đồng" hay "nghị viện". Nhà nước Xô viết trong tiếng Nga có nghĩa là một nước cộng hòa được thành lập theo "cấu trúc nghị viện".

Tên chính thức của 15 quốc gia thành viên của Liên Xô là:

  • tiếng Nga: Союз Советских Социалистических Республик, chuyểntựSoyuz Sovetskikh Sotsialisticheskikh Respublik
  • tiếng Ukraina: Союз Радянських Соціалістичних Республік, chuyểntựSoyuz Radyansʹkykh Sotsialistychnykh Respublik
  • tiếng Belarus: Саюз Савецкіх Сацыялістычных Рэспублік, chuyểntựSayuz Savyetskikh Satsyyalistychnykh Respublik
  • tiếng Uzbek: Совет Социалистик Республикалари Иттифоқи
  • tiếng Kazakh: Советтік Социалистік Республикалар Одағы, chuyểntựSovettik Sotsıalıstik Respýblıkalar Odaǵy
  • tiếng Gruzia: საბჭოთა სოციალისტური რესპუბლიკების კავშირი o
  • tiếng Azerbaijan: Совет Сосиалист Республикалары Иттифагы, chuyểntựSovet Sosialist Respublikaları İttifaqı
  • tiếng Litva: Tarybų Socialistinių Respublikų Sąjunga
  • Tiếng Moldova: Униуня Републичилор Советиче Сочиалисте,tiếng Romania: Uniunea Republicilor Sovietice Socialiste
  • tiếng Latvia: Padomju Sociālistisko Republiku Savienība
  • tiếng Kyrgyz: Советтик Социалисттик Республикалар Союзу
  • tiếng Tajik: Иттиҳоди Ҷумҳуриҳои Шӯравии Сосиалистӣ
  • tiếng Armenia: Խորհրդային Սոցիալիստական Հանրապետությունների Միություն
  • tiếng Turkmen: Совет Социалистик Республикалары Союзы
  • tiếng Estonia: Nõukogude Sotsialistlike Vabariikide Liit

Trong số 14 ngôn ngữ nói trên, ngoài tiếng Nga, tiếng Uzbek, tiếng Kazakh, tiếng Azerbaijan, tiếng Moldova, tiếng Kyrgyz và tiếng Turkmen sử dụng các từ gốc "Xô viết" hoặc từ nhận thức, từ vựng như dịch thuật.

Vì lý do lịch sử và địa lý [Liên Xô có phần lãnh thổ kế thừa từ Đế quốc Nga, gồm chủ yếu là Nga và Kazakhstan và các quốc gia cấu thành Trung Á khác, phần lớn dân số Liên Xô nói tiếng Nga], nên Liên Xô đôi khi bị gọi nhầm là "Nga" hoặc "Nga Xô viết". Điều tương tự cũng đúng trong tiếng Anh. Ví dụ, cách giải thích Từ điển tiếng Anh Oxford của từ Russian là "Nga", nghĩa là "thường đề cập đến các quốc gia Liên Xô cũ trong lịch sử".[16]

Địa lýSửa đổi

Bài chi tiết: Địa lý Liên Xô
Bản đồ địa hình Liên Xô

Với diện tích là 22.402.200km² [8.649.538 sq mi], Liên Xô là quốc gia rộng lớn nhất thế giới và vị thế này vẫn được Liên bang Nga [kế thừa hơn 17 triệu km² lãnh thổ của nó] giữ lại. Liên Xô bao phủ 1 / 6 {\displaystyle 1/6} bề mặt Trái Đất, kích thước gần tương đương với Bắc Mỹ, với diện tích là 24.709.000km² [9.540.000 sq mi]. Lãnh thổ phía Châu Âu chiếm một phần tư diện tích, là 3.960.000km² [1.528.560 sq mi] đất nước và là trung tâm văn hóa và kinh tế. Phần phía đông ở châu Á diện tích là 13.100.000km² [5.057.938 sq mi] mở rộng ra đến Thái Bình Dương ở phía đông và Afghanistan ở phía nam, ngoại trừ một số khu vực ở Trung Á, ít đông dân hơn nhiều. Liên Xô trải rộng trên 10.000km [6,200mi] theo hướng đông sang tây qua 10 múi giờ từ UTC+2 đến UTC+12 và hơn 7.200km [4.500mi] từ bắc xuống nam. lãnh thổ có đến năm vùng khí hậu: lãnh nguyên, taiga, thảo nguyên, sa mạc và núi. Do lãnh thổ trải dài từ Âu sang Á nên Liên Xô được xem là một đất nước nửa Châu Âu, nửa Châu Á, nửa phương Đông, nửa phương Tây. Vị trí địa lý như vậy ảnh hưởng lớn đến văn hóa, phong tục tập quán, tư duy của Liên Xô cũng như thái độ của phương Tây đối với Liên Xô cũng như nước Nga sau này.

Liên bang Xô viết có đường biên giới dài nhất trên thế giới, ước tính hơn 60.000km [37.000mi], hay ​11⁄2 chu vi của Trái Đất. Hai phần ba số đó là đường biên giới trên biển. Liên Xô giáp với Afghanistan, Trung Quốc, Tiệp Khắc, Phần Lan, Hungary, Iran, Mông Cổ, Bắc Triều Tiên, Na Uy, Ba Lan, România và Thổ Nhĩ Kỳ từ 1945 đến 1991. Băng qua eo Biển Bering là Hoa Kỳ.

Ngọn núi cao nhất của Liên Xô là đỉnh Cộng sản [nay là đỉnh Ismail Samani] ở Tajikistan, ở độ cao 7.495 mét [24.590ft]. Liên Xô cũng sở hữu nhiều hồ lớn trên thế giới; biển Caspi [cùng với Iran] và hồ Baikal, đây là hồ nước ngọt lớn nhất và sâu nhất thế giới nằm hoàn toàn trong Liên Xô.

Thành phần và những thay đổi về lãnh thổSửa đổi

Bài chi tiết: Các nước cộng hòa của Liên bang Xô viết

Thành phần Liên bang Xô viết như sau:

  • Theo Hiệp ước về thành lập Liên Xô [30 tháng 12 năm 1922], 4 nước đầu tiên kí vào hiệp ước thành lập Liên Xô bao gồm:
    • Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga [sau tách ra thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Uzbekistan, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Turkmenia, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tajikistan, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Kazakhstan, Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Kirghizia],
    • Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina,
    • Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Belorussia,
    • Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Ngoại Kavkaz [từ năm 1936 tách thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Azerbaijan, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Armenia và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Gruzia].
  • Năm 1940 có thêm Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Moldavia, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Latvia, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết LitvaCộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Estonia

Trong thời kỳ 1940– 1954 tồn tại Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Karelia-Phần Lan, về sau là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tự trị Karelia trong Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga.

Ở thời điểm 1990, Liên Xô có tổng cộng 15 nước Cộng hòa trực thuộc.

Lịch sửSửa đổi

Bài chi tiết: Lịch sử Liên Xô

Cách mạng và sự hình thànhSửa đổi

Sự hình thành Liên Xô gắn liền với sự sụp đổ của Đế quốc Nga trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và hoạt động của Đảng Cộng sản Nga [Bolshevik] do Vladimir Ilyich Lenin lãnh đạo.

Vào đầu thế kỷ XX, Đế quốc Nga là một nước lớn ở châu Âu có tiềm lực đất đai và dân số to lớn, nhưng trình độ phát triển kinh tế– xã hội còn rất lạc hậu so với các cường quốc châu Âu khác như Anh, Đức, Pháp... Xã hội ẩn chứa nhiều mâu thuẫn gay gắt không được giải tỏa: xã hội Nga là xã hội chuyên chế độc tài của quý tộc và tư sản lớn, tự do tư tưởng bị bóp nghẹt không làm hài lòng giới trí thức [интеллигенция– intelligentsia], trung lưu thành thị và giới tư sản quý tộc nhỏ. Nước Nga lại là nơi có phong trào Marxist cấp tiến mạnh nhất, do Lenin lãnh đạo với đảng Bolshevik chủ trương làm cách mạng xã hội chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa cộng sản.

Những mâu thuẫn trên trong Chiến tranh thế giới thứ nhất không những không được cởi bỏ mà còm trầm trọng thêm với những thất bại to lớn của quân Nga trong chiến tranh, xã hội Nga đi vào bất ổn. Quốc khố cạn kiệt, nợ nước ngoài tăng cao, lạm phát không kiểm soát được, dân chúng cực khổ, chiến tranh làm phá sản hàng loạt doanh nghiệp gây thất nghiệp đô thị trầm trọng, nạn đói lan tràn tại nông thôn, các tầng lớp nhân dân, binh lính oán ghét nhà cầm quyền và chiến tranh, trong quân đội mâu thuẫn giữa binh lính và tầng lớp sĩ quan quý tộc phát triển thành chống đối. Tháng 2 năm 1917 đã nổ ra Cách mạng tháng Hai: khởi nghĩa vũ trang tại Petrograd đã lật đổ chính phủ Nga hoàng và thành lập Chính phủ Lâm thời do Aleksandr Fyodorovich Kerensky– một đảng viên của Đảng Cách mạng Xã hội đứng đầu. Chính phủ Lâm thời chủ trương phá bỏ chế độ độc tài chuyên chế, tự do hóa xã hội Nga theo các tiêu chuẩn như các quốc gia châu Âu đương thời, đồng thời hứa đảm bảo quyền lợi của giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp xã hội khác. Nhưng Chính phủ Lâm thời vẫn chủ trương theo đuổi thế chiến thứ nhất bên phía khối Hiệp ước với Anh– Pháp, bất chấp việc đất nước đã kiệt quệ vì chiến tranh. Việc không có được hòa bình như mong đợi khiến nhân dân và binh sỹ Nga trở nên bất bình.

Lenin phát biểu kêu gọi nhân dân ủng hộ

Sau Cách mạng tháng Hai, tại các địa phương ở Nga đồng loạt xuất hiện các tổ chức "hội đồng" [tiếng Nga: совет] hay Xô viết của công nhân, nông dân và binh lính để bảo vệ quyền lợi của chính họ. Thời gian giữa hai cuộc cách mạng là khi hai chính quyền song song tồn tại: chính quyền trung ương là của Chính phủ Lâm thời, nhưng các sắc lệnh muốn được thi hành phải có sự chấp thuận của các Xô viết gồm công – nông – binh địa phương, mà các Xô viết này lại ủng hộ sự lãnh đạo của đảng Bolshevik. Đảng Bolshevik rầm rộ tung khuếch trương cho cách mạng vô sản với khẩu hiệu "tất cả chính quyền về tay các Xô viết" và kêu gọi nhân dân, binh lính phản chiến làm cách mạng "Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng".

Chính phủ Lâm thời trong thời gian tám tháng tồn tại đã tiếp tục tiến hành chiến tranh với Đức-Áo-Hung, song đã bất lực trong cả nỗ lực chiến tranh và ổn định tình hình trong nước. Sau một loạt thất bại do quân Đức gây ra, quân đội trở nên chán nản, binh lính tan rã không còn tuân lệnh cấp trên, bắt giết sĩ quan và tự động đào ngũ. Tướng Kornilov - Корнилов tiến quân về thủ đô để lập lại trật tự theo yêu cầu của Kerensky nhưng có âm mưu thiết lập chế độ độc tài quân sự. Chính phủ lâm thời không còn có thể kiểm soát được tình hình, buộc phải dựa vào sự trợ giúp của lực lượng công-nông-binh thuộc các Xô viết do những người Bolshevik lãnh đạo. Kornilov bị đánh bại, nhưng sau biến cố này, Chính phủ lâm thời cũng thể hiện rõ sự yếu ớt, bất lực, không đủ khả năng lãnh đạo đất nước. Nước Nga bước vào đêm trước của Cách mạng Tháng Mười.

Lenin diễn thuyết trước sự ủng hộ của binh sĩ Hồng quân và nhân dân

Ngày 25 tháng 10 năm 1917 [theo lịch Julius, thời đó Nga còn dùng lịch Julius], tức ngày 7 tháng 11 theo lịch Gregory, Lenin và các đảng viên Bolshevik lãnh đạo các Xô viết làm Cách mạng Tháng Mười lập chính quyền Xô viết của công - nông - binh. Sau khi cách mạng thành công, chính quyền lập tức ban hành sắc lệnh về hòa bình, sắc lệnh về ruộng đất và thực hiện cam kết rút ra khỏi chiến tranh với các điều kiện rất ngặt nghèo của phía Đức [Hòa ước Brest-Litovsk].

Sự sụp đổ của chế độ Sa hoàng dẫn đến việc các dân tộc thiểu số trên Đế quốc Nga thành lập các quốc gia độc lập. Tại các quốc gia mới thành lập cũng xảy ra tranh chấp quyền lực giữa những người Bolsevik địa phương và các xu hướng chính trị khác như Melsevik, tự do chủ nghĩa, dân tộc chủ nghĩa, vô chính phủ,... tương tự những gì đang diễn ra ở nước Nga.

Ngay sau Cách mạng Tháng Mười, nước Nga rơi vào thời kỳ nội chiến đẫm máu [1918-1922]. Hồng quân Xô viết có thành phần chủ yếu là tầng lớp dưới của xã hội, học vấn thấp nhưng có số lượng đông đảo như công nhân, nông dân, cựu quân nhân và một bộ phận cựu sĩ quan của Đế quốc Nga cũ. Phía bên kia là các thành phần thuộc lực lượng bảo hoàng, các đảng phái đối lập, một bộ phận trung lưu thành thị, sĩ quan, một bộ phận nông dân, Cossack... gọi chung là Bạch vệ. Lực lượng Bạch vệ nhận được sự giúp đỡ của các quốc gia châu Âu để chống lại chính quyền Xô viết. Đặc trưng của cuộc nội chiến là tính ác liệt không khoan nhượng. Đến cuối năm 1920 về cơ bản Hồng quân đã giành chiến thắng, quân bạch vệ bị thất bại và mất quyền lực hoàn toàn, thay vào đó những người Bolshevik giành được chính quyền trên phần lớn lãnh thổ còn lại của Đế quốc Nga. Tuy nhiên, tại một số vùng lãnh thổ như Ba Lan,[17] Phần Lan, các nước Baltic, các lực lượng dân tộc chủ nghĩa thắng thế.

Ngày 30 tháng 12 năm 1922, đại biểu Xô viết đến từ những vùng lãnh thổ còn lại của Đế quốc Nga cũ [trừ Ba Lan, Phần Lan và các nước Baltic] đã nhóm họp và thành lập liên minh các nhà nước tự trị trên lãnh thổ Đế quốc Nga, thống nhất quốc hiệu là Liên bang Các nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết. Các nhà nước hợp thành Liên Xô đều có điểm chung là do những người Bolsevik địa phương lãnh đạo chính vì thế về cơ bản Liên Xô là một quốc gia được thành lập trên nền tảng ý thức hệ chung là chủ nghĩa cộng sản, ý thức hệ là nhân tố gắn kết các nhà nước này lại với nhau[18].

Trước Chiến tranh thế giới thứ haiSửa đổi

Nhà máy Magnitogorsk thép thập niên 1930

Sau thế chiến thứ nhất và nội chiến, nền kinh tế nước Nga đứng trước nguy cơ phá sản: ở nông thôn nạn đói hoành hành, cướp bóc thổ phỉ nổi lên khắp nơi, đất nông nghiệp bị tàn phá, nông dân đói chạy vào thành phố ăn xin; còn ở thành phố, công nghiệp đình đốn, thất nghiệp cực điểm, tiền không còn giá trị, nguyên liệu, tài chính cạn kiệt – tình hình xã hội lúc đó cực kỳ căng thẳng. Trong khoảng 2 năm 1921-1922, do chiến tranh đã tàn phá nông nghiệp, nạn đói lớn đã xảy ra tại các vùng nông thôn của nước Nga, đặc biệt là ở khu vực sông Volga và Ural, giết chết khoảng 2 triệu[19] tới 5 triệu người[20][21][22][22]. Nạn đói đã gây ra một cuộc khủng hoảng lớn, nhà văn Nga Maxim Gorky đã lên tiếng kêu gọi cộng đồng quốc tế giúp đỡ. Nhiều quốc gia trong đó có Mỹ và các nước châu Âu đã cung cấp viện trợ lương thực để giúp nước Nga Xô viết giải quyết nạn đói.

Để khắc phục những khó khăn của nền kinh tế nước Nga sau cuộc nội chiến, Lenin đã cho tiến hành chính sách kinh tế mới, hay NEP [Новая экономическая политика – НЭП], để thay thế cho chính sách cộng sản thời chiến đã được áp dụng trong nội chiến. NEP là chính sách dùng cơ chế kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, kêu gọi đầu tư tư bản dưới sự định hướng kiểm soát của nhà nước. Đối với nông nghiệp, thay vì trưng thu và áp giá tối đa lên nông sản như trong thời chiến, NEP dùng cơ chế thuế để điều tiết, nông dân sau khi nộp thuế thì có thể mua bán nông sản trên thị trường tự do. Tại thành phố, chính sách mới khuyến khích đầu tư của tư bản trong nước và nước ngoài, nhà nước chỉ kiểm soát những ngành quan trọng với quốc gia như điện lực, ngân hàng... NEP của Lenin đã nhanh chóng cho kết quả rất tốt: nạn đói nhanh chóng bị đẩy lùi dần và hoàn toàn sau đó, công nghiệp, thương mại được phục hồi, tình hình nông thôn và thành thị được ổn định, xã hội có tích luỹ và đời sống người dân tốt lên nhanh chóng. Từ năm 1922, thành thị đã có đủ lương thực - thực phẩm, năm 1925 sản xuất nông nghiệp đạt mức 87%; công nghiệp đạt 75% sản lượng của năm 1913 [năm cao nhất của Đế quốc Nga cũ]; đời sống nhân dân cải thiện rõ rệt, chính trị ổn định, chính quyền Liên Xô được củng cố, phát triển. Các nguy cơ lớn đe dọa đến sự tồn vong của nhà nước Liên Xô về cơ bản đã được giải quyết. Liên Xô bước vào thời kỳ mới: xây dựng và phát triển đất nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa[23].

Ngay sau khi Lenin mất [1924], trong ban lãnh đạo đất nước này đã diễn ra cuộc đấu tranh nội bộ quyết liệt do những bất đồng về đường lối xây dựng đất nước, chủ yếu là giữa hai nhóm của Iosif Vissarionovich Stalin và Lev Davidovich Trotsky. Dần dần Stalin thắng thế, nắm vị trí độc tôn trong bộ máy lãnh đạo đảng và nhà nước. Để củng cố vị trí lãnh đạo cũng như giữ vững kỷ cương xã hội, Stalin kiểm soát phần lớn cơ cấu quyền lực vào tay mình, dùng trấn áp trong nội bộ đảng, nhà nước và ngoài xã hội để loại bỏ mọi mầm mống bất ổn ngay từ trước khi bộc lộ. Bộ máy Bộ dân ủy nội vụ [NKVD– Народный коммисариат внутренних дел– НКВД] được dùng như công cụ để phát hiện các đối tượng cần phải loại bỏ, từ những nhóm đối lập với Stalin, các nhóm ly khai vũ trang, gián điệp cho tới quan chức tham nhũng, tội phạm hình sự... Stalin đã dùng bộ máy cảnh sát mật như công cụ hỗ trợ thanh lọc chính trị, ông là người quyết định và ra lệnh ai là kẻ phản bội cần phải bị loại trừ.[24]. Sự theo dõi, tố cáo cũng được khuyến khích, đề cao trong nhân dân như một phẩm chất trung thành với đảng và đất nước. Ngay từ trong thập niên 1930 Stalin đã bắt đầu loại trừ những nhân vật bị xem là phản bội ra khỏi đảng Cộng sản Liên Xô. Các nhân vật này có khi bị xét xử thông qua những vụ án điểm được công khai để tác động dư luận quần chúng hoặc xử kín, bản án là xử bắn hoặc giam giữ trong các trại cải tạo lao động.[25][26]. Theo các tài liệu Liên Xô được giải mật, trong khoảng thời gian từ năm 1937 tới năm 1938, có 1.548.367 người bị bắt giữ, trong đó 681.692 bị xử bắn.[26] Sử gia Michael Ellman ước đoán rằng số người chết trực tiếp hoặc gián tiếp do cuộc thanh lọc của Stalin trong khoảng hai năm đó là chừng 950.000 tới 1,2 triệu người [27]

Stalin coi các cuộc thanh trừng là biện pháp chống nạn quan liêu, cán bộ tham nhũng và biến chất, để nâng cao trình độ lãnh đạo và sự liêm chính của tổ chức Đảng. Theo một số nguồn thi các nhóm lớn nhất bị khai trừ trong Đại thanh trừng chính là các đảng viên kém năng lực, những người mang trọng trách nhưng không nhiệt tình với công việc. Tiếp đến là những cá nhân đã vi phạm kỷ luật đảng, quan chức tham nhũng và những người đã che giấu quá khứ phạm tội [28][29][30]. Một số nguồn khác thì thống kê rằng 70% người bị xử bắn không phải là thành viên của Đảng Cộng sản Liên Xô mà chủ yếu là dân thường, với cáo trạng là hoạt động gián điệp hoặc tham gia các nhóm thổ phỉ, ly khai vũ trang, tổ chức bạo loạn[31][32].

Sự lãnh đạo cứng rắn của Stalin bắt nguồn từ 2 nguyên nhân: đầu tiên là truyền thống chuyên chế lâu đời của nước Nga, kết hợp với quan điểm "đấu tranh giai cấp" của Marx và chủ nghĩa "anh hùng sáng tạo lịch sử" của người dân Nga, kết hợp với kinh nghiệm từ những cuộc cách mạng và chiến tranh đầy bạo lực ở châu Âu và châu Mỹ [vốn là đặc trưng trong thời kỳ này]. Thứ hai là việc Liên Xô thời kỳ này bị bao vây bởi các nước phương Tây, phải liên tục đối phó với các kế hoạch lật đổ của nước ngoài, cần phải có chính sách tập quyền và bảo đảm an ninh cao độ để không bị tiêu diệt. Có nhận xét cho rằng, về cơ bản, chính sách này là phù hợp với tình hình Liên Xô cũng như bối cảnh chính trị thế giới lúc đó[33] Sách giáo khoa lịch sử của nước Nga ngày nay thì đánh giá rằng cuộc trấn áp của Stalin nhằm dập tắt các phong trào ly khai, củng cố sự thống nhất của Liên bang Xô-Viết. Vấn đề thanh lọc nội bộ cũng không phải để lạm sát, mà bản ý của Stalin là loại bỏ những cán bộ kém năng lực, suy thoái đạo đức, tham nhũng trong nội bộ chính quyền, nhằm bảo đảm cho bộ máy Nhà nước trong sạch và phát huy hiệu quả lớn nhất.[34]

Đời sống tâm lý xã hội tại Liên Xô trong những năm 1920– 1930 là kết hợp của hai yếu tố:

  • Một mặt, kỷ luật sắt tạo nên kỷ cương xã hội: trừ Stalin, bất cứ ai dù ở cương vị hay tầng lớp nào cũng có khả năng bị Bộ Dân ủy Nội vụ điều tra, nỗi sợ bị pháp luật điều tra xử lý là chính sách nhất quán để duy trì kỷ luật xã hội và đạo đức cán bộ Nhà nước. Người ta đã lập ra GULAG [Tổng cục quản lý các trại lao động tập trung – Главное управление лагерей– ГУЛАГ] trực thuộc bộ dân ủy nội vụ NKVD. Chức năng của Tổng cục quản lý các trại lao động không chỉ là để giam giữ tù nhân mà còn có tác dụng tích cực là cách giải quyết vấn đề nhân lực để khai phá những vùng đất hoang dã và thiếu thốn của đất nước. Kỷ luật sắt cũng có tác động tốt trong việc chống nạn quan liêu - tham nhũng, một phần do bị người dân giám sát, tố cáo và pháp luật trừng trị nặng nên đa số cán bộ, công chức Liên Xô trong thời kỳ này rất gương mẫu và liêm chính, qua đó cũng tăng thêm hiệu quả quản lý của Chính phủ.
  • Mặt khác, những nhân tố giải phóng tích cực của cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa [thanh toán mù chữ và giáo dục miễn phí cho trẻ em, hệ thống y tế miễn phí, thực hiện bình đẳng nam nữ, chia ruộng đất cho nông dân, quốc hữu hóa tài nguyên và các nhà máy, mức sống ngày càng được nâng cao...] đã tạo động lực lớn, gây nên những làn sóng phấn khởi trong cuộc sống xã hội, những phong trào lớn được sự hưởng ứng của nhân dân, tâm lý chung của xã hội là chấp nhận cống hiến, hy sinh cho tương lai tươi sáng của đất nước và Chủ nghĩa xã hội, với niềm tin tuyệt đối vào lãnh tụ Stalin và Đảng Cộng sản Liên Xô.

Về mặt kinh tế và xã hội, những năm 1920 – 1930 sau Lenin được đặc trưng bởi việc chấm dứt chính sách kinh tế mới và thiết lập nền kinh tế nhà nước tập trung cao độ theo kinh tế kế hoạch hóa toàn diện. Stalin đã hiện thực hóa ý tưởng của Lenin về chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước mà theo quan điểm của Lenin "Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội[35]" và "chủ nghĩa tư bản nhà nước là cái gì có tính chất tập trung, được tính toán, được kiểm soát và được xã hội hoá[35]", trong đó nhà nước là nhà tư bản duy nhất sở hữu phần lớn tư liệu sản xuất của xã hội. Lenin cho rằng "Không có kỹ thuật đại tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên những phát minh của khoa học hiện đại, không có một tổ chức Nhà nước có kế hoạch khiến cho hàng chục triệu người phải tuân theo một cách nghiêm ngặt một tiêu chuẩn thống nhất trong việc sản xuất và phân phối sản phẩm, thì không thể nói chủ nghĩa xã hội được"[36]. Đất nước đặc trưng bởi sự bao trùm của bộ máy đảng trong mọi chức năng xã hội và các kế hoạch phát triển kinh tế.

Một quá trình to lớn có ảnh hưởng lâu dài của Liên Xô ở thời gian này là việc tiến hành thành công quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Cho đến nay trong và ngoài nước Nga vẫn còn nhiều nghiên cứu về sự nghiệp công nghiệp hóa này của Liên Xô trong các thập kỷ 1920, 1930. Đầu thập niên 1920, công nghiệp Liên Xô tụt hậu hoảng 50 - 100 năm so với các cường quốc phương Tây. Chỉ sau 15 năm, Liên Xô đã vươn lên trở thành một nước công nghiệp đứng thứ 2 trên thế giới trong một thời gian rất ngắn và điều này là nền tảng kinh tế cho chiến thắng của Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Mặt khác, công nghiệp hóa với tốc độ và quy mô rất lớn đã đòi hỏi các nỗ lực cực cao của xã hội và đã gây ra các căng thẳng, mất cân đối kinh tế. Để khắc phục nền nông nghiệp manh mún, Ban lãnh đạo Xô viết đã tiến hành tập thể hóa nông nghiệp ở nông thôn, với mục tiêu xóa bỏ sở hữu tư nhân ruộng đất và biến nền nông nghiệp từ sản xuất gia đình nhỏ lẻ thành nền sản xuất tập trung quy mô lớn [nông trường] để có thể áp dụng cơ giới hóa vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, qua đó làm tăng năng suất và giảm chi phí nhờ lợi thế quy mô. Tập thể hóa nông nghiệp đã vấp phải sự phản đối dữ dội của tầng lớp địa chủ giàu có, là thiểu số nhưng lại sở hữu phần lớn ruộng đất tại Nga [được gọi là Kulak]. Kulak không muốn chia đất cho nông dân nghèo, họ huy động nông dân làm thuê tiến hành bạo động để chống lại tập thể hóa. Ngoài ra việc tập thể hóa được tiến hành không tuân theo nguyên tắc tự nguyện, mang nặng tính cưỡng ép cũng đã khiến nhiều nông dân trở nên bất bình. Năm 1929, đã có 1.300 vụ bạo động nông dân xảy ra với hơn 200.000 người tham gia [37] Tới tháng 3 năm 1930, đã có hơn 6.500 cuộc bạo động với 1,4 triệu nông dân tham gia.[37] Để hỗ trợ cho tập thể hóa, Stalin đã cho tiến hành chiến dịch cưỡng bức tầng lớp Kulak rất quyết liệt: toàn bộ tài sản của Kulak bị tịch thu, gia đình họ bị đưa đến những vùng xa xôi hẻo lánh, những vụ bạo động của nông dân cũng bị trấn áp mạnh tay. Thiên tai [hạn hán ở Kazakstan, mưa lớn bất thường ở Ucraina], dịch bệnh trên cây trồng, việc tập trung tài chính cho công nghiệp hóa và những sai lầm trong việc tập thể hóa đã tạo nên nạn đói quy mô lớn ở Liên Xô từ cuối năm 1932 đến đầu năm 1933, trong đó khoảng 3 triệu người chết, 1/3 là tại Ukraina[38] Đầu năm 1933, chính phủ Liên Xô thực hiện chiến dịch cứu trợ lớn và gửi hơn 20.000 công nhân công nghiệp về nông thôn hỗ trợ người dân, tất cả các thành viên Đảng Cộng sản cũng tham gia việc đồng áng. Bất chấp những điều kiện tự nhiên khủng khiếp, vụ thu hoạch rất thành công vào năm 1933 đã chấm dứt nạn đói ở hầu hết các khu vực.

Bức tranh "Máy kéo đầu tiên", mô tả quá trình tập thể hóa và cơ giới hóa nông nghiệp Liên Xô

Sau tập thể hóa, nông thôn Liên Xô đã có những biến đổi to lớn. Việc canh tác thủ công trên các mảnh ruộng nhỏ, dùng gia súc kéo cày đã được thay thế bởi các nông trường cỡ lớn được cơ giới hóa. Nông nghiệp Liên Xô đã cơ bản được cơ giới hóa, năm 1938 đã có 483.500 máy kéo và 153.500 máy gặt đập liên hợp, thay thế cho ngựa kéo trước đây[39] Từ 1938 đến 1940, Liên Xô đã xây dựng mới hơn 1.200 trạm cơ giới kỹ thuật, nền nông nghiệp nhận được 92.000 máy kéo mới. Tới đầu năm 1941 đã điện khí hoá hơn 10 nghìn nông trang và 2.500 trạm cơ giới kỹ thuật. Sản lượng lương thực của nước Nga Sa hoàng năm 1913 là 4,8 triệu pud, còn Liên Xô năm 1937 đã tăng lên tới 6,8 triệu pud[40]. Theo các học giả, mặc dù Stalin đã thực hiện tập thể hóa nông nghiệp theo lối cưỡng chế, chính sách này đã "hiện đại hóa đáng kể nền sản xuất nông nghiệp truyền thống ở Liên Xô và đặt cơ sở cho mức sản xuất lương thực tương đối cao vào những năm 1970 và 1980"[41]

Liên Xô còn thi hành chính sách cấm phân biệt chủng tộc, bảo đảm sự bình đẳng giữa các dân tộc trên lãnh thổ Liên bang Xô Viết và thực hiện nam nữ bình quyền. Liên Xô cho phép phụ nữ có quyền bầu cử sớm hơn Hoa Kỳ, đồng thời khuyến khích, tạo điều kiện để phụ nữ được giáo dục ở bậc cao và tham gia vào các hoạt động chính trị - xã hội. Chính phủ Liên Xô chi ra những khoản đầu tư lớn để phát triển kinh tế xã hội tại các vùng kém phát triển như Trung Á, Siberia... nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của các dân tộc chậm tiến tại các vùng này.

Giáo dục ở Liên Xô được phổ cập và miễn phí ngay sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa được thành lập. Công dân trực tiếp tham gia lực lượng lao động có quyền hiến định về việc làm và đào tạo nghề miễn phí. Ước tính năm 1917, có 75-85% dân số Nga không biết chữ và các nhà chức trách của Liên Xô rất chú trọng đến việc loại bỏ nạn mù chữ. Những người biết chữ đã được thuê làm giáo viên. Trong một thời gian ngắn, số người được xóa mù chữ đã tăng nhanh. Vào năm 1940, Liên Xô đã có thể tự hào thông báo rằng nạn mù chữ đã được loại bỏ, điều mà nhiều cường quốc tư bản phương Tây đương thời như Mỹ, Pháp... cũng chưa hoàn thành được[42]. Nền giáo dục Liên Xô đã đào tạo ra một đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học đạt đẳng cấp quốc tế. Chính vì vậy Liên Xô có nền khoa học cơ bản đứng đầu thế giới cùng khả năng nghiên cứu phát triển ra công nghệ mới không hề thua kém phương Tây. Nền giáo dục Liên Xô không những đáp ứng được nhu cầu đào tạo nhân lực cho nền kinh tế mà còn thúc đẩy kinh tế phát triển nhờ sự phát triển của vốn con người.

Tem thư của Liên Xô mô tả về hệ thống y tế tại nước này, khuyến khích phụ nữ tới trạm y tế để sinh đẻ thay vì nhờ vào các bà đỡ không được đào tạo.

Về y tế, nguyên tắc xã hội chủ nghĩa về chăm sóc sức khỏe đã được hình thành ngay trong năm 1918. Chăm sóc sức khỏe được kiểm soát bởi nhà nước và sẽ được cung cấp miễn phí cho mọi công dân, điều này đồng thời là một khái niệm mang tính cách mạng, chưa từng có trên thế giới vào thời kỳ đó. Tuy vậy trong thời kỳ đầu hệ thống chăm sóc sức khỏe miễn phí của Liên Xô chưa đủ rộng để phổ cập toàn dân, đến năm 1969 thì hệ thống này mới được phổ cập tới toàn bộ người dân ở vùng nông thôn[43][44] Điều 42 của Hiến pháp Liên Xô năm 1977 đã quy định: tất cả công dân có quyền được bảo vệ sức khỏe và phục vụ miễn phí tại bất kỳ cơ sở y tế nào ở Liên Xô. Sau cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, tuổi thọ trung bình của người dân Liên Xô ở tất cả các nhóm tuổi đã tăng lên. Trong giai đoạn 1922-1950, nhờ việc thiết lập hệ thống y tế rộng khắp, tỷ lệ tử vong trẻ em đã giảm nhanh chóng, từ 286,6/1000 trẻ [năm 1913] xuống còn 81/1000 trẻ [năm 1950]. Tiêu thụ rượu giảm 2 lần, các bệnh do nghiện rượu gây ra cũng giảm theo. Tỷ lệ dân số tử vong hàng năm giảm từ 2,91% [năm 1913] xuống còn 1% [năm 1950].

Việc được tiếp cận chăm sóc sức khoẻ và giáo dục miễn phí đã giúp dập tắt các dịch bệnh như sốt rét, dịch tả... và tuổi thọ trung bình của công dân Liên Xô đã tăng lên hàng chục năm. Trước cách mạng Tháng Mười, số lượng bác sĩ ở Đế quốc Nga là 20.000; con số này tăng lên 105.000 vào năm 1937. Số giường bệnh cũng tăng từ 175.000 lên đến 618.000[45] Phụ nữ Liên Xô lần đầu tiên được sinh đẻ trong những bệnh viện an toàn, với khả năng tiếp cận chăm sóc trước khi sinh đã làm giảm đáng kể tỷ lệ tai biến khi sinh đẻ. Chăm sóc y tế rộng rãi và miễn phí được nhìn nhận là sự ưu việt của hệ thống xã hội chủ nghĩa so với hệ thống tư bản chủ nghĩa[ai nói?]. Những tiến bộ tiếp tục được thực hiện và vào năm 1960, tuổi thọ trung bình ở Liên Xô đã vượt qua cả Hoa Kỳ[46].

Năm 1927, chính sách công nghiệp hóa được đưa ra với một nỗ lực rất cao, nhằm khắc phục tình trạng lạc hậu, biến Liên Xô thành một quốc gia hiện đại trong thời gian ngắn. Nhà lãnh đạo Stalin tuyên bố rằng "Phải hợp lực và ra sức tăng tốc. Kéo dài tốc độ công nghiệp hóa là sẽ bị lạc hậu, mà lạc hậu thì sẽ phải ăn đòn [bị nước ngoài xâm chiếm]"[47]. Tháng 2/1931, Stalin phát biểu về tầm quan trọng sống còn của việc công nghiệp hóa Xô viết trước sự đe dọa ngày càng tăng từ các nước phương Tây:

Chúng ta lạc hậu hơn so với các cường quốc phương Tây cả 100 năm. Cần phải xây dựng nền công nghiệp bắt kịp phương Tây trong 10 năm. Ngành công nghiệp nặng. Nếu không thì chúng ta sẽ bị phương Tây tiêu diệt. [thực tế, đúng 10 năm 4 tháng sau đó, nước Đức Quốc xã đã tấn công Liên Xô][48]

Trong Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất [1928-1932], Liên Xô đề ra kỷ luật lao động nghiêm khắc đối với công nhân công nghiệp; các định mức sản lượng cao, đòi hỏi thợ mỏ phải làm việc ba ca [khoảng 10-12 giờ một ngày]. Việc không hoàn thành định mức có thể dẫn đến trách nhiệm cá nhân, bị trừ lương và giảm tiêu chuẩn sinh hoạt. Sau khi Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất kết thúc, Liên Xô đã xây dựng được nền công nghiệp nặng với kỹ thuật tiên tiến với 1.500 xí nghiệp, chủ yếu là loại lớn và hiện đại. Giá trị tổng sản phẩm công nghiệp tăng 2 lần, trong đó công nghiệp nặng tăng 2,7 lần. Công nghiệp đã cho ra đời những ngành mới như sản xuất máy kéo, ô tô, máy bay, máy liên hợp, đầu máy chạy điện, sản xuất cao su nhân tạo, tơ tổng hợp và chất dẻo[49] Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã hoàn thành trước khi thời hạn [4 năm 3 tháng], nền công nghiệp Liên Xô lúc này có khả năng trang bị kỹ thuật mới không chỉ trong công nghiệp và cả trong các ngành giao thông vận tải, xây dựng và nông nghiệp.

Nhà máy thủy điện Dnepr được xây dựng năm 1927, đây là đập thủy điện lớn nhất châu Âu khi đó và được ca ngợi là một trong những thành tựu lớn nhất của chương trình công nghiệp hóa Liên Xô.

Với sự hỗ trợ của chuyên gia thuê từ nước ngoài và sau đó là sự tự lực trong nước, Liên Xô đã xây dựng được một loạt các tổ hợp công nghiệp khổng lồ ở dọc sông Dniepr, các nhà máy luyện kim như Magnitogorsk, Lipetsk và Chelyabinsk, Novokuznetsk, Norilsk và Uralmash, nhà máy máy kéo ở Volgograd, Chelyabinsk, Kharkov, Uralvagonzavod... và nhiều nơi khác.

Kế hoạch 5 năm lần thứ 2 [1933-1937] đặc biệt chú trọng công nghiệp nặng, đã xây dựng 4.500 nhà máy; giá trị tổng sản phẩm công nghiệp tăng 2,2 lần, trong đó nhóm A tăng 2,4 lần. Công nghiệp nhẹ cũng tăng nhưng không đạt kế hoạch [do số vốn đầu tư phải rút bớt cho công nghiệp quốc phòng để đề phòng nguy cơ chiến tranh].

Công nghiệp hóa nông nghiệp được chú trọng hàng đầu. Với sự xuất hiện của ngành công nghiệp máy kéo trong nước, năm 1932 Liên Xô đã không cần nhập khẩu máy kéo từ nước ngoài và trong năm 1934 các nhà máy Kirov ở Leningrad bắt đầu sản xuất nhãn hiệu máy kéo "Universal", nhãn hiệu máy kéo đầu tiên xuất khẩu ra nước ngoài. Trong mười năm [1932-1941], Liên Xô đã xuất khẩu khoảng 700 nghìn máy kéo, chiếm 40% sản lượng thế giới.[50]

Năm 1935, Liên Xô đã khởi công giai đoạn đầu tiên của Tuyến tàu điện ngầm Moskva với tổng chiều dài 11,2km, một công trình hiện đại thời bấy giờ và vẫn được sử dụng cho tới ngày nay[51]. Tới năm 1940, sản lượng công nghiệp của Liên Xô đã tăng gấp 7,7 lần so với năm 1922, bình quân hàng năm tăng 14%. Công nghiệp Liên Xô đã chiếm 77,4% cơ cấu nền kinh tế và chiếm 10% toàn thế giới. Cho đến lúc đó, thế giới chưa từng chứng kiến nhịp độ tăng trưởng nào nhanh như vậy[52]

Kế hoạch 5 năm lần thứ ba [1938-1942] đã đề ra nhiệm vụ "đuổi kịp và vượt qua các nước tư bản tiên tiến về mặt kỹ thuật và kinh tế"[53]. Dự tính đến cuối năm 1942 sẽ tăng sản lượng công nghiệp lên 88%[54], nông nghiệp tăng 52%[55] so với năm 1937.

Sự tăng trưởng của tổng sản lượng công nghiệp Liên Xô trong thời gian 1928-1937.[56] Sản lượng 1928 1932 1937 Tăng trưởng 1932 so với 1928 [%]
Kế hoạch 5 năm lần 1 Tăng trưởng 1937 so với 1928 [%]
Kế hoạch 5 năm lần 2
Sắt, triệu tấn 3,3 6,2 14,5 188% 439%
Thép, triệu tấn 4,3 5,9 17,7 137% 412%
Kim loại đen, triệu tấn 3,4 4,4 13 129% 382%
Than, triệu tấn 35,5 64,4 128 181% 361%
Dầu, triệu tấn 11,6 21,4 28,5 184% 246%
Điện, tỷ KW/h 5,0 13,5 36,2 270% 724%
Giấy, ngàn tấn 284 471 832 166% 293%
Xi măng, triệu tấn 1,8 3,5 5,5 194% 306%
Đường, tấn 1283 1828 2421 165% 189%
Máy công cụ, nghìn chiếc 2,0 19,7 48,5 985% 2425%
Xe hơi, nghìn chiếc 0,8 23,9 200 2988% 25000%
Giày dép, cặp xách 58,0 86,9 183 150% 316%

Sau công nghiệp hóa và tập thể hóa kinh tế, Liên Xô chỉ còn hai thành phần kinh tế nhà nước và tập thể với đặc điểm quản lý tập trung hóa và kế hoạch hóa cao độ.

Chính sách công nghiệp hóa của Liên Xô đã được thực hiện với một quyết tâm cao độ và kỷ luật sắt: Để nhanh chóng hoàn thành chỉ tiêu đề ra, chính phủ thắt chặt kỷ luật lao động, ví dụ, bộ luật lao động năm 1932 đã thông qua điều luật sa thải bất cứ người lao động nào vắng mặt không có lý do tại nơi làm việc. Lao động bị sa thải sẽ bị mất nhiều quyền lợi [bị đuổi khỏi nhà ở do Nhà nước cấp phát, không được cấp tem phiếu...] và có nguy cơ rất lớn rơi vào tình trạng đói nghèo[57]. Bộ luật lao động sửa đổi năm 1938 quy định rằng bất cứ người lao động nào vắng mặt hoặc thậm chí đi làm trễ 20 phút mà không có lý do đều phải bị sa thải, trong khi hành vi tự ý bỏ việc có thể bị truy tố hình sự và bị phạt từ 2-4 tháng tù[58]. Việc không hoàn thành chỉ tiêu có thể bị khép vào tội phản quốc[59]. Tiền lương thực tế của công nhân bị sụt giảm trong những năm 1928-1937, điều kiện lao động thấp, có những người thợ mỏ đã phải làm việc 16 - 18 giờ mỗi ngày để hoàn thành chỉ tiêu[60]. Các công đoàn bị bãi bỏ, việc xử lý quyền lợi lao động thuộc về chi bộ Đảng tại nhà máy, việc đình công hay bãi công cũng bị cấm[61]. Khoảng 127.000 vụ tai nạn lao động đã xảy ra trong bốn năm [từ 1928 đến 1932]. Do phân bổ tối đa nguồn lực cho ngành công nghiệp cùng với năng suất nông nghiệp giảm kể từ khi tập thể hóa, nạn đói đã xảy ra. Ngoài ra, Stalin tập trung phát triển công nghiệp nặng mà ít chú trọng tới các ngành công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng, kết quả là người dân Liên Xô thường phải đối mặt với tình trạng thiếu hàng tiêu dùng.[62] Nhiều học giả cho rằng công cuộc công nghiệp hóa của Stalin mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu lớn, nhưng người dân Liên Xô cũng phải trải qua một giai đoạn phấn đấu gian khó để có được những thành tựu đó. Alec Nove cho rằng những chính sách công nghiệp hóa của Stalin không thực sự cần phải cứng rắn như vậy, ông cho rằng có những biện pháp khác "ít quyết liệt" hơn để đưa nền kinh tế Liên Xô đi lên [63]. Tuy nhiên, trong bối cảnh thế giới khi đó, nhất là việc Đức Quốc xã đang nổi lên khiến thế chiến thứ hai sắp nổ ra, chỉ một chút chậm trễ và thiếu kiên quyết cũng có thể khiến đất nước phải trả giá đắt. Ngay từ đầu thập niên 1930, Stalin đã biết rằng thế chiến thứ hai sắp xảy ra và Liên Xô sẽ bị tiêu diệt nếu không có nền công nghiệp đủ mạnh, ông nói "Không có thời gian để mất, Hiệp ước Versailles không có gì hơn một lệnh ngừng bắn giữa hai cuộc chiến tranh"[48]. Vì vậy, có nhận xét cho rằng chính sách công nghiệp hóa quyết liệt và kỷ luật lao động cứng rắn mà chính phủ Liên Xô đề ra là điều cần thiết trong bối cảnh đó.[47]

Tới trước Chiến tranh thế giới thứ hai, từ xuất phát điểm là Đế quốc Nga với nền sản xuất lạc hậu với tổng sản lượng công nghiệp chỉ đứng thứ 6 thế giới [năm 1917], Liên Xô đã vươn lên trở thành cường quốc công nghiệp thứ 2 thế giới và đứng đầu châu Âu, vượt qua Anh-Pháp-Đức và chỉ đứng sau Mỹ. Sản lượng công nghiệp năm 1937 đã tăng gấp 4,5 lần so với năm 1927 [so với năm 1917 thì tăng gần gấp 10 lần] và chiếm 77,4% tổng sản phẩm kinh tế quốc dân. Sản lượng nông nghiệp tăng 2 lần so với 1927, thu nhập bình quân đầu người tăng 3 lần so với 1927. Nạn mù chữ vốn chiếm gần 90% dân số Nga năm 1917, sau 20 năm đã cơ bản được thanh toán. Sản xuất quốc phòng tăng 2,8 lần chỉ sau 5 năm, vũ khí trang bị và trình độ cơ giới hóa cho quân đội Liên Xô đã đạt tương đương với các cường quốc khác trên thế giới[64].

Nếu tổng sản lượng công nghiệp năm 1913 được coi là 100 đơn vị, các chỉ số tương ứng của năm 1938 là 93,2 cho Pháp; 113,3 cho Anh, 120 cho Hoa Kỳ; 131,6 đối với Đức và 908,8 cho Liên Xô [tức là tăng gấp 9 lần]. Trong chuyến thăm mùa hè năm 1944 của Eric Johnston, Chủ tịch Phòng Thương mại Hoa Kỳ, người đã đến thăm Ural, Siberia và Kazakhstan, đã tuyên bố rằng tiến bộ kinh tế của Liên Xô từ năm 1928 là "một thành tựu phi thường trong lịch sử phát triển công nghiệp của cả thế giới"[65]

Sự tăng trưởng của kinh tế Liên Xô thời kỳ 1928-1955[66]Năm 1932 1937 1940 1950 1955
Sản lượng công nghiệp
so với năm 1928
202% 446% 646% 1.119% 2.065%
Thu nhập quốc dân
so với năm 1928
182% 386% 513% 843% 1.417%

Năm 1940, tổng sản lượng kinh tế [GDP] của Liên Xô [quy đổi theo thời giá USD năm 1990] đạt 417 tỷ USD, so với Anh là 316 tỷ USD, Pháp là 164 tỷ USD, Italy là 147 tỷ USD, Đức là 387 tỷ USD, Nhật Bản là 192 tỷ USD. Nền kinh tế Liên Xô đã có quy mô đứng đầu châu Âu và đứng thứ 2 thế giới, chỉ kém Mỹ [943 tỷ USD][67]

Nhà máy sản xuất máy kéo Chelyabinsk thập niên 1930. Năm 1940, nhà máy đã sản xuất 100.000 máy kéo và trong 4 năm thế chiến đã sản xuất 18.000 xe tăng cho Hồng quân

Trong lịch sử, nước Anh cần 200 năm để trở thành một nước công nghiệp, nước Mỹ cần 120 năm, Nhật Bản cần 40 năm. Trong khi đó, Liên Xô chỉ cần 18 năm để hoàn thành về cơ bản quá trình công nghiệp hóa của mình. Đây là tốc độ công nghiệp hóa nhanh nhất mà thế giới từng ghi nhận.

Nói một cách hình tượng, trong một khoảng thời gian ít hơn 1/4 thế kỷ, trình độ kỹ thuật của nước Nga đã nhảy vọt từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XX[68]. Kenneth Neill Cameron nhận xét[69]:

"Rõ ràng là chúng ta đang chứng kiến một ​​sự tiến bộ kinh tế to lớn nhất từng được ghi nhận, ngay cả so với các cuộc cách mạng công nghiệp. Trong thời hạn 10 năm, một xã hội ​​chủ yếu là phong kiến đã thay đổi thành một đất nước công nghiệp. Và lần đầu tiên trong lịch sử, một bước tiến như vậy không phải do chủ nghĩa tư bản, mà là do chủ nghĩa xã hội tiến hành.

Các nhà kinh tế học khi nghiên cứu nghiêm túc nguồn gốc sự phát triển của nền kinh tế Liên Xô thấy rằng sự phát triển đó khá ấn tượng nhưng không có gì thần bí. Sản lượng của nền kinh tế Xô Viết phát triển nhanh chóng có thể giải thích bằng sự phát triển nhanh của những yếu tố đầu vào của nền sản xuất như: số việc làm tăng, phát triển giáo dục và trên tất cả là đầu tư khổng lồ vào tư liệu sản xuất. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Liên Xô dựa hoàn toàn vào tiết kiệm: Nhà nước hạn chế tiêu dùng để dồn ngân sách cho đầu tư phát triển sản xuất, đó là việc hy sinh sự hưởng thụ hiện thời cho lợi ích lâu dài đạt được trong tương lai.[70] Theo nghiên cứu của Mankiw, Romer và Weil, tỷ lệ tiết kiệm cao sẽ dẫn đến thu nhập cao hơn trong tình trạng kinh tế ổn định, đồng thời làm tăng vốn đầu tư cho con người cũng như tăng năng suất của nền kinh tế[71]. Liên Xô đã sử dụng các nguồn lực thiên nhiên và con người hiệu quả hơn, có một định hướng kinh tế rõ ràng hơn thời Sa Hoàng, hệ thống chính trị có khả năng tập trung các nguồn lực để thực hiện các định hướng đó, do đó đã đạt được những thành tựu mà nước Nga phong kiến không thể nào đạt được. Ngoài ra sự thành công của Liên Xô dưới thời Stalin còn có sự đóng góp của những yếu tố đặc trưng của nước Nga như lãnh thổ rộng lớn, giàu tài nguyên; tầng lớp trí thức sót lại từ thời Sa Hoàng và tầng lớp khoa học gia mới được đào tạo có trình độ cao; sự siêng năng, ham hiểu biết, chính trực và những nỗ lực lao động vượt bậc của người Nga... Nếu không có những yếu tố này thì các chính sách, biện pháp kinh tế của chính quyền Xô Viết cũng không phát huy được hiệu quả đến vậy.

Sự thành công của Liên Xô trong thời kỳ này cũng tạo ra sức ép với các nước tư bản chủ nghĩa. Ở Mỹ thời kỳ Đại suy thoái [1929-1933], mỗi ngày có 350 lá đơn của công dân Mỹ muốn được di cư sang Liên Xô. Tháng 7 năm 1934, Herbert George Wells nói với Stalin rằng: "Bây giờ các nhà tư bản nên học hỏi các ông để lãnh hội tinh thần chủ nghĩa xã hội. Tôi tin rằng với nước Mỹ, vấn đề nằm ở chỗ phải cải tạo sâu sắc, xây dựng nền kinh tế có kế hoạch, tức là kinh tế xã hội chủ nghĩa". Chính sách kinh tế mới của Hoa Kỳ năm 1934 nhằm khắc phục Đại suy thoái chính là tiếp thu những thế mạnh trong chính sách của Liên Xô[72]

Giáo sư Kolesov tin rằng nếu không có các chính sách công nghiệp hóa của Stalin thì Liên Xô không thể duy trì nền độc lập chính trị và kinh tế của đất nước. Giá trị của công nghiệp hóa đã được xác định trước bởi tình trạng lạc hậu về kinh tế và một thời hạn quá ngắn để loại bỏ nó. Liên Xô đã loại bỏ tình trạng lạc hậu của đất nước chỉ trong thời gian rất ngắn là 13 năm [ngay trước khi Đức Quốc xã tấn công Liên Xô], thành quả rất lớn này đã cho phép Liên Xô chiến đấu và cuối cùng giành chiến thắng trong Chiến tranh thế giới thứ hai.[73]

Trong Chiến tranh thế giới thứ haiSửa đổi

Năm 1939, nguy cơ chiến tranh thế giới đã hiển hiện rất rõ ràng tại châu Âu. Liên Xô trước đó vài năm đã theo đuổi chính sách an ninh tập thể, Liên Xô kêu gọi một sự hợp tác với các nước Anh, Pháp để cùng kiềm chế nước Đức phát xít của Adolf Hitler đang quân phiệt hóa rất mạnh, nhưng Anh-Pháp đã không hồi đáp đề nghị này.

Tem thư Liên Xô năm 1940 kỷ niệm Chiến dịch Giải phóng Tây Ukraina và Tây Belorussia khỏi sự chiếm đóng của Ba Lan ngày 17 tháng 9 năm 1939

Năm 1939, sau khi Anh-Pháp ký với Đức Hiệp ước München và làm ngơ cho việc Đức chiếm toàn bộ Tiệp Khắc, ban lãnh đạo của Liên bang Xô viết tin rằng Anh-Pháp muốn hướng cỗ máy chiến tranh Đức nhắm vào họ. Phản ứng lại, Liên Xô thay đổi đột ngột chính sách đối ngoại của mình: quay sang hòa hoãn với Hitler. Liên Xô và Đức đã ký hiệp định không xâm phạm lẫn nhau [Hiệp ước Molotov-Ribbentrop] và đi xa hơn nữa hai bên ký biên bản thỏa thuận bí mật [секретный протокол] phân chia ảnh hưởng ở các nước khác. Khi Đức tấn công Ba Lan, phần lãnh thổ Tây Ukraina, Tây Belarusia vốn bị quân Ba Lan chiếm năm 1919 sẽ được quay trở về Liên Xô. Liên Xô có quyền đòi lại những lãnh thổ từng thuộc nước Đế quốc Nga cũ: 3 quốc gia vùng biển Baltic [Estonia, Latvia, Litva], phần đất Karelia [bị Phần Lan chiếm năm 1921] và Bessarabia [Moldova ngày nay] bị România chiếm năm 1920. Đổi lại Liên Xô sẽ trung lập trong chiến tranh giữa Đức và khối Anh– Pháp.

Theo đúng tinh thần của biên bản bí mật, sau khi Đức tấn công Ba Lan mở đầu Chiến tranh thế giới thứ hai [1 tháng 9 năm 1939], Quân đội Xô viết kéo vào Ba Lan, thu hồi lại Tây Belarusia, Tây Ukraina. Vùng Bessarabia cũng được România trao trả để lập nên nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Moldavia [ngày nay là Moldova]. Năm 1940, Liên Xô sáp nhập ba quốc gia vùng biển Baltic: Estonia, Latvia, Litva và lập nên ba nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa vùng Baltic [ban đầu không được phương Tây công nhận] và gây chiến tranh chống Phần Lan để thu hồi dải đất Karelia [bị Phần Lan chiếm năm 1921] để lập nên nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết tự trị Karelia. Trong Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan [1940] quân đội Xô viết đã bộc lộ những yếu kém, lạc hậu của mình và đó cũng là một trong những nguyên nhân để Hitler tấn công Liên Xô năm 1941.

Ngày 22 tháng 6 năm 1941, nước Đức Quốc xã tấn công Liên bang Xô viết và bắt đầu "Chiến tranh vệ quốc vĩ đại" của Liên Xô [1941– 1945]. Liên Xô tham gia vào khối Đồng Minh gồm Anh, Pháp Tự do và sau này có thêm Mỹ, Úc, New Zealand, Canada, Trung Quốc... Quân đội Liên Xô trong giai đoạn đầu 1941– 1942 đã chịu nhiều thất bại lớn, bị đẩy lùi với tổn thất rất lớn vì những nguyên nhân sau:

  • Quân đội Xô viết dù đã nỗ lực hoàn thiện nhưng năm 1941 vẫn còn kém khá xa Wehrmacht [quân đội Đức Quốc xã] về mọi mặt: quân số, trang bị vũ khí [quân đội Đức được vũ trang từ trước, rất hiện đại, nhất là sau khi chiếm được nước Pháp với các nguồn công nghiệp chiến tranh khổng lồ của nước này], trình độ tác chiến, tinh thần chiến đấu và nhất là quân đội Đức đã đi trước các nước khác khá xa về tư duy quân sự trong nghệ thuật chiến tranh: Đức đã phát kiến ra các chiến thuật chiến tranh cơ động, đây là cuộc cách mạng trong nghệ thuật quân sự với sự sử dụng tập trung các mũi nhọn xe tăng thiết giáp, không quân và bộ binh cơ giới... Trong khi đó quân đội Xô viết cũng như các quân đội châu Âu khác vẫn còn nặng về tư duy chiến tranh trận địa của Chiến tranh thế giới thứ nhất [thảm bại của liên quân Anh– Pháp năm 1940 tại chiến trường châu Âu cũng cho thấy rất rõ điều này].
  • Nền kinh tế của Đức đã được chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh, nước Đức vốn đã có tiềm lực công nghiệp khổng lồ lại được tăng cường thêm nhờ các nhà máy và nguồn nhân công chất lượng cao của cả chục nước châu Âu bị chiếm đóng hoặc quy phục [Pháp, Tiệp Khắc, Ba Lan, Áo, Hà Lan, Nam Tư, Rumani, Hungari...], cộng với lao động nô lệ của người Do Thái.
  • Stalin biết rằng chiến tranh với Đức sẽ nổ ra nhưng không thể sớm hơn năm 1942, do vậy ông không cho phép quân đội cũng như toàn quốc áp dụng các biện pháp quốc phòng ở mức độ cao vì sợ là sẽ khiêu khích Đức tấn công sớm hơn.
  • Các cuộc thanh lọc trong tầng lớp sĩ quan của Hồng quân Liên Xô từ năm 1937 – 1938 khiến nhiều tướng lĩnh, sĩ quan các cấp có kiến thức và kinh nghiệm quân sự bị cách chức, bắt giam hoặc bị xử bắn. Các tổn thất về cán bộ quân sự khiến Hồng quân bị thiếu sĩ quan có kinh nghiệm chiến đấu.
Phát phương tiện
Sự bành trướng của vùng Quân đội Đức Quốc xã chiếm đóng Liên Xô

Trong hai năm 1941– 1942, quân Đức đã chiếm đóng một phần lớn lãnh thổ phía tây của phần châu Âu của Liên Xô, nơi có 40% dân số và một phần đáng kể tiềm lực kinh tế của đất nước. Cuộc chiến tranh này đối với Liên Xô là có tính chất sống còn: nếu họ thất bại thì không chỉ mất lãnh thổ mà toàn bộ dân tộc sẽ đứng trước nguy cơ bị diệt chủng [đối với Đức, chiến tranh chống Liên Xô không phải là để kết thúc bằng một hiệp ước có lợi như các cuộc chiến tranh trước đó, mà là để tiêu diệt số lớn giống người Slav "hạ đẳng", đuổi số còn lại sang vùng Siberia hoang dã để chiếm đất cho "không gian sinh tồn" của giống người Đức Aryan "thượng đẳng" [xem kế hoạch Barbarossa và chủ nghĩa phát xít].

Hồng quân Liên Xô tiến ra mặt trận, Moskva ngày 23 tháng 6 năm 1941. Bảng bên trái ghi dòng chữ: "Chính nghĩa thuộc về chúng ta. Kẻ thù sẽ bị tiêu diệt. Chiến thắng sẽ thuộc về chúng ta"

Đảng Cộng sản Liên Xô lãnh đạo xã hội tiến hành kháng chiến. Các nhà máy lớn, các nông trường đều thành lập chi bộ Đảng để thực hiện nhanh chóng chỉ đạo từ trung ương. Nửa cuối năm 1941, hơn 1 triệu đảng viên nhập ngũ, chiếm 1/3 số binh sỹ Hồng quân [đến cuối chiến tranh, có tới 2,7 triệu chiến sỹ Hồng quân là Đảng viên]. Chính phủ Liên Xô đã có những nỗ lực vô cùng to lớn để di chuyển toàn bộ các nhà máy và nguồn lực kinh tế sang các vùng sâu sau dãy Ural và Siberia và thiết lập dây chuyền sản xuất tại chỗ mới. Chỉ trong 4 tháng [từ tháng 7 tới tháng 11 năm 1941], đã tổ chức cho 1500 xí nghiệp và 10 triệu người sơ tán về phía Đông, xa khỏi đòn tấn công của Đức. Tại nơi ở mới, người dân bắt tay ngay vào sản xuất với những dây chuyền sản xuất được di tản cùng họ, thậm chí có nhà máy được dựng tạm ở ngay trên đất trống ngoài trời.[47]

Chỉ sau một năm, sản xuất đã đạt mức trước chiến tranh và sau đó tiếp tục tăng lên với tốc độ rất cao, người Xô viết đã lao động tự giác, quên mình vì chiến thắng với các nỗ lực rất phi thường. Phần lớn các dân tộc các nước Cộng hòa của Liên bang Xô viết đã đoàn kết hiệp lực tin tưởng vào sự lãnh đạo của đảng cộng sản Liên Xô và lãnh tụ Stalin để đẩy lùi mối họa phát xít.

Quân đội Xô Viết tuy liên tục gặp thất bạị, bị tiêu diệt hoặc bị bắt làm tù binh hàng triệu người nhưng đã chống trả rất kiên cường theo khẩu hiệu "tử thủ" [стоять насмерть] và gây cho quân Đức những tổn thất lớn, khiến đà tiến của Đức chậm dần. Đến cuối năm 1941, họ đã chặn đứng được quân đội Đức quốc xã tại cửa ngõ thủ đô Moskva. Đây cũng là trận thua lớn đầu tiên của quân đội Đức quốc xã trong thế chiến 2, cho thấy chiến tranh đã đảo chiều theo hướng bất lợi cho Đức và có lợi cho phía Liên Xô.

Khi quân Đức tấn công, đã có những dân tộc thiểu số muốn ly khai như người Chechen và người Thổ tại Kavkaz, người Tartar ở Krym, người Kozak tại Ukraina đã cộng tác với Đức quốc xã và được tham gia các lực lượng như Waffen-SS Đức, lực lượng Don Cossack [Kozak sông Đông]...[74][75][76] Vì lý do này, nhiều dân tộc thiểu số do cộng tác với Đức Quốc xã đã bị trục xuất khỏi quê hương và bị tái định cư cưỡng bức. Trong giai đoạn từ 1941 đến 1948, Liên Xô trục xuất 3.266.340 người dân tộc thiểu số đến các khu định cư đặc biệt bên trong Liên Xô, 2/3 trong số đó bị trục xuất hoàn toàn dựa trên sắc tộc của họ, hơn một phần mười trong số đó qua đời trong thời gian này.[77] Theo số liệu của Bộ Nội vụ Liên Xô vào tháng 1 năm 1953, số người "định cư đặc biệt" từ 17 tuổi trở lên là 1.810.140 người, trong đó có 56.589 người Nga.[78]. Theo Krivosheev, có khoảng 215.000 người Liên Xô đã tử trận khi phục vụ trong hàng ngũ quân đội Đức Quốc xã [quân Đức gọi những người Liên Xô phục vụ cho họ là Hiwi][79].

Trong các năm 1942– 1943, các nỗ lực chiến tranh và kinh tế to lớn của Liên bang Xô viết cộng với sự giúp đỡ của đồng minh Anh– Mỹ trong Liên minh chống Phát xít đã tạo được bước ngoặt cơ bản của chiến tranh bằng các chiến thắng lớn tại Stalingrad và Kursk. Với tiềm lực công nghiệp rất mạnh có được nhờ công nghiệp hóa thành công, sản lượng vũ khí của Liên Xô sớm bắt kịp rồi vượt xa Đức, đây là nhân tố quyết định cho chiến thắng của Liên Xô trong chiến tranh tổng lực với Đức. Đến cuối năm 1944, Liên Xô đã giải phóng được toàn bộ đất đai của mình và đánh đuổi quân Đức trên lãnh thổ các nước Đông Âu và Trung Âu và đưa chiến tranh vào chính nước Đức. Tháng 4 năm 1945, Hồng quân Liên Xô chiếm được Berlin. Nước Đức Quốc xã sụp đổ và đầu hàng.

Thiếu tá, chính trị viên Alexey Gordeyevich Eremenko dẫn đầu đội hình xung phong tại Voroshilovgrad ngày 12 tháng 6 năm 1942 và đã hy sinh chỉ vài phút sau đó. Bức ảnh này được coi là biểu tượng cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của Hồng quân Liên Xô trong cuộc chiến tranh chống phát xít Đức

Ngay sau chiến thắng đối với nước Đức, Liên Xô tham chiến chống Nhật Bản và vào đầu tháng 8 năm 1945, đã dễ dàng đánh tan 800.000 quân thuộc đạo quân Quan Đông của Nhật tại Mãn Châu. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện và Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt.

Mặt trận Xô-Đức là mặt trận có quy mô lớn nhất trong thế chiến thứ 2. Đức đã tung ra 70% binh lực với các sư đoàn mạnh và tinh nhuệ nhất, cùng với khoảng 81% số đại bác, súng cối; 67% xe tăng; 60% máy bay chiến đấu, chưa kể binh lực góp thêm của các nước đồng minh của Đức [Ý, Rumani, Bulgari, Hungary, Phần Lan...] Có những thời điểm hai bên chiến tuyến đồng thời hiện diện đến 12,8 triệu quân, 163.000 khẩu pháo và súng cối, 20.000 xe tăng và pháo tự hành, 18.800 máy bay. Ngay cả sau khi Mỹ, Anh mở mặt trận phía Tây, Đức vẫn sử dụng gần 2/3 binh lực để chiến đấu với Liên Xô. Các trận đánh như Trận Moskva, Trận Stalingrad, Trận Kursk, Chiến dịch Bagration là những chiến dịch có quy mô, sức tàn phá và số thương vong ghê gớm nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai[80]. Kết quả tại mặt trận Xô-Đức, quân Đức và chư hầu đã bị tổn thất 607 sư đoàn, trong đó có 507 sư đoàn Đức tinh nhuệ, chiếm 75% tổng số tổn thất của quân Đức trong chiến tranh thế giới 2. Về trang bị, Đức bị mất 75% số xe tăng, 70% số máy bay, 74% số pháo binh và 30% số tàu hải quân tại mặt trận Xô-Đức. Để so sánh, các nước đồng minh khác [Anh, Pháp, Mỹ, Úc, Canada...] gộp lại đã đánh tan được 176 sư đoàn[80].

Chiến tranh thế giới thứ hai đã làm hơn 20 tới 26 triệu người Xô viết thiệt mạng [bao gồm 8,67 triệu binh sỹ và 12-18 triệu thường dân], 1.710 thành phố, thị trấn và hơn 70.000 làng mạc bị phá huỷ, 32.000 cơ sở công nghiệp, 98.000 nông trang tập thể, nhiều công trình văn hóa của Liên bang Xô viết bị phá huỷ, hơn 25 triệu người mất nhà cửa. Tổng cộng, Liên Xô mất gần 30% tài sản quốc gia và gần 1/8 dân số. Các trận đánh như Trận Moskva, Trận Stalingrad, Trận Kursk, Chiến dịch Bagration là những chiến dịch có quy mô, sức tàn phá và số thương vong ghê gớm nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Dù vậy, mỗi người dân Liên Xô đã có những nỗ lực lao động phi thường để bù đắp tổn thất và góp phần làm nên chiến thắng chung cuộc. Chỉ trong 1 năm rưỡi [từ tháng 6/1941 đến hết 1942], Liên Xô đã sơ tán hơn 2.000 xí nghiệp và 25 triệu dân và sâu trong hậu phương. Các nhà máy tăng nhanh tốc độ sản xuất, năm 1942, sản lượng vũ khí đã tăng gấp 5 lần so với 1940 và đã bắt kịp Đức, tới năm 1944 thì đã cao gấp đôi Đức.

Người lính Hồng quân Meliton Kantaria cắm lá cờ đỏ búa liềm Xô Viết trên tòa nhà Quốc hội Đức, đánh dấu chiến thắng của Liên Xô trong thế chiến thứ hai

Giai đoạn 1941-1945, trung bình mỗi năm Liên Xô sản xuất được 27.000 máy bay chiến đấu, 23.774 xe tăng và pháo tự hành, 24.442 khẩu pháo [từ 76mm trở lên]; con số này ở phía Đức là 19.700 máy bay chiến đấu, 13.400 xe tăng và pháo tự hành, 11.200 khẩu pháo. Nhờ sản lượng vũ khí khổng lồ, sau chiến tranh, Liên Xô đã có trong tay một lực lượng lục quân mạnh nhất thế giới với 11 triệu người, trang bị 40.000 xe tăng và pháo tự hành và hơn 100.000 khẩu pháo các loại. Nhiều loại vũ khí như xe tăng T-34, máy bay Il-2, pháo Kachiusa... được xem là có chất lượng đứng đầu thế giới. Quân đội Liên Xô có nhiều xe tăng và trọng pháo hơn tất cả các nước Anh - Pháp - Mỹ gộp lại và một số lượng lớn các sĩ quan và binh lính có rất nhiều kinh nghiệm trận mạc.

Sau chiến tranh, tại những vùng lãnh thổ của Đế chế Nga cũ đã xuất hiện các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa mới thuộc Liên Xô: Moldavia, Estonia, Latvia, Litva, Karelia.

Với chiến thắng trong thế chiến, Liên Xô trở thành siêu cường thế giới, đủ sức cạnh tranh với Hoa Kỳ. Nước Anh từng là bá chủ thế giới trong thế kỷ XIX, nay đã bị tụt xuống chỉ còn là cường quốc hạng 2. Thủ tướng Anh Winston Churchill đã bình luận về tình hình châu Âu tại Hội nghị Yalta tháng 2 năm 1945: "Ở bên này là con gấu Nga to lớn, ở bên kia là con voi Mỹ khổng lồ, còn ở giữa là con lừa Anh còm cõi tội nghiệp". Sau thế chiến, Ủy ban Tham mưu của Anh đã từng lên kế hoạch đem 127 sư đoàn Anh-Mỹ tấn công Liên Xô và đẩy Hồng quân ra khỏi châu Âu, nhưng kế hoạch bị coi là không khả thi do quân đội Liên Xô có lực lượng còn mạnh hơn gấp đôi và kế hoạch này bị gọi là "Chiến dịch Không tưởng"[81].

Mặc dù có những khó khăn to lớn do hậu quả của chiến tranh, Liên Xô bước ra khỏi chiến tranh với tư thế người chiến thắng góp phần quan trọng nhất vào việc đánh thắng chủ nghĩa phát xít với uy tín quốc tế cực kỳ cao và niềm phấn khởi tự hào lớn lao của nhân dân đối với cường quốc xã hội chủ nghĩa của mình tạo tiền đề để Liên Xô mạnh lên thành siêu cường thế giới sau thế chiến.

Sau chiến tranhSửa đổi

Bài chi tiết: Chiến tranh Lạnh
Bản đồ cho thấy phạm vi lãnh thổ lớn nhất của Liên Xô và các quốc gia đồng minh về chính trị, kinh tế và quân sự vào năm 1960, sau Cách mạng Cuba năm 1959 nhưng trước khi chính thức Chia rẽ Trung-Xô năm 1961

Sau chiến tranh, Liên Xô đã xây dựng lại và mở rộng nền kinh tế trong khi vẫn duy trì sự kiểm soát tập trung nghiêm ngặt. Liên Xô kiểm soát hiệu quả hầu hết các nước Đông Âu [trừ Nam Tư và Albania sau này] như là các quốc gia vệ tinh. Liên Xô đã kết hợp các quốc gia Đông Âu vào năm 1955 với một liên minh quân sự, Khối Hiệp ước Warszawa và một tổ chức kinh tế, Hội đồng Tương trợ Kinh tế hoặc Comecon [đối tác của Cộng đồng Kinh tế châu Âu [EEC]].[82] Liên Xô tập trung vào việc tự phục hồi kinh tế, chuyển giao hầu hết các nhà máy công nghiệp của Đức và sử dụng các tập đoàn do Liên Xô lãnh đạo để thu tiền bồi thường chiến tranh từ Đông Đức, Hungary, România và Bulgaria. Liên Xô cũng có các thỏa thuận thương mại được thiết kế để mang lại lợi ích cho đất nước. Moskva có ảnh hưởng mạnh lên các Đảng cộng sản tại các quốc gia Đông Âu và họ thường ủng hộ các chính sách của Kremlin.[83] Sau đó, Khối Comecon đã cung cấp hỗ trợ cho Đảng Cộng sản Trung Quốc, cuối cùng đã giành chiến thắng và ảnh hưởng của nó đã phát triển ở những nơi khác trên thế giới. Lo sợ tầm ảnh hưởng ngày cành tăng của Liên Xô, các đồng minh thời chiến của Liên Xô, gồm Anh và Hoa Kỳ, trở thành đối thủ của họ. Trong Chiến tranh Lạnh sau đó, hai bên đã đụng độ gián tiếp trong cuộc chiến ủy nhiệm, cạnh tranh ngoại giao, chạy đua khoa học công nghệ.

Phục hồi [1945– 1955]Sửa đổi

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt, ngay lập tức các mâu thuẫn tư tưởng, chính trị giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản đã phân các đồng minh cũ ra hai chiến tuyến của Chiến tranh Lạnh: Hoa Kỳ đứng đầu phe tư bản chủ nghĩa muốn hạn chế và triệt tiêu sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản, còn Liên bang Xô viết lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu xây dựng chủ nghĩa cộng sản và truyền bá hệ tư tưởng này ra khắp thế giới.

Sự căng thẳng giữa Liên Xô và Hoa Kỳ và Vương quốc Anh bắt đầu gia tăng. Liên Xô vào năm 1948 đã thiết lập các chính phủ ủng hộ chủ nghĩa cộng sản ở các nước Đông Âu mà Liên Xô đã giải phóng khỏi sự kiểm soát của Đức Quốc Xã trong chiến tranh. Mỹ và Anh lo sợ sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản vào Tây Âu và trên toàn thế giới, vào năm 1949, Hoa Kỳ, Canada và các đồng minh châu Âu đã thành lập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương [NATO], là liên minh giữa các quốc gia thuộc khối phương Tây là một chương trình chính trị có hiệu lực chống lại Liên Xô và các đồng minh. Để đáp trả NATO, Liên Xô năm 1955 đã liên kết quyền lực giữa các nước thuộc Khối Đông dưới một liên minh có tên là Khối Warszawa, khởi đầu Chiến tranh Lạnh. Cuộc đấu tranh giữa 2 khối trong Chiến tranh Lạnh đã diễn ra trên các mặt trận chính trị, kinh tế và tuyên truyền giữa Khối Đông và phương Tây, sẽ tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau cho đến khi Liên Xô tan rã năm 1991.

Sau chiến tranh thế giới hai, Liên Xô bị tàn phá nặng nề. Tổn thất vật chất ước tính là 2,5 nghìn tỷ rúp, tương đương với 30% toàn bộ nguồn của cải của đất nước. Sự phát triển các ngành kinh tế quan trọng bị thụt lùi tới 10-15 năm. Khoảng 20 tới 27 triệu người Liên Xô đã chết trong chiến tranh, hơn 5 triệu ngôi nhà bị phá hủy, 25 triệu người vô gia cư, thu hoạch nông nghiệp giảm 1/3. Hơn 70.000 ngôi làng, 7 vạn thôn trang, 32.000 nhà máy, 65.000km đường sắt, 1.135 mỏ khoáng sản bị phá hủy. Trước những tổn thất nặng nề đó, Liên Xô đề ra một kế hoạch 5 năm nhằm khôi phục nền kinh tế và đã hoàn thành mục tiêu này trong 4 năm 3 tháng. Đến năm 1950, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 73% so với năm 1940, nông nghiệp cũng khôi phục 99%. Liên Xô đã đạt tổng sản phẩm quốc dân là 153 tỷ đôla [thời giá 1950], đứng thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ [287 tỷ đôla][84].

Bộ ba lớn. Ngồi ở giữa từ trái qua phải, Churchill, Roosevelt và Stalin

Tại châu Âu sau chiến tranh, các nước Đông Âu [Ba Lan, Hungary, Cộng hòa Dân chủ Đức, Bulgaria, Tiệp Khắc, România, Albania, Nam Tư] mặc nhiên được Hoa Kỳ và phương Tây coi là khu vực ảnh hưởng của Liên Xô. Tại đây Liên Xô giúp đỡ tài chính và quân sự cho các nước này phục hồi nền kinh tế, thành lập các nhà nước xã hội chủ nghĩa dưới sự kiểm soát của mình. Phần lớn các nước này vào năm 1955 đã tham gia Khối Warszawa với Liên bang Xô viết làm trụ cột để đối đầu với khối quân sự Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương [NATO] của phương Tây do Hoa Kỳ lãnh đạo. Sau này các quốc gia này tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế COMECON. Liên Xô thông qua lực lượng quân sự hùng hậu của mình đóng trên lãnh thổ Đông Âu và bằng thỏa thuận kinh tế trong COMECON để uốn nắn đường lối chính trị của các đồng minh Đông Âu và sau này từng can thiệp trực tiếp để ngăn chặn các cuộc bạo động tại các nước này như tại Hungary [1956], Tiệp Khắc [1968] và Ba Lan [1982].

Ở châu Á sau chiến tranh, Liên Xô giúp Đảng Lao động Triều Tiên thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên của Kim Nhật Thành tại phần phía bắc bán đảo Triều Tiên. Đặc biệt vào năm 1949, với sự giúp đỡ về viện trợ của Liên Xô, Đảng Cộng sản Trung Quốc của Mao Trạch Đông đã chiến thắng trong Nội chiến Trung Quốc và thiết lập nhà nước xã hội chủ nghĩa tại quốc gia đông dân nhất thế giới, làm cho thế và lực của phong trào cộng sản trên toàn thế giới tăng lên rất mạnh. Cùng với Chiến tranh Triều Tiên giữa Bắc và Nam Triều Tiên với sự ủng hộ tích cực của Liên Xô và Trung Quốc cho Bắc Triều Tiên, tình hình thế giới trở nên rất căng thẳng: hai phe đã đụng độ quân sự trực tiếp, nguy cơ sử dụng vũ khí hạt nhân là rất nghiêm trọng.

Sau chiến tranh, lãnh thổ Liên Xô được mở rộng từ các quốc gia thất trận: Nam Sakhalin [Южный Сахалин] và quần đảo Kuril [Курильские острова] từ Nhật Bản, vùng Petsamo [Петсамо– Печенга] từ Phần Lan, Klaipeda [Kлайпеда], Koenisberg [Кёнигсберг, tên Nga là Kaliningrad– Калининград] từ Đông Phổ của Đức, Ukraina Ngoại Karpat [Закарпатская Украина] từ România. Chính quyền Xô viết tiến hành trấn áp rất mạnh các cuộc bạo loạn vũ trang ly khai tại Tây Ukraina, Tây Belarus, các nước cộng hòa Baltic và trấn áp các thành phần bất mãn đặc biệt là các quan chức, sĩ quan quân đội, cảnh sát, các lực lượng tư sản, địa chủ và dân tộc chủ nghĩa từng phục vụ cho chính quyền cũ.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tuy không còn quy mô và ở mức độ như những năm 1930 nhưng theo dõi, bắt giữ vẫn là một thành tố của chính sách nhất quán giữ yên kỷ cương xã hội Liên Xô. Sau chiến tranh và đến trước khi qua đời [1953], Stalin còn kịp chỉ đạo NKVD tiến hành vài đợt thanh lọc như vụ Leningrad [bắt giam thành viên tỉnh uỷ Leningrad], vụ các bác sĩ giết người [bắt giam một số giáo sư bác sĩ nổi tiếng của Liên Xô chủ yếu là người Do Thái, vụ này mang sắc thái bài Do Thái rất rõ], vụ chống chủ nghĩa thế giới [cosmopolitism]... Chỉ sau khi Stalin chết, lãnh đạo mới Khrushchov phát động chống sùng bái cá nhân Stalin và xử bắn Beria [Лаврентий Павлович Берия] [giám đốc NKVD] thì Liên Xô mới đoạn tuyệt hẳn với chính sách kỷ luật sắt của chủ nghĩa Stalin.

Nhà máy điện hạt nhân Obninsk do Liên Xô xây dựng năm 1950 là nhà máy điện hạt nhân đầu tiên trên thế giới

Nhìn chung, Thời kỳ 1945– 1955 là thời kỳ niềm phấn khởi tự hào của dân chúng Liên Xô dâng cao, nền kinh tế hồi phục và phát triển khá nhanh, làm cơ sở để phát triển công nghiệp hiện đại và chạy đua vũ trang. Liên Xô lúc này [và cả sau này] chủ yếu phát triển kinh tế theo chiều rộng: gia tăng sản xuất bằng việc xây dựng thêm các công trường, nhà máy mới, khai phá thêm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, huy động thêm nguồn nhân lực... và bắt đầu bước vào phát triển theo chiều sâu bằng cách tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thông qua nghiên cứu những công nghệ mới [công nghệ hạt nhân, công nghệ tự động hóa, công nghệ vũ trụ, viễn thông, luyện kim]. Cả đất nước như một công trường lớn với các dự án rất ấn tượng như chinh phục Angara, chinh phục Bắc Băng Dương, chinh phục Taiga và miền Siberia...

Về khoa học - kỹ thuật và quân sự, vào ngày 10/10/1948, Liên Xô đã bắn quả tên lửa đạn đạo đầu tiên [P-1]. Tiếp đến ngày 29/8/1949, bom nguyên tử được Liên Xô thử thành công, phá vỡ thế độc quyền vũ khí hạt nhân của Mỹ. Năm 1954, Liên Xô là quốc gia đầu tiên trên thế giới xây dựng được nhà máy điện nguyên tử [Nhà máy điện hạt nhân Obninsk được xây dựng tại thành phố Obninsk]. Đồng thời đất nước này còn chế tạo được tuốc-bin hơi nước có công suất 100 triệu oát, lớn nhất thế giới lúc bấy giờ. Công nghệ vũ trụ được nghiên cứu, tạo tiền đề cho việc phóng tàu vũ trụ đầu tiên trên thế giới vào năm 1957 mang theo vệ tinh nhân tạo đầu tiên của loài người. Những sự việc này ngoài những ý nghĩa quân sự, chiến lược, kinh tế còn có ý nghĩa tinh thần tượng trưng rất lớn: nó đánh dấu Liên Xô đã trở thành siêu cường thế giới với mục tiêu vươn lên vượt qua Hoa Kỳ.

Siêu cường thế giới [1955– 1975]Sửa đổi

Thời kỳ sau Stalin, nhất là từ đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô [1956] đến năm 1965 khi Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Khrushchyov đã bị bãi chức được gọi là thời kỳ "tan băng". Trong thời kỳ này tổng bí thư Nikita Sergeyevich Khrushchyov phát động phong trào chống sùng bái cá nhân Stalin: công khai lên án những sai lầm của Stalin, phục hồi danh dự cho những người bị oan, giải tán các trại tập trung lao động của GULAG và cho phép các dân tộc bị định cư cưỡng bức trở về quê hương, truy cứu trách nhiệm hình sự các lãnh đạo NKVD và các cơ cấu quyền lực đã lạm quyền trong trấn áp, khôi phục pháp chế nhà nước. Việc này có tiếng vang lớn và gây ra hệ quả hai mặt:

  • Một mặt phong trào này rất được lòng giới trí thức và những thành phần muốn nới lỏng kiểm soát xã hội và được họ gọi là thời kỳ "tan băng", nó gây nên một trào lưu tự do tư tưởng, văn hóa văn nghệ tự do và các xu hướng mới trong giới trí thức, văn hóa, khoa học. Phần lớn các tác phẩm văn hóa nổi tiếng, các trường phái mới gây tiếng vang của Liên Xô là kết quả của thời kỳ tan băng này. Các tầng lớp nhân dân cũng phấn khởi vì đời sống được nâng cao, các quyền tự do dân chủ được mở rộng, dân chúng không còn sống trong tâm lý sợ bị điều tra xử lý như thời Stalin.
  • Mặt khác phong trào này cũng gây ra các hệ lụy tiêu cực cho Liên Xô. Việc buông lỏng kỷ luật, coi nhẹ điều tra, giám sát cán bộ khiến tệ tham nhũng, tâm lý hưởng thụ trong bộ máy Nhà nước bắt đầu nảy sinh từ thời Khrushchyov [trong khi dưới thời Stalin, những tệ nạn này là rất hiếm bởi công cuộc thanh lọc hệ thống chính trị, thắt chặt kỷ luật Đảng mà Stalin thường xuyên tiến hành[85]] Ngoài ra, nó cũng khiến Mao Trạch Đông cảm thấy bị động chạm và gây ra chia rẽ với Trung Quốc, tạo ra sự phân ly trong phong trào Cộng sản thế giới: từ nay phe xã hội chủ nghĩa phân thành hai phía coi nhau như đối thủ. Nó đồng thời động chạm đến một bộ phận lớn các cán bộ ủng hộ chính sách thời Stalin và tạo ra bất mãn với nhà lãnh đạo mới, những người này bỏ phiếu phản đối Nikita Khrushchyov và sau này đã buộc ông từ chức.
"Chủ nghĩa cộng sản mở đường tới các vì sao". Tranh cổ động năm 1961 của Tiệp Khắc về phi công Anh hùng Liên Xô Yuri Gagarin - người đầu tiên bay vào vũ trụ trong lịch sử nhân loại

Liên Xô vào thời kỳ Khrushchyov đã có sự tiếp cận mới về đối ngoại: tìm cách hòa hoãn với Hoa Kỳ, thi hành chính sách cùng tồn tại hòa bình, ngoại giao nhân dân được phát triển, xóa bỏ tâm lý coi đế quốc như quỷ dữ, tránh gây căng thẳng có thể làm phương hại đến hòa bình thế giới. Tuy nhiên trong thời kỳ này trên thế giới đã xảy ra vài sự kiện làm căng thẳng tình hình thế giới đó là việc trấn áp cuộc bạo động tại Hungary [1956] và Khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962.

Thời kỳ của Khrushchyov ngoài sự nới lỏng tương đối về kỷ luật chính trị, tư tưởng còn có sự chuyển dịch lớn về kinh tế xã hội: Các nguồn lực thay vì trước đây chỉ dồn cho các mặt hàng công nghiệp nặng cho nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất [công nghiệp nhóm A] nay nhà nước Liên Xô tập trung hơn đến các ngành công nghiệp nhẹ [nhóm B] và xây dựng, nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân Xô viết. Trong nông nghiệp đã cho phép kinh doanh vườn tược nhỏ của các hộ. Ở thời kỳ này, người dân Liên Xô đã được Nhà nước cấp phát cho các căn hộ tiện nghi và các tiện nghi sinh hoạt cao cấp, phát triển tâm lý hưởng thụ: có xe ô tô riêng và nhà nghỉ ngoại ô [tuy chưa nhiều]. Đời sống của dân chúng sung túc lên rất nhiều. Đây là thời kỳ Liên Xô phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên và đưa người đầu tiên vào vũ trụ, biểu tượng của sự vượt lên của Liên Xô đối với đối thủ tư bản chủ nghĩa Hoa Kỳ. Những thay đổi to lớn này đã tạo ra sự phấn chấn trong các tầng lớp người Xô viết.

Về cơ bản, chính sách của thời kỳ này vẫn là cố gắng cải cách xã hội trong khuôn khổ một xã hội tập quyền do Đảng lãnh đạo. Tuy đã đạt được một số thành quả quan trọng, nhưng mặt trái trong các cải cách của Khrushchyov đã gây ra một số bất mãn và gặp phải sự phản đối trong nội bộ đảng và cuối cùng các lực lượng phản đối đã thành công trong việc buộc Khrushchyov phải từ chức.

Nhìn chung, đây là giai đoạn Liên Xô đạt mức phát triển cao nhất và có vị thế chưa từng có trong lịch sử, ngay cả khi so với nước Nga đầu thế kỷ XXI:

  • Về kinh tế, năm 1972, tổng sản lượng công nghiệp Liên Xô đã tăng 321 lần so với năm 1922 [năm Liên Xô thành lập], thu nhập quốc dân tăng 112 lần. Năm 1975, chỉ cần 2 ngày rưỡi, Liên Xô đã sản xuất ra lượng sản phẩm bằng cả năm 1913 [năm cao nhất của Đế quốc Nga cũ]. Sản lượng công nghiệp Liên Xô chiếm 20% thế giới, tổng sản lượng nền kinh tế [GDP] chỉ đứng sau Mỹ.
  • Liên Xô là nước dẫn đầu trên thế giới về trình độ học vấn tại thập niên 1970, với gần 3/4 công dân có trình độ đại học và trung học.
  • Năm 1959, Tàu phá băng dùng năng lượng hạt nhân [nuclear icebreaker] mang tên Lenin được Liên Xô chế tạo và thử nghiệm thành công, đây là mô hình đầu tiên của loại tàu này trên thế giới.
  • Một số lĩnh vực như khoa học vũ trụ, điện hạt nhân, luyện kim, công nghệ vũ khí... Liên Xô đã có được vị trí dẫn đầu thế giới. Liên Xô có rất nhiều thành tựu về toán học, vật lí học, đại dương học, luyện kim, xúc tác hóa học, thủy động lực học từ trường. Các nhà khoa học Liên Xô giành được 14 giải Nobel vật lí, 1 giải nobel hóa học, 1 giải về kinh tế học và ba giải Fields về toán học.
  • Trong lĩnh vực thể thao, Liên Xô đã vươn lên vị thế dẫn đầu thế giới. Kể từ khi bắt đầu tham gia Thế vận hội [Olympic] vào năm 1952 cho tới năm 1988, trong tổng số 9 đại hội Olympic mà đoàn thể thao Liên Xô tham gia, họ đứng đầu thế giới tại 6/9 kỳ đại hội, 3 kỳ đại hội còn lại họ cũng chỉ chịu đứng thứ 2. Năm 1960, Đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô đã trở thành đội bóng đầu tiên đăng quang tại giải vô địch bóng đá châu Âu [giải đấu năm đó có 17 đội tham dự vòng loại, 4 đội lọt vào vòng chung kết]. Danh thủ Lev Yashin của đội tuyển bóng đá Liên Xô trở thành thủ môn đầu tiên và cũng là duy nhất tới nay giành giải Quả bóng vàng châu Âu.
Sputnik 1, vệ tinh nhân tạo đầu tiên của loài người do Liên Xô chế tạo

Đặc biệt, Liên Xô đã có được vị trí dẫn đầu trong công nghệ vũ trụ [lĩnh vực được xem là tập trung tinh hoa của nhiều lĩnh vực khác, từ thiên văn học, toán học cho tới tự động hóa, vật liệu siêu bền]. Liên Xô đã trở thành quốc gia đầu tiên mở màn cho kỷ nguyên thám hiểm vũ trụ của loài người với hàng loạt thành tựu:

  • Ngày 4 tháng 10 năm 1957, con tàu Sputnik 1 được Liên Xô phóng lên vũ trụ từ sân bay vũ trụ Baikonur ở Kazakhstan, mang theo vệ tinh nhân tạo đầu tiên của loài người được đưa vào quỹ đạo Trái Đất.
  • Ngày 3 tháng 11 năm 1957, chó Laika đã trở thành sinh vật sống đầu tiên trên Trái Đất bay lên vũ trụ trên tàu Sputnik 2.
  • Ngày 19 tháng 8 năm 1960, hai chú chó Belka và Strelka đã trở thành những sinh vật sống đầu tiên trên Trái Đất bay vào vũ trụ và trở về an toàn.
  • Ngày 12 tháng 4 năm 1961, phi hành gia Liên Xô Yuri Gagarin trở thành người đầu tiên của nhân loại bay vào vũ trụ trên chuyến bay kéo dài 1 giờ 48 phút cùng con tàu Vostok 1. Khi hạ cánh ở một nông trang, Gagarin gặp một bà già, anh nói: "Bác đừng hoảng sợ. Con là một người Xô Viết!". Câu nói của Gagarin thể hiện niềm tự hào về đất nước Xô viết, song anh đã trở thành anh hùng - không chỉ ở Liên Xô mà trên toàn thế giới[86].
  • Tiếp sau Gagarin là phi hành gia Gherman Titov với chuyến bay kéo dài 25 giờ, Titov là người đầu tiên ngủ trong không gian vũ trụ.
  • Ngày 16 tháng 6 năm 1963, Valentina Tereshkova là người phụ nữ đầu tiên bay vào vũ trụ.
  • Ngày 18 Tháng 3 năm 1965, phi hành gia Alexei Leonov bước ra khỏi tàu vũ trụ Voskhod 2, trở thành người đầu tiên đi bộ ngoài không gian vũ trụ.
  • Ngày 3 tháng 2 năm 1966, tàu thám hiểm không người lái Luna-9 đã trở thành tàu vũ trụ đầu tiên hạ cánh trên mặt trăng.
  • Ngày 17 tháng 11 năm 1970, Lunokhod 1 đã trở thành chiếc xe tự hành đầu tiên được điều khiển từ Trái Đất để đến một thiên thể khác [Mặt trăng]. Nó đã tiến hành phân tích bề mặt của Mặt Trăng và gửi hơn 20.000 bức ảnh về Trái Đất.
  • Ngày 19 tháng 4 năm 1971, Salyut 1 trở thành Trạm không gian đầu tiên trong lịch sử loài người.
  • Năm 1975, Venera 9 trở thành con tàu thám hiểm đầu tiên hạ cánh trên một hành tinh khác [sao Kim], nó cũng là con tàu thám hiểm đầu tiên đã chụp và gửi lại hình ảnh kỹ thuật số từ bề mặt của một hành tinh khác trở về Trái Đất.
Ba phi hành gia anh hùng của Liên Xô: Pavel Popovich, Yuri Gagarin [người đầu tiên bay vào vũ trụ] và Valentina Tereshkova [người phụ nữ đầu tiên bay vào vũ trụ], ảnh chụp năm 1964

Theo tài liệu của Chính phủ Mỹ thống kê về kinh tế các nước trên thế giới, năm 1975, tổng sản lượng kinh tế của Liên Xô đã đạt 943,5 tỷ USD [đứng thứ 2 thế giới và bằng 62% so với Hoa Kỳ], bình quân đầu người đạt 4.135 USD [bằng 52% so với Hoa Kỳ] tính theo thời giá năm 1977[87]

Công dân Liên Xô được hưởng mức phúc lợi xã hội rất tốt so với nhiều nước cùng thời[88]:

  • Liên Xô là một trong những nước đầu tiên trên thế giới quy định chế độ làm việc 8 giờ một ngày [nước đầu tiên là Uruguay][89]. Người lao động Liên Xô được phép nghỉ một tháng mỗi năm và trong thời gian nghỉ phép đó, họ vẫn được hưởng lương bình thường. Người lao động cũng sẽ không bị sa thải nếu không có sự chấp thuận của công đoàn,
  • Người dân Liên Xô được đưa tới nơi làm việc bằng phương tiện công cộng mà không phải trả tiền.
  • Người dân Liên Xô được miễn học phí tại mọi cơ sở giáo dục, từ mẫu giáo cho tới đại học.
  • Nhà nước đảm bảo các sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, đại học đều có việc làm sau khi nhận bằng.
  • Người dân Liên Xô được khám chữa bệnh miễn phí hoàn toàn [đến năm 1969 hệ thống chăm sóc sức khỏe miễn phí ở Liên Xô về cơ bản đã được phổ cập tới toàn thể người dân ở cả thành thị lẫn nông thôn [43][44]]. Mỗi thành phố đều có hàng chục cơ sở y tế nơi người dân có thể gặp bác sĩ, được khám bệnh, chụp X-quang, chữa răng. Tất cả dịch vụ đều không mất tiền. Liên Xô còn là nước có số lượng giường bệnh trên đầu người lớn nhất trên thế giới.
  • Các bà mẹ Liên Xô mới sinh sẽ được phát sữa miễn phí cho tới khi con được ba tuổi. Các sản phụ có quyền nghỉ thai sản trong ba năm. Năm đầu tiên, họ vẫn được nhận lương bình thường, sau đó nếu không muốn trở lại đi làm thì sẽ được nhận trợ cấp xã hội.
  • Người dân Liên Xô được Nhà nước cấp nhà ở miễn phí. Từ năm 1957 Liên Xô đã xây được hơn 2,2 triệu căn nhà mỗi năm cho người dân nước này.

Tuy vậy, một báo cáo của "Ủy ban quốc gia nghiên cứu Liên Xô và Đông Âu" [thuộc chính phủ Hoa Kỳ] cho rằng mô hình phúc lợi xã hội của Liên Xô thời kì này vẫn còn tồn tại những hạn chế. Hệ thống y tế miễn phí của Liên Xô vẫn có sự phân hóa: Những người có vị trí cao hơn trong xã hội [ví dụ quan chức cấp cao, sĩ quan quân đội, khoa học gia nối tiếng] thường sẽ được hưởng dịch vụ y tế cao cấp hơn so với dân thường[90]. Nhiều cơ sở khám chữa bệnh của Liên Xô thời kì này bị thiếu hụt thuốc men và các trang thiết bị y tế, nguyên nhân một phần là do ngân sách chi cho lĩnh vực y tế không đủ [một thống kê cho thấy tỷ trọng GNP dành cho hệ thống chăm sóc sức khoẻ chiếm một tỉ lệ khá nhỏ tại Liên Xô, chỉ bằng 1/3 so với Hoa Kỳ][90][91][92][93]. Hệ thống y tế của Liên Xô tập trung vào việc chữa bệnh hơn là phòng ngừa, theo một bản báo cáo mật của CIA trình lên chính phủ Hoa Kỳ [được công khai vào năm 1999] thì tỷ lệ mắc bệnh thương hàn vào năm 1979 ở Liên Xô cao gấp 30 lần và tỷ lệ mắc bệnh sởi cao hơn gấp 20 lần so với Hoa Kỳ[94]. Tuy nhiên, theo Mark Britnell thì nền y tế Liên Xô vẫn xứng đáng đạt huy chương vàng vào thời kỳ đó, khi mà vào năm 1985 thì số lượng bác sỹ và số giường bệnh bình quân đầu người của Liên Xô đã cao gấp 4 lần so với Hoa Kỳ[95]. Truyền thống thu thập và nguyên cứu y tế giúp Liên Xô sở hữu một kho dữ liệu y tế và các thực nghiệm liên quan rất đồ sộ, với rất nhiều trung tâm và viện nghiên cứu phát triển vaccine rất mạnh và được liên kết với nhau. Cho đến mãi 30 năm sau, khi Đại dịch COVID-19 xảy ra, di sản về y tế của Liên Xô vẫn giúp nước Nga chế tạo vacxin với tiến độ rất nhanh chóng[96].

Cũng theo Ủy ban nghiên cứu Liên Xô và Đông Âu, nền giáo dục của Liên Xô hay xảy ra bệnh thành tích khi điểm số ở các trường được chấm một cách dễ dãi và nhiều khi không đúng với năng lực của học sinh[90]. Việc chính phủ Liên Xô xây nhà ở hàng loạt để cấp miễn phí cho người dân đã dẫn tới hệ lụy là kiến trúc dân dụng thường chỉ coi trọng số lượng mà không coi trọng chất lượng, nên nhà ở tại Liên Xô thường có tiêu chuẩn kém hơn so với nhà ở tại các nước phát triển. Việc cung cấp nhà ở cũng có sự phân hóa đáng kể: người có địa vị cao trong xã hội thường được cấp cho những căn nhà tốt hơn hẳn so với những người bình thường[90] Tình trạng thiếu hụt hàng tiêu dùng vẫn thường xuyên xảy ra, sự sẵn có của các loại hàng hóa và dịch vụ giải trí ở Liên Xô cũng ít hơn nhiều so với các nước phương Tây [97]. Bất chấp những hạn chế, mô hình phúc lợi xã hội của Liên Xô nhìn chung đã hoạt động hiệu quả, đảm bảo tương đối tốt cho đời sống của mọi người dân cho đến những năm 1980, khi Liên Xô lâm vào khủng hoảng chính trị.

Thủ đô Moskva năm 1970

Trên bình diện quốc tế, Liên Xô xem hệ thống kinh tế - chính trị của mình là ưu việt đáng để người khác noi theo, họ mở rộng ảnh hưởng ra toàn thế giới và thiết lập hệ thống các quốc gia đồng minh bằng các biện pháp chính trị, quân sự hoặc kinh tế. Liên Xô từng can thiệp vào chính trị nội bộ nước khác như đưa quân đội vào các nước Đông Âu, Afghanistan... Họ cũng duy trì một hệ thống căn cứ quân sự ở nước ngoài để bảo vệ lãnh thổ và ảnh hưởng của mình. Những hành động này bị chỉ trích bởi các lực lượng chống Liên Xô. Phương Tây chỉ trích Liên Xô là Đế quốc Xô viết, các nhóm sắc tộc theo chủ nghĩa ly khai ở Nga thì coi Liên Xô là nhà nước kế vị của Đế quốc Nga với tham vọng mở rộng lãnh thổ cho dân tộc Nga[98][99]. Một số cáo buộc Liên Xô là một nhà nước thực dân kiểu cũ[100], trong khi những người theo chủ nghĩa Mao kể từ sau mâu thuẫn Trung Xô đã cáo buộc Liên Xô là một đế chế trá hình trong hình thức quốc gia xã hội chủ nghĩa. Việc Nga hóa và Xô viết hóa hệ thống giáo dục và xã hội ở các quốc gia tự trị trên lãnh thổ Liên Xô cũng bị những nhóm này chỉ trích[101]. Ngược lại, những người ủng hộ Liên Xô bác bỏ những quan điểm này. Họ dẫn chứng rằng Liên Xô đã giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc ở Á – Phi – Mĩ Latinh trong cuộc đấu tranh giành độc lập, chống lại chủ nghĩa thực dân của các nước Châu Âu, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của Mĩ và phương Tây, ủng hộ các phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Những năm 1960, trong cao trào đấu tranh giải phóng dân tộc được Liên Xô ủng hộ, đã có khoảng 100 quốc gia giành được độc lập dân tộc, một số nước không ngừng ủng hộ mạnh mẽ phong trào Xã hội chủ nghĩa, chọn đi theo con đường Xã hội chủ nghĩa với những mức độ khác nhau[102]. Ngược lại cũng có một số nước chống Cộng và một số nước khác theo đường lối trung lập[103]. Liên Xô đã viện trợ kinh tế, quân sự cho rất nhiều nước kém phát triển trên thế giới, giúp cho các nước này củng cố nền độc lập của họ và phát triển kinh tế - xã hội. Các nước Đông Âu là điển hình mà sự trợ giúp của Liên Xô đã phát huy tác dụng tích cực nhờ đó họ nhanh chóng phục hồi sau thế chiến thứ II và xây dựng nền tảng công nghiệp quốc gia để trở thành các nước công nghiệp hóa. Tại hội nghị ở Havana, Liên Minh các quốc gia châu Phi do Oliver Tambo dẫn đầu đã nhận xét về những lời chỉ trích Liên Xô từ các nước phương Tây: "Liên bang Xô viết, Cuba, nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã giúp cho nhiều đất nước ở đây tồn tại đến ngày hôm nay, trở thành các quốc gia độc lập. Đó là một "tội ác" chống lại các nước đế quốc. Chúng tôi hiểu điều đó"[104].

Các nước thuộc địa vừa giành được độc lập trở thành khu vực cạnh tranh ảnh hưởng của Liên Xô, Mỹ và Trung Quốc[105][106][107]. Khi các nước hậu thuộc địa đầu tiên bắt đầu xuất hiện ở châu Phi, Trung Đông, châu Á và Mỹ Latinh, Liên Xô đã hỗ trợ vật chất to lớn đối với các quốc gia này. Ai Cập của Gamal Abdel Nasser, Indonesia của Sukarno và Ấn Độ của Jawaharlal Nehru đều được hưởng lợi từ chính sách này. Đến năm 1965, viện trợ của Liên Xô cho các nước mới giành độc lập đã vượt qua 9 tỷ USD, gồm cả hỗ trợ kinh tế lẫn quân sự. Dù không trở thành một phần của hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhà máy thép đầu tiên của Ấn Độ đã được xây dựng như là quà tặng của Liên Xô. Khi Vương quốc Anh, Pháp và Israel xâm lược Ai Cập vào năm 1956, Liên Xô đã hỗ trợ nước này đẩy lui các thế lực thực dân cũ. Nhiều nước châu Phi và Mỹ La tinh cũng được hỗ trợ tương tự. Hàng triệu sinh viên từ các nước nghèo được Liên Xô giáo dục miễn phí về kỹ thuật, nông nghiệp và các ngành khác. Sức mạnh của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa có thể coi là một cực tiến bộ trong hơn 70 năm, không chỉ chống lại các cuộc chiến tranh đế quốc mà còn là nguồn cảm hứng và cơ sở cho chủ nghĩa xã hội và phong trào giải phóng dân tộc.[104]

Tàu vũ trụ con thoi Buran do Liên Xô chế tạo

Với sự trợ giúp của Liên Xô, các quốc gia thuộc khối xã hội chủ nghĩa đã có bước tiến rất nhanh. Từ năm 1950 tới 1984, thu nhập quốc dân và sản lượng công nghiệp Bungari tăng tương ứng là 14 lần và 29 lần; Hungari là 5,1 lần và 9,2 lần; Đông Đức là 7,6 lần và 11 lần; Ba Lan là 5,9 lần và 14 lần; Rumani là 17 lần và 38 lần; Tiệp Khắc là 5,3 lần và 9,4 lần. Để so sánh, trong cùng thời kỳ, các chỉ số của Mỹ tăng tương ứng là 1,8 lần và 2,1 lần; Pháp là 2,7 lần và 2,9 lần; Tây Đức là 3,4 lần và 3,9 lần. Từ năm 1948 tới 1984, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên cũng tăng trưởng rất nhanh với sự hỗ trợ về kỹ thuật của Liên Xô: sản lượng công nghiệp năm 1984 tăng 431 lần so với năm 1946, sản xuất lương thực tăng 5,6 lần, thu nhập bình quân tăng 65 lần, đạt tới 2.400 USD theo thời giá năm 1986. Ở bên kia bán cầu, đất nước Cuba với sự hỗ trợ của Liên Xô cũng đã đạt được những thành tựu lớn về kinh tế [tăng trưởng bình quân 7% trong thập niên 1970, 8% trong nửa đầu thập niên 1980], nền giáo dục và y tế đạt mức tương đương các quốc gia phát triển trên thế giới[108].

Năm 1958, Giáo sư Viktor Zhdanov, Thứ trưởng Bộ Y tế Liên Xô, đã kêu gọi Đại hội đồng Y tế Thế giới thực hiện một chiến dịch toàn cầu để diệt trừ bệnh đậu mùa, và đề nghị được Liên hiệp quốc thông qua năm 1959. Liên Xô đã cung cấp một tỷ rưỡi liều vắc-xin chống đậu mùa cho các nước nghèo từ năm 1958 đến năm 1979, cũng như các nhân viên y tế để giúp đỡ các nước này[109] Bệnh đậu mùa, căn bệnh đã giết hàng trăm triệu người khắp thế giới trong thế kỷ 20, đã được thanh toán vào năm 1979. Cho đến nay, đậu mùa là căn bệnh truyền nhiễm trên người duy nhất mà loài người đã tiêu diệt dứt điểm.

Sự lớn mạnh của Liên Xô trong giai đoạn này đã tạo sức ép cạnh tranh rất lớn đối với các nước phương Tây. Do sức hút từ mô hình phúc lợi xã hội của Liên Xô, trong nội bộ các nước phương Tây nổ ra nhiều phong trào đòi quyền lợi cho người lao động, đòi tăng lương và giảm giờ làm, chống sa thải tùy tiện... Các đảng phái cánh tả tại phương Tây nhận được sự ủng hộ rộng rãi của công chúng nhờ những cương lĩnh cải cách xã hội theo hướng tăng phúc lợi xã hội, giảm bất công và bất bình đẳng, mở rộng dân chủ. Để thu hút cử tri, các đảng phái cánh hữu cũng phải đưa những chính sách tương tự vào chương trình hành động của mình. Điều này dẫn đến việc chính phủ các nước phương Tây dù do cánh hữu hay cánh tả lãnh đạo cũng phải đề ra những biện pháp cải tổ kinh tế, tăng ngân sách an sinh xã hội cho y tế, giáo dục, tăng quyền lợi cho người lao động... để làm dịu đi những mâu thuẫn nội bộ. Trong thập niên 1970, ở một số nước phương Tây như Đức, Thụy Điển, Phần Lan... đã hình thành những kiểu Nhà nước xã hội với mô hình kinh tế thị trường xã hội, các nước này vẫn áp dụng kinh tế thị trường nhưng Nhà nước đề ra các chính sách an sinh xã hội rộng khắp để làm giảm đi những khiếm khuyết và bất công của chủ nghĩa tư bản đồng thời làm giảm sức hấp dẫn của mô hình xã hội chủ nghĩa do Liên Xô tạo ra. Có thể nói rằng: trong cuộc chạy đua với Liên Xô, nhiều nước phương Tây cũng phải tự biến đổi mình, giảm bớt sự bất công xã hội và người lao động đã có quyền lợi tốt hơn so với trước.

Tổng thống Nga Putin nhận định: "mô hình xã hội và ý thức hệ nói chung không tưởng đó, mà nhà nước mới thành lập cố gắng thực hiện lúc đầu sau cách mạng 1917, đã là đầu máy chuyển hóa mạnh mẽ trên toàn thế giới [điều này là rõ ràng và cũng phải thừa nhận], cái mô hình đó đã khiến người ta phải đánh giá lại các mô hình phát triển, tạo ra cạnh tranh và mâu thuẫn, từ đó có lợi ích mà theo tôi phần lớn do phương Tây được hưởng... Nhiều thành tựu phương Tây của thế kỷ XX là phản ứng trước thách thức của Liên Xô. Tôi còn đang nói về việc nâng cao chất lượng sống, hình thành giới trung lưu mạnh, cải tổ thị trường lao động và không gian xã hội, thúc đẩy giáo dục, đảm bảo nhân quyền gồm cả quyền cho người thiểu số và phụ nữ, vượt qua phân biệt chủng tộc mà quý vị nhớ đã từng là hành vi xấu hổ ở nhiều nước kể cả Mỹ, chỉ vài thập niên trước đây."[110]

Nhìn chung, trong thời kỳ này, với tư cách là nhà nước Xã hội chủ nghĩa lớn và hùng mạnh nhất, Liên Xô đã trở thành đối trọng cân bằng với khối Tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu và là nguồn viện trợ chính cho các phong trào giải phóng dân tộc tại các nước Á-Phi-Mỹ latinh. Các phong trào cách mạng tại châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh liên tiếp thành công, nhiều phong trào coi Liên Xô là đồng minh hữu hảo, khiến vị thế quốc tế của Liên Xô tăng lên rất cao, khiến Mỹ và phương Tây lo ngại rằng "làn sóng Đỏ" dường như sắp bao vây họ[111].

Trì trệ [1980– 1985]Sửa đổi

Năm 1964, Hội nghị bất thường của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã bãi nhiệm Bí thư thứ nhất Khrushchov và đưa Leonid Ilyich Brezhnev [Леонид Ильич Брежнев] vào cương vị Bí thư thứ nhất [từ ngày 8 tháng 4 năm 1966 gọi là Tổng Bí thư]. Thời gian từ năm 1965 đến 1985 chủ yếu dưới quyền Brezhnev thường được gọi đơn giản là thời kỳ "trì trệ" mặc dù thật ra "trì trệ" chỉ thực sự diễn ra vào nửa cuối giai đoạn lãnh đạo của Brezhnev [tức là từ năm 1980 trở về sau] và khái niệm này có tính tương đối.

Máy bay hành khách phản lực tốc độ siêu âm Тupolev Тu-144

Thời kỳ này là thời kỳ mà những mâu thuẫn của xã hội Liên Xô đã chín muồi và phát tác gây những hệ quả xấu cho nền kinh tế và đời sống chính trị, xã hội. Trong kinh tế, nền sản xuất duy trì theo phương thức kế hoạch hóa và bao cấp không tạo được kích thích quyền lợi cho các đơn vị sản xuất nên kỷ luật lao động suy giảm, năng suất tăng chậm. Việc trả lương theo mức chỉ tiêu kế hoạch và kế hoạch hóa theo sản lượng đã triệt tiêu động lực của việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật: sản phẩm chế tạo càng nhanh hoàn thành và vượt chỉ tiêu kế hoạch sản lượng thì càng có lợi cho người sản xuất, việc nâng cao chất lượng ít được tính đến, nên hàng hóa của Liên Xô nhanh chóng kém hơn về chất lượng, mẫu mã so với hàng hóa của Tây Âu. Nền kinh tế không được khuyến khích chuyển sang phát triển theo chiều sâu, áp dụng tiến bộ kỹ thuật mà vẫn dựa nhiều vào khai thác ồ ạt các nguồn tài nguyên thiên nhiên nên ô nhiễm môi trường gia tăng. Hàng hóa trong thị trường nội địa bị thừa các sản phẩm khó tiêu thụ đồng thời lại khan hiếm hàng hóa dễ tiêu thụ, làm phát sinh đầu cơ, tích trữ và các loại kinh tế ngầm bất hợp pháp. Liên Xô cố gắng tăng thu nhập quốc dân bằng cách tăng đầu tư nhưng hiệu quả đầu tư ngày càng giảm, năng suất lao động tăng chậm do kỹ thuật sản xuất chậm cải tiến, trong khi đó phương Tây tăng trưởng bằng việc cải tiến công nghệ và phát triển các ngành công nghiệp mới khiến năng suất lao động và hiệu quả đầu tư đều tăng[112]. Liên Xô có trình độ khoa học cơ bản và khả năng nghiên cứu phát triển ra công nghệ mới không thua kém phương Tây nhưng họ thiếu động lực ứng dụng những tiến bộ khoa học - kỹ thuật đó vào nền kinh tế, nên việc ứng dụng công nghệ mới vào nền kinh tế dân dụng của Liên Xô ngày càng chậm so với Hoa Kỳ, Tây Âu và Nhật Bản. Nhiều nhà máy của Liên Xô trong thập niên 80 vẫn sử dụng các loại máy móc có từ những năm 1930. Nguyên soái Liên Xô Nikolai Ogarkov trong cuộc phỏng vấn với một nhà báo người Mỹ vào năm 1982 đã nói rằng "Ở Mỹ, đến cả trẻ con cũng có thể chơi với máy tính. Trong khi đó chúng tôi thậm chí còn không có bất cứ chiếc máy tính nào trong tất cả các văn phòng của Bộ Quốc phòng. Và bạn biết lí do rồi đó, chúng tôi đã không thể làm cho máy tính trở nên phổ biến rộng rãi trong xã hội" [113].

Tâm lý dân chúng trở nên thờ ơ đối với các chính sách của Đảng và chính phủ. Công tác giám sát, kỷ luật cán bộ của Đảng và nhà nước– bộ máy theo chỉ định [Номенклатура] bị buông lỏng khiến tệ tham nhũng gia tăng và làm suy thoái đạo đức xã hội mà như sau này Mikhail Gorbachov đã từng gọi là các vị "cường hào mới" gây bất bình lớn trong xã hội. Trong nội bộ Liên Xô các mâu thuẫn dân tộc càng ngày càng sâu sắc. Tuy được chính quyền kiềm chế nhưng ở nhiều nước Cộng hòa [đặc biệt là ở ba nước cộng hòa Baltic– điểm đầu của sự phân rã Liên Xô sau này], dân địa phương không che giấu thái độ căm ghét người Nga, xuất hiện rất nhiều căng thẳng giữa các nhóm sắc tộc giữa các nước Cộng hòa và trong nội bộ từng nước. Trong nội bộ các nước cộng sản Đông Âu thái độ chống Liên Xô cũng được bộc lộ công khai. Năm 1968 Quân đội Xô viết đã phải can thiệp để ngăn cản Tiệp Khắc thoát khỏi tầm ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản và điều này càng làm gia tăng chủ nghĩa bài Nga trong dân chúng các nước Đông Âu, họ coi sự hiện diện của Liên Xô đã kìm hãm sự phát triển của dân tộc mình. Việc Liên Xô đem quân tiến vào Afghanistan [1979] và sa lầy tại đây lại càng làm nước này bị mất đi nguồn lực cho phát triển đất nước.

Đây là thời kỳ Liên Xô chạy đua vũ trang và chạy đua vũ trụ với cường độ cao và coi ưu thế quân sự và vũ trụ so với Hoa Kỳ như một minh chứng cho tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội và đã có lúc Phương Tây cho rằng Liên Xô đã phá vỡ thế cân bằng chiến lược. Thời kỳ này đối đầu giữa hai phe khá căng thẳng nhưng cả hai bên đều có ý thức kiềm chế trong phạm vi an toàn. Trong thời gian này, Liên Xô còn giúp đỡ các lượng lượng cánh tả trên thế giới chống lại sự can thiệp của phương Tây[114] và viện trợ kinh tế - quân sự cho các nước đồng minh. Việc sử dụng một tỷ lệ lớn ngân sách cho quốc phòng, chinh phục không gian và viện trợ cho các nước đồng minh khiến Liên Xô không thể nhanh chóng cải thiện hệ thống an sinh xã hội, tăng mức sống cho nhân dân, tạo ra gánh nặng rất lớn cho ngân sách của Xô viết và sau này nhiều người Nga cho đó cũng là một trong các nguyên nhân khiến Liên Xô tan rã.

Xe tăng chủ lực T-72 của quân đội Liên Xô trong Lễ kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga vào năm 1983

Trong cuốn sách The Politics of Bad Faith, tác giả David Horowitz đã đưa ra những thống kê cho thấy rằng tiêu chuẩn sống của người dân Liên Xô trong những năm 1980 ngày càng sụt giảm. Tình trạng thiếu hụt hàng tiêu dùng xảy ra thường xuyên bởi Liên Xô hạn chế phát triển công nghiệp nhẹ và tập trung nguồn lực cho các ngành công nghiệp nặng. Đến cuối thập niên 70, chỉ có 1/20 số hộ gia đình tại Liên Xô sở hữu ô tô, trong khi chỉ có 1/7 số hộ gia đình tại thành thị sở hữu điện thoại. Tỉ lệ sở hữu TV ở Liên Xô vào năm 1976 là 223 trên 1000 dân, chưa bằng một nửa so với Hoa Kỳ [571 trên 1000 dân][94] Nhiều nơi ở Liên Xô người dân đã phải đối mặt với tình trạng không có giấy vệ sinh để sử dụng [mặc dù Liên Xô có diện tích rừng lớn nhất trên thế giới]. Cũng theo Horowitz, 1/3 số hộ gia đình ở Liên Xô không có hệ thống cấp nước, 2/3 số hộ gia đình không có hệ thống nước nóng. Hệ thống y tế từng là niềm tự hào của Liên Xô cũng đối mặt với nhiều khó khăn: 1/3 các bệnh viện ở Liên Xô thời kỳ này không có hệ thống cấp nước tự động, trang thiết bị y tế tại nhiều bệnh viện trở nên lỗi thời, tình trạng khan hiếm thuốc men tiếp tục diễn ra. Việc hối lộ các bác sĩ, y tá để có được sự chăm sóc y tế tốt và cả những tiện nghi cơ bản nhất như chăn ở các bệnh viện của Liên Xô đã trở nên phổ biến. Một hệ quả là tuổi thọ trung bình của người dân Liên Xô bị tụt thấp hơn so với các nước có nền kinh tế tư bản phát triển [kém hơn 9 tuổi so với người dân Hoa Kỳ và 12 tuổi so với người dân Nhật Bản] [115]. Có những thời điểm mà các loại thực phẩm phổ biến như sữa, thịt, pho mát, đường, rau quả, bánh mì, khoai tây, và kể cả rượu vodka trở nên khan hiếm, còn xà phòng, bột giặt, và kem đánh răng thì gần như không còn tại các cửa hàng mậu dịch trên cả nước[116]. Tình trạng thiếu hụt nhà ở tại Liên Xô cũng bắt đầu diễn ra, hàng ngàn người vô gia cư ở thủ đô Moscow đã phải sống trong những căn lều dựng tạm hoặc những trạm xe điện [117].

Tình trạng thiếu hụt diễn ra không phải vì quy mô sản xuất của Liên Xô thấp, mà bởi tính cứng nhắc của kinh tế kế hoạch tập trung. Việc kinh tế tăng trưởng nhanh trong suốt 25 năm [1950-1975] khiến nhu cầu tiêu dùng của người dân Liên Xô tăng lên nhanh chóng và ngày càng đa dạng, khiến các kế hoạch kinh tế tập trung không thể tính toán được hết nhu cầu của thị trường dân dụng. Ví dụ, năm 1979, công nghiệp xe hơi Liên Xô đã đạt mức sản lượng 1,32 triệu xe ô-tô và 776.000 xe tải mỗi năm, quy mô đứng thứ 5 thế giới[118], nhưng theo kế hoạch định trước, phần lớn số xe được dùng để phục vụ sản xuất, vận tải công cộng hoặc xuất khẩu ra nước ngoài, số xe bán ra thị trường dân dụng chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Do vậy, nguồn cung ô-tô dân dụng bị thiếu, dù sản lượng chế tạo ô-tô của Liên Xô lớn tới mức đủ để xuất khẩu được hơn 400.000 xe mỗi năm[118] Năm 1976, số xe ô tô riêng ở Hoa Kỳ là 98 triệu, trong khi của Liên Xô chỉ là 5 triệu. Rất nhiều người dân Liên Xô có đủ điều kiện sở hữu ô tô riêng, thế nhưng họ thường phải chờ từ 4-6 năm, thậm chí là tới 10 năm để có thể mua một chiếc xe[94]. Tỷ lệ người sở hữu ô-tô riêng ở Liên Xô năm 1985 là 45 xe/1.000 dân, thấp hơn so với mức của các quốc gia phát triển trong cùng thời kỳ đó[119].

Thời kỳ này Liên Xô tiếp tục lập kế hoạch và triển khai các dự án lớn rất tốn kém, được tuyên truyền rầm rộ và phô trương nhưng sau này thực tế cho thấy hiệu quả kinh tế thấp, nặng về ý nghĩa tuyên truyền hình thức... Tỷ lệ tiết kiệm lớn để đầu tư mở rộng sản xuất đã không thể tạo ra tăng trưởng cao như dưới thời Stalin vì Liên Xô không còn khả năng sử dụng có hiệu quả các nguồn lực mà họ có được. Đây là bằng chứng cho thấy nếu không có áp lực của thị trường và tiến bộ kỹ thuật thì tiết kiệm sẽ bị lãng phí, trong khi sự phát triển của kỹ thuật và nhu cầu của thị trường sẽ dẫn đến tiết kiệm.[120] Cũng chính vì không có động lực kinh tế nên dù đất đai rộng lớn, phì nhiêu nhưng sản xuất nông nghiệp của Liên Xô lại bị sa sút trong thập niên 1970, không đáp ứng đủ nhu cầu xã hội, đến đầu thập niên 1980 thì đã thật sự nóng bỏng. Tài liệu của Ủy ban nghiên cứu Liên Xô và Đông Âu [của chính phủ Mỹ] cho rằng dù tổng GDP cao nhưng mức sống ở Liên Xô vẫn thấp hơn nhiều mức sống ở Mỹ và Tây Âu. Điều này bắt nguồn từ việc chính quyền Liên Xô có truyền thống hạn chế tiêu dùng để tập trung nguồn lực cho công nghiệp nặng, vì thế họ chỉ sử dụng một phần nhỏ hơn nhiều trong tổng thu nhập quốc dân Liên Xô cho tiêu dùng so với phương Tây, do vậy người dân thường bị thiếu hàng tiêu dùng. Người Liên Xô phải dùng đến 2/3 thu nhập của họ cho các nhu cầu cơ bản như thực phẩm và quần áo, điều này giống các nước đang phát triển hơn là các nước phát triển đã công nghiệp hóa.[97] Tuy nhiên, các nhu cầu cơ bản khác là nhà ở, chăm sóc y tế và giáo dục ở Liên Xô thì người dân được cung cấp hoàn toàn miễn phí[121].

Để khắc phục những khó khăn, chính quyền Xô Viết đã có cố gắng cải cách mà điển hình nhất là cố gắng cải cách kinh tế của thủ tướng Aleksei Nikolayevich Kosygin [Алексей Николаевич Косыгин], cải cách đạt một số kết quả tuy chưa xử lý được nguyên nhân gốc rễ gây ra sự trì trệ. Kinh tế Liên Xô không lâm vào suy thoái và vẫn tiếp tục tăng trưởng, nhưng không nhanh như giai đoạn trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1965-1970 là 7,7% mỗi năm, đến giai đoạn 1980-1985 giảm xuống còn 3,6% mỗi năm. Năm 1980, sản lượng công nghiệp của Liên Xô vẫn giữ vững vị trí thứ 2 thế giới và bằng 80% so với Mỹ, sản lượng nông nghiệp vẫn đứng đầu châu Âu[121].

Máy tính do Liên Xô chế tạo, năm 1985

Trong 18 năm [từ 1965 tới 1982], hơn 1,6 tỷ mét vuông nhà ở được Liên Xô xây dựng và cung cấp miễn phí cho hơn 160 triệu người dân. Đồng thời, chi tiêu sinh hoạt trung bình không vượt quá 3% thu nhập của gia đình, bởi các nhu cầu cơ bản là nhà ở, chăm sóc sức khỏe và giáo dục được miễn phí hoặc có giá cả phải chăng[121]. Theo khảo sát được thực hiện tại Nga vào năm 2006, 75% số người từ 36 tới 54 tuổi [những người đã sống vào thời kỳ này] cho rằng giai đoạn 1964-1982 vẫn là một thời kỳ thịnh vượng của đất nước và chỉ có 14% đánh giá tiêu cực về tiêu chuẩn sống trong giai đoạn này[121].

Đến cuối những năm 1980, Liên Xô vẫn duy trì được vị thế siêu cường với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới [chỉ kém Mỹ] với GDP theo sức mua tương đương đạt 2,66 nghìn tỷ USD [năm 1990]. Thu nhập bình quân đầu người của Liên Xô đạt 9.500 USD, đứng thứ 28 thế giới và thuộc nhóm các nước phát triển [của Nhật là 15.600 USD, Mỹ là 21.082 USD, Singapore là 10.300 USD, Hong Kong là 10.000 USD, Đài Loan là 6.000 USD, Hàn Quốc là 4.600 USD[122]].

Tuy vẫn giữ thứ hạng cao, song nền kinh tế Liên Xô đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết so với các nước phương Tây phát triển nhất gồm Mỹ, Nhật và Đức. Vào năm 1984 Bộ trưởng ngoại giao Liên Xô là Eduard Shevardnadze nói với Gorbachov rằng: "Mọi thứ đã trở nên thối rữa. Cần có một sự thay đổi" [123]. Các mâu thuẫn càng ngày càng tích tụ và đến năm 1985 thì Liên Xô cần có một cải cách cơ bản sâu rộng và đó là nguyên nhân để Tổng bí thư Gorbachov tiến hành cải cách cải tổ [perestroika].

Năm 1986, Liên Xô đề ra cải cách mới, tập trung vào trang bị máy móc mới, tự động hóa bằng rô-bốt, công nghệ máy tính, vi xử lý, tăng cường đầu tư cho nông nghiệp và công nghiệp năng lượng. Hầu hết các nhà quan sát tin rằng ít nhất một phần của cải cách sẽ có hiệu quả, tạo động lực phát triển mới và khắc phục những điểm yếu của nền kinh tế[124] Tăng trưởng kinh tế Liên Xô giai đoạn 1986-1990 vẫn đạt mức 1,5% mỗi năm[125] Tuy nhiên những cải cách về mặt chính trị của Gorbachov lại thất bại, dẫn tới phá vỡ cơ cấu nhà nước và sự tan rã của Liên bang Xô Viết.

Cải tổ và tan rãSửa đổi

Bài chi tiết: Liên Xô tan rã
Bài chi tiết: Lịch sử Liên bang Xô viết [1985-1991]
Các nhà lãnh đạo Nga, Ukraina và Bêlarut ký Hiệp định Belavezha, chính thức giải thể Liên Xô năm 1991

Năm 1982, Brezhnev qua đời. Hai người kế nhiệm ông cũng không tại vị được lâu. Yuri Andropov lên nắm quyền vào năm 1982 và chết hai năm sau đó. Konstantin Chernenko trở thành Tổng bí thư vào năm 1984 và qua đời chỉ sau đó một năm. Năm 1985 Mikhail Sergeyevich Gorbachev được bầu làm Tổng bí thư mới. Gorbachev và những người cùng chí hướng với ông như Aleksandr Nikolayevich Yakovlev bắt đầu tiến hành chính sách cải tổ [perestroika– Перестройка] và công khai hóa [glasnost– Гласность] để thúc đẩy các tiềm năng chưa được khai thác của xã hội. Cải tổ tìm cách nới lỏng sự kiểm soát tập trung của Đảng và nhà nước trong một số lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, tự do hóa ngôn luận, bầu cử cạnh tranh và tiến đến loại bỏ sự can thiệp của các cơ cấu đảng vào kinh tế và một số mặt của đời sống chính trị xã hội. Theo Gorbachev hồi tưởng - trích dẫn bởi Sputnik - "Niềm tin sâu sắc của tôi nằm ở con đường dẫn đến chủ quyền chính trị của các nước cộng hòa, đưa đến sự độc lập kinh tế, giữ gìn bản sắc của họ, cũng như phát triển văn hóa thông qua cải tổ liên bang, chuyển đổi thành một nhà nước liên bang dân chủ, thực chất, hiệu quả, mà các nước cộng hòa được ủy quyền"[126]. Nhưng những nỗ lực cải cách đã không thu được kết quả như mong đợi. Sự tích cực của dân chúng dâng cao nhưng lại đi chệch hướng, khiến khủng hoảng chính trị trở nên sâu sắc: các tổ chức phi chính phủ, các nhóm dân tộc chủ nghĩa xuất hiện ngày càng nhiều và ngày càng có xu hướng chống chính quyền trung ương, đòi ly khai độc lập.

Tốc độ và quy mô của các sự kiện làm những người chủ xướng cải cách không còn kiểm soát được tình hình. Nền kinh tế chưa có chuyển biến đáng kể thì khủng hoảng chính trị đã trở nên trầm trọng: các lực lượng ly khai dần dần nắm các vị trí lãnh đạo của các nước cộng hòa và ra các tuyên bố về đòi ly khai độc lập. Xung đột sắc tộc trở nên phức tạp có đổ máu, thậm chí có nơi chính quyền nước cộng hòa thành viên lại xung đột với các nước cộng hòa lân cận. Mâu thuẫn dân tộc rất lớn trong lòng Liên Xô trước đây được kiềm chế thì nay đã bộc lộ và tiến triển không thể kiểm soát được. Một khi tình hình hỗn loạn thì các mối liên hệ kinh tế giữa các vùng miền và các nước cộng hòa cũng bị gián đoạn làm tình hình kinh tế trở nên sa sút, tình hình xã hội trở nên hỗn loạn. Các đảng viên cộng sản không còn chịu sự kiểm soát và không tuân thủ kỷ luật của Đảng, nhiều người quay sang trở thành các lực lượng dân tộc chủ nghĩa đòi ly khai. Ngay cả cộng hòa Xô viết Nga, nước trụ cột của Liên Xô, cũng ra nghị quyết đặt luật pháp nước cộng hòa Xô viết Nga cao hơn hiến pháp Liên Xô, quyền lực của nhà nước trung ương Liên Xô dần dần bị tan rã.

Trong bối cảnh đó, nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô lại dần bị khống chế bởi những nhân vật do Gorbachev bổ nhiệm. Tháng 4/1989, Gorbachev kêu gọi các ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tuổi đã cao hãy nghỉ hưu. 115 ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tự viết đơn xin nghỉ hưu vì tin rằng đất nước sẽ phát triển hơn với đội ngũ được trẻ hóa. Đây chính là sai lầm của những người cộng sản trung thành với các nguyên tắc Marx-Lenin trong Đảng Cộng sản Liên Xô. Chỉ trong ba năm 1987-1989, đã có 8 ủy viên Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng, hơn 20 bộ trưởng, 92,5% trong 150 bí thư tỉnh ủy đã bị cách chức hoặc thay thế; khoảng 50% cán bộ cơ quan chiến lược trong quân đội, hơn 100 cán bộ chính trị cấp chiến dịch - chiến lược và 30% tướng lĩnh bị cách chức hoặc loại khỏi quân đội với lý do "tư tưởng bảo thủ, không ủng hộ cải tổ", thay thế họ là những phần tử "cấp tiến"[127] Sức kháng cự của những Đảng viên trung thành dần suy yếu và cuối cùng đã tê liệt.

Năm 1988, Gorbachev cử Vadim Bakatin làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ [MVD]. Bakatin đã làm tê liệt Lực lượng Cảnh sát Liên Xô khi biệt phái nhiều sĩ quan sang các cơ quan, tổ chức khác và xóa bỏ mạng lưới đặc tình của lực lượng này. Sau đó, Bakatin đã hủy bỏ chính MVD, khi cho tách lực lượng này thành 15 cơ quan riêng biệt cho các nước Cộng hòa tự trị. Như vậy, về cơ bản Bakatin đã xóa sổ lực lượng cảnh sát của Nhà nước trung ương Liên Xô.

Lính Liên Xô đứng gác bức tường Berlin năm 1989

Những nhân vật ủng hộ Gorbachev cũng được bổ nhiệm tại các cơ quan truyền thông, báo chí, tuyên truyền lớn của Liên Xô. Tháng 7/1985, Gorbachev bổ nhiệm A. Yakovlev làm Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Yakovlev có sự thù hận đặc biệt đối với Cách mạng Tháng Mười và luôn muốn phủ định chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô. Từ 1986 đến 1988, một loạt cán bộ chủ chốt của các tờ báo lớn tại Liên Xô được Yakovlev thay thế bởi những người có tư tưởng giống như Yakovlev, mặt trận báo chí của Đảng Cộng sản Liên Xô dần bị "đánh chiếm". Từ đó, báo chí Liên Xô liên tục gây khuynh đảo dư luận khi ngấm ngầm [rồi sau đó công khai] viết bài chỉ trích lịch sử cách mạng, xét lại lịch sử, trong khi lại tán dương phương Tây. Ảnh hưởng từ báo chí, tư tưởng Đảng viên và nhân dân Liên Xô trở nên dao động dữ dội, ngày càng có nhiều người bi quan về đất nước trong khi lại ảo tưởng về "thiên đường giàu có" ở phương Tây[128] Được sự che đỡ của Yakovlev, truyền thông Liên Xô cũng bắt đầu khai thác các mặt trái về kinh tế xã hội, gồm điều kiện nhà ở xuống cấp, nạn nghiện rượu, sử dụng ma tuý, ô nhiễm, các nhà máy từ thời Stalin đã quá cũ kỹ và tình trạng tham nhũng trong bộ máy Nhà nước, những sai lầm của chính phủ Liên Xô dưới thời Stalin, đây vốn là những điều mà truyền thông chính thức đã cố tình bỏ qua. Hơn nữa, cuộc chiến tranh đang diễn ra tại Afghanistan và việc xử lý kém trong thảm hoạ Chernobyl năm 1986, càng làm xấu đi hình ảnh của chính phủ Xô viết ở thời điểm sự bất mãn đang gia tăng.

Gorbachev cũng khuyến khích đẩy mạnh sự tiếp xúc giữa công dân Liên Xô và thế giới phương Tây, đặc biệt là với Hoa Kỳ. Hạn chế về du lịch, việc kinh doanh và giao lưu văn hoá với nước ngoài được nới lỏng. Chính sách này đã góp phần làm cho chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cá nhân kiểu phương Tây tràn vào Liên Xô dễ dàng, khiến nhiều người dân Liên Xô bị dao động về tư tưởng, ngày càng mất niềm tin vào chủ nghĩa xã hội cũng như Đảng và chính phủ Liên Xô. Hàng hóa phương Tây dần được người dân ưa chuộng hơn là hàng hóa ở trong nước, khiến cho các ngành công nghiệp nhẹ đặc biệt là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng của Liên Xô gặp nhiều khó khăn [129] Lối sống phương Tây được du nhập ồ ạt thông qua phim ảnh, sách báo... đã gây ảnh hưởng ngày càng sâu sắc về tư tưởng, đặc biệt là trong giới trẻ. Chúng đã khiến tâm lý sùng bái phương Tây ngày càng gia tăng, làm suy yếu lý tưởng chính trị và tinh thần phấn đấu vì tập thể của người dân, đồng thời kích động tư tưởng chống lại Đảng và nhà nước Xô viết.[130].

Trong giáo dục, môn triết học Marxist bị báo chí chế nhạo và năm 1989, chính phủ Liên Xô ra lệnh bãi bỏ môn học Chủ nghĩa Marx - Lenin trong trường đại học. Năm 1994, nhà văn Yuri Boldarev khi nhìn lại sự biến chất của báo chí, truyền thông Liên Xô trong thời kỳ này đã nói: "Trong sáu năm, báo chí Liên Xô đã thực hiện được mục tiêu mà quân đội Đức Quốc xã với hàng triệu quân tinh nhuệ nhất cũng không thể thực hiện được khi xâm lược nước ta, đó là đánh đổ Nhà nước Liên Xô. Quân đội Đức có thiết bị kỹ thuật hàng đầu nhưng thiếu một thứ, đó là hàng triệu ấn phẩm mang vi khuẩn hủy diệt tư tưởng của nhân dân Liên Xô"[131].

Tại Hội nghị toàn quốc lần thứ 19 của Đảng Cộng sản Liên Xô [từ 28/6 đến 1/7/1988], Gorbachev đã giải tán 23 ủy ban trực thuộc Trung ương Đảng, như vậy là gần như xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Tháng 7/1990, Gorbachev công khai phê phán nguyên tắc tập trung dân chủ, điều lệ Đảng chính thức xóa bỏ nguyên tắc quan trọng nhất của Đảng mà Vladimir Ilyich Lenin đã lập ra[128].

Bất bình trước những chính sách của Gorbachev, ngày 19 tháng 8 năm 1991, một số nhà lãnh đạo theo đường lối cứng rắn [Chủ tịch Quốc hội Lukyanov, Chủ tịch KGB Kryuchkov, Phó Tổng bí thư Yanaev, Thủ tướng Pavlov] tiến hành đảo chính với mục tiêu chấm dứt sự hỗn loạn do Gorbachev gây ra, bảo toàn sự thống nhất của Liên bang Xô viết, lập Uỷ ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp, đưa quân đội vào thủ đô Moskva để phế bỏ chức vụ của Gorbachev. Thế nhưng phe đảo chính đã thất bại khi không thể giành được sự ủng hộ của quần chúng. Người dân Moscow đã tập trung gần Tòa nhà Quốc hội Liên bang Nga để bày tỏ sự ủng hộ cho Yeltsin và Gorbachev, họ cùng nhau xây các chướng ngại vật xung quanh Tòa nhà Quốc hội để chặn xe tăng của phe đảo chính.[132]. Phe đảo chính đã cố gắng bắt giữ Yeltsin nhưng thất bại, và chính Yeltsin đã huy động người dân tham gia chống lại cuộc đảo chính. Một đơn vị xe tăng rời bỏ hàng ngũ quân đảo chính đến bảo vệ tòa nhà quốc hội. Hơn 200.000 người dân ở thành phố Leningrad đã tổ chức tuần hành để phản đối cuộc đảo chính[133]

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Nikolai Ryzhkov nhận xét rằng các thành viên Ủy ban khẩn cấp đã lập kế hoạch một cách thiếu nghiêm túc: "Tất cả những chuyện đó, có cái gì đó giống như trò chơi của trẻ thơ vậy. Không nghiêm túc... nếu như những người đó suy nghĩ một cách nghiêm túc thì họ đã không hành động như vậy. Họ đưa xe tăng vào, mọi người chắc còn nhớ rất rõ cảnh các cô gái ngồi trên đùi các anh lính tăng và trên tháp pháo. Như thế là thế nào? Tất cả những cái đó thật là gàn dở. Tôi biết là cùng thời gian ấy Elsin đang ở Kazakhstan và đã uống ở đấy kha khá... Nhưng những người ở đấy [dân Kazakhstan] là những con người thông minh và tìm cách đuổi khéo... Như vậy là ông ta đã bay tới [Matxcova], đi đến nhà nghỉ ngoại ô, thế thì bắt ông ta đi, ai ngăn cản anh làm việc đó? Cả một nhóm KGB ngồi trong bụi cây và nhìn Elsin ngất ngưởng đi về nhà ngủ.".[134] Sau 3 ngày, ngày 21 tháng 8 năm 1991, đại đa số quân đội được gửi tới Moskva công khai đứng về phía những người phản đối cuộc đảo chính, ủng hộ Yeltsin, như vậy cuộc đảo chính đã hoàn toàn thất bại. Những người cầm đầu cuộc đảo chính bị bắt giữ. Cuộc đảo chính không đạt được mục tiêu mà càng làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước cộng hòa thành viên và các nhà nước trung ương.

Elsin [người vẫy cờ] chỉ huy cuộc tuần hành của người dân Moscow chống lại cuộc đảo chính của Ủy ban khẩn cấp

Sau đảo chính, ngày 24/8/1991, Gorbachev tự ý tuyên bố giải tán Ban Chấp hành Trung ương Đảng và từ chức Tổng bí thư và tự phong mình là "Tổng thống Liên Xô". Ngày 29/8/1991, Gorbachev ra lệnh giải thể các cơ quan chính trị, chấm dứt các hoạt động Đảng trong quân đội. Hồng quân Liên Xô, thành trì quan trọng nhất bảo vệ nhà nước Xô Viết và Đảng Cộng sản Liên Xô, dù có lực lượng hùng mạnh nhưng đã hoàn toàn bị Gorbachev vô hiệu hóa do không còn công tác chỉ huy chính trị[128].

Không còn phải e ngại sự chống trả của Hồng quân Liên Xô, tổng thống Cộng hòa Xô viết Nga là Boris Yeltsin ra sắc lệnh quốc hữu hóa tất cả các tài sản, trụ sở của Đảng Cộng sản Liên Xô ở Nga. Yeltsin cũng ra sắc lệnh cấm tất cả các hoạt động của Đảng Cộng sản Liên Xô ở Nga [dù bản thân ông ta cũng từng là đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô]. Đầu năm 1991, chính phủ 6 nước cộng hòa thành viên nhỏ [gồm Armenia, Estonia, Georgia, Latvia, Lithuania, và Moldova], chiếm 3,5% dân số Liên Xô, tuyên bố tẩy chay và không tổ chức cuộc trưng cầu dân ý về việc duy trì Liên Xô [tuy nhiên các điểm bỏ phiếu vẫn được chính phủ Trung ương tổ chức, cử tri tại các nước này không bị cấm đi bầu cử nếu muốn và phiếu của họ vẫn được tính, ví dụ như Moldova vẫn có 841.507 cử tri đi bầu và 98,7% ủng hộ duy trì Liên Xô[135]] Sau cuộc đảo chính, ngày 24/8/1991, Gorbachev tự ý tuyên bố giải tán Ban Chấp hành Trung ương Đảng, chính phủ Liên Xô về cơ bản đã tan vỡ từ cuối tháng 8/1991. Tâm lý người dân Liên Xô và các nước cộng hòa thành viên bị khủng hoảng dữ dội khi hệ thống chính trị đầu não của đất nước đã không còn tồn tại. Ngay lập tức trong ngày hôm đó, Xô viết tối cao Ukraine tuyên bố độc lập, đổi tên thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraine. Trong cuộc trưng cầu dân ý tại Ukraine vào đầu tháng 12 năm 1991 với câu hỏi "Bạn có ủng hộ Đạo luật Tuyên ngôn Độc lập của Ukraine không?", 92.3% cử tri đã bỏ phiếu ủng hộ độc lập [kết quả này hoàn toàn trái ngược với kết quả của cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức vào tháng 3 năm đó khi đa số cử tri vẫn ủng hộ duy trì tư cách của Ukraine là một nước cộng hòa thành viên thuộc Liên Xô] [136] Một số nước thành viên khác cũng tổ chức các cuộc trưng cầu dân ý về việc ly khai, kết quả là đa số đều ủng hộ độc lập và tách khỏi Liên Xô [ở Estonia tỉ lệ ủng hộ độc lập là 78,4%, ở Litva là 93%, ở Georgia là 99,5%, ở Latvia là 74,9%, ở Armenia là 99,5%][136] Liên Xô được thành lập dựa trên sự đoàn kết các nước cộng hòa thành viên có chung ý thức hệ là chủ nghĩa cộng sản, khi ý thức hệ này bị lãnh đạo các nước cộng hòa thành viên từ bỏ thì Liên Xô cũng tan rã.

Đến tháng 10, do khủng hoảng chính trị và việc chính phủ trung ương bị giải thể, kinh tế đất nước không còn được điều phối và lâm vào đình đốn. Lương thực thực phẩm khan hiếm trên diện rộng, nhiều nông dân từ chối thanh toán bằng tiền rúp Liên Xô, trong khi tỉ lệ lạm phát đã lên tới hơn 300%, các nhà máy giờ đây không còn đủ khả năng để trả lương cho công nhân, nguồn nhiên liệu dự trữ ở một số nơi thì chỉ đáp ứng 50-80% nhu cầu cho mùa đông đang đến. Ước tính kinh tế Liên Xô đã sụt giảm 20% do cuộc khủng hoảng chính trị năm 1991. Tổng thống Gorbachev kêu gọi sự hỗ trợ từ các nước phương Tây nhưng bị từ chối [137]. Các tổ chức kinh tế- tài chính toàn cầu như IMF và WB cũng tuyên bố rằng nền kinh tế của Liên Xô hiện đã tê liệt và mọi sự giúp đỡ của họ vào thời điểm này là vô ích. Chính phủ Liên Xô đã buộc phải nhận viện trợ lương thực và thuốc men từ Ấn Độ - một nước còn kém phát triển[138].

Ngày 8 tháng 12 tại Minsk, thủ đô của Belarus, lãnh đạo ba nước cộng hòa Nga, Belarus và Ukraina ra tuyên bố ký thỏa thuận thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập [SNG– Содружество Независимых Государств], chấm dứt sự tồn tại của Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết. Ngày 21 tháng 12 tại Alma Alta, thủ đô của Kazakhstan, tất cả các nước cộng hòa trừ ba nước vùng biển Baltic ký tuyên ngôn tôn trọng các tôn chỉ và mục đích của thỏa thuận thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập. Trong lá thư ngày 24 tháng 12 năm 1991, Boris Yeltsin, Tổng thống Liên bang Nga, thông báo cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc rằng vị trí của Liên Xô trong Hội đồng Bảo an và tất cả các cơ quan Liên hợp quốc khác sẽ được Liên bang Nga kế tục.

Vào thời điểm 19 giờ 32 phút ngày 25 tháng 12 năm 1991, lá cờ của Liên Xô trên nóc điện Kremlin bị hạ xuống và thay bằng lá cờ của Liên Bang Nga, tiếng chuông của tháp Đấng cứu thế vang lên, đánh dấu sự kiện Liên bang Xô Viết chính thức chấm dứt tồn tại. Khi Liên bang Xô-viết tan rã, tương ứng với Công ước Viên năm 1983, phân định tỷ lệ lãnh thổ của từng quốc gia trên cơ sở phân tích đóng góp và phần của các nước Cộng hòa được phân chia như sau: Nga có 61,34%, Ukraina - 16,37%, Belarus - 4,13%, Kazakhstan - 3,86%, Uzbekistan - 3,27%, Gruzia - 1,62%, tiếp theo ít dần đến Estonia với 0,62%. Sau này, một số cựu quốc gia cộng hòa Xô viết vẫn giữ quan hệ gần gũi với Nga và đã thành lập những tổ chức đa phương như CIS, Cộng đồng kinh tế Á Âu, Liên bang quốc gia [Union State], Eurasian Customs Union và Eurasian Economic Union để nâng cao kinh tế và hợp tác an ninh.

Ngày 17/3/1991, tại Liên Xô đã có một cuộc trưng cầu dân ý toàn Liên bang về việc có duy trì Liên bang Xô Viết nữa hay không. Tổng cộng 148.574.606 cử tri tại các nước cộng hòa thành viên đã tham gia bỏ phiếu, với kết quả là 113.512.812 phiếu [76%] ủng hộ duy trì Liên Bang Xô Viết. Tại hai nước cộng hòa lớn nhất là Nga và Ukraine, chiếm 70% dân số của Liên Xô, đa số cử tri vẫn ủng hộ duy trì Liên bang. Như vậy, phần lớn người dân Liên Xô vẫn muốn đất nước tồn tại. Nikolai Ivanovich Ryzkov, nguyên Thủ tướng Liên Xô từ năm 1985 đến 1991 cho rằng: "Sự tan rã của Liên Xô không bắt nguồn từ ý nguyện của đa số nhân dân, mà thực chất nó là quyết định của giới lãnh đạo cấp cao Liên Xô: thay vì cải cách mô hình kinh tế thì những nhà lãnh đạo này đã quay sang đập phá hệ thống chính trị, làm suy yếu bộ máy Nhà nước, rồi chính họ tự ý ra quyết định giải tán Nhà nước Liên Xô [dù điều này trái với kết quả trưng cầu dân ý trước đó chỉ vài tháng]"[134]

Theo báo Quân đội nhân dân:"Từ khi dựng nước, Liên Xô đã trải qua rất nhiều khó khăn thử thách và đã vượt qua tất cả: Năm 1917, 35 vạn đảng viên Bolshevik đã lãnh đạo giai cấp công nhân Nga lật đổ ách thống trị của Sa hoàng, cùng nhân dân đánh bại sự can thiệp vũ trang của 14 nước phương Tây để bảo vệ thành công cách mạng. Năm 1941, 5.540.000 đảng viên đã cùng nhân dân chiến thắng quân đội phát xít Đức trong cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, rồi sau đó lãnh đạo công cuộc xây dựng Liên Xô trở thành siêu cường thế giới. Vậy nhưng, năm 1991, Liên Xô lại sụp đổ, không phải do quân đội kẻ thù tấn công, cũng không phải do kinh tế hay khoa học kỹ thuật yếu kém, mà chính là vì các quan chức cấp cao bên trong nội bộ Đảng và Nhà nước Liên Xô"[128].

Nguyên nhânSửa đổi

Quân đội Xô viết rút hoàn toàn khỏi Afghanistan vào năm 1989, sau cuộc chiến không thành công tại quốc gia này

Nguyên nhân sự tan rã Liên Xô được nghiên cứu rất nhiều. Tại Trung Quốc, quốc gia có hệ thống chính trị có nhiều điểm chung với Liên Xô, có lãnh thổ rộng lớn, đa sắc tộc, nhiều ngôn ngữ như Liên Xô và cũng khao khát vươn lên vị trí siêu cường, vấn đề này càng được quan tâm. Năm 2000, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc xác lập việc nghiên cứu nguyên nhân Liên Xô tan rã là đề tài cấp quốc gia. Năm 2006, bộ phim tài liệu 8 tập, dài tổng cộng 5 giờ dựa trên đề tài này được phát hành, rút ra những cảnh báo sâu sắc. Ủy ban Kiểm tra kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc và Ủy ban Chính pháp Trung ương đã yêu cầu tất cả các đơn vị trực thuộc đều phải xem và nghiền ngẫm[139]. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc kết luận rằng: Cùng với việc cảnh giác trước "sức mạnh cứng" thì còn phải song song ngăn chặn "sức mạnh mềm" từ các nước phương Tây nhằm làm phân hóa nội bộ Trung Quốc, ngăn chặn sự suy thoái tư tưởng trong nội bộ Đảng, đề phòng các phương thức mới như chiến tranh tiền tệ, thao túng văn hóa, tổ chức phi chính phủ thâm nhập... Mục tiêu là tránh để Trung Quốc lặp lại bi kịch của Liên Xô[140] Chủ tịch Đặng Tiểu Bình từng nói: Trung Quốc phải biết lấy bài học Liên Xô làm tấm gương soi, biến việc xấu thành việc tốt, vĩnh viễn không quên tổ tông, tổ tông đó chính là chủ nghĩa Marx[141], "chúng ta nói đường lối cơ bản của Đảng phải ổn định suốt 100 năm, muốn nước nhà yên ổn lâu dài, cái thực sự liên quan đến đại cục chính là việc này... chỉ cần có một Bộ Chính trị tốt thì cái loạn nào xuất hiện cũng ngăn chặn được"[142]

Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô, bao gồm cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan:

  • Đường lối cải cách sai lầm: Những cải cách của Gorbachev đã đẩy nhanh sự sụp đổ của Liên Xô hơn là cứu vãn tình hình[143]. Những cải cách nới lỏng quyền kiểm soát đối với người dân và cải cách chính trị và kinh tế lại khiến chính phủ Liên Xô trở nên ngày một yếu đuối và dễ bị tổn thương do họ không còn quyền lực mạnh mẽ như trước đây. Nhiều người Liên Xô đã sử dụng quyền hạn mới của mình để tổ chức phê phán chính phủ và vào năm 1991, những người này đã thành công trong việc khiến chính quyền Liên Xô tan rã. Nhóm cải cách do Mikhail Sergeyevich Gorbachyov đứng đầu đã mắc những sai lầm mới: biến phản biện xã hội thành một quá trình không kiểm soát được, nhiều khi thành một hoạt động bừa bãi, mang tính vô chính phủ.[144] Không còn bị kiểm soát, các lực lượng chống Xô Viết đã tiến hành những hoạt động "diễn biến hòa bình", gây mâu thuẫn giữa các sắc tộc của Liên Xô.[145] Các biện pháp bao gồm: bôi nhọ Chủ nghĩa Mác-Lênin, gây mất lòng tin của người dân vào chính quyền bằng các biện pháp chụp mũ, tạo tin đồn giả.[146]
  • Diễn biến hòa bình của phương Tây: Chính sách của Gorbachev khiến Nhà nước Liên Xô dần mất đi sự kiểm soát với truyền thông, báo chí và giới lý luận. Xuất hiện rất nhiều bài viết xét lại lịch sử, xét lại chủ nghĩa xã hội, phủ nhận vai trò của Cách mạng Tháng Mười trên báo chí mà không bị ngăn chặn và xử lý. Các "tổ chức phi chính phủ" xuất hiện rất nhiều [hơn 30.000 tổ chức vào năm 1987], trong đó nhiều tổ chức nhận tài trợ nước ngoài, vận động ngầm hoặc công khai truyền bá tư tưởng phủ nhận Nhà nước Liên Xô. Nhiều đơn vị xuất bản, phát thanh, truyền hình được phương Tây tài trợ đã quay sang chỉ trích lịch sử cách mạng, khiến tư tưởng chính trị của Đảng viên và nhân dân Liên Xô trở nên dao động dữ dội, lòng tin vào sự nghiệp cách mạng sụt giảm nghiêm trọng[147]
  • Sự tha hóa trong nội bộ Đảng và nhà nước: những năm 1960 và 1970 chứng kiến sự tha hóa của một bộ phận Đảng viên có chức vụ cao trong Đảng Cộng sản. Thời kỳ Lenin và Stalin, kỷ luật Đảng được thi hành nghiêm khắc, tham nhũng bị trừng trị rất nặng nên phần lớn Đảng viên các cấp đều liêm chính. Từ thời Khrushchev, do kỷ luật đảng bị buông lỏng nên một phận đảng viên trở nên tha hóa, họ không còn sợ bị xử phạt nghiêm khắc nên đã tham nhũng để sống xa hoa, gây ra sự bất bình cho người dân Liên Xô. Trong thế hệ trẻ có nhiều người không còn cảm tình với Đảng khi thấy có những đảng viên biến chất, không còn tư cách mẫu mực như dưới thời cha mẹ của họ. Khi Liên Xô rơi vào khủng hoảng trong những năm 1980, những người trẻ tuổi này không muốn đứng lên bảo vệ một nhà nước mà họ không có cảm tình. Ngay cả bộ phận Đảng viên tha hóa này cũng muốn phá bỏ Liên Xô, gạt bỏ những Đảng viên trung kiên và sự ràng buộc của điều lệ Đảng để họ có thể trục lợi được nhiều hơn. Trước khi Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ không lâu đã có một cuộc điều tra xã hội học với câu hỏi: "Đảng Cộng sản Liên Xô đại diện cho ai?". Kết quả là, số người cho rằng Đảng Cộng sản Liên Xô đại diện cho nhân dân chiếm 7%, đại diện cho công nhân chiếm 4%, đại diện cho toàn thể đảng viên chiếm 11%. Trong khi đó, có tới 85% số người được hỏi cho rằng: Đảng Cộng sản Liên Xô đại diện cho quan chức, cán bộ và nhân viên nhà nước". Theo ông Tạ Ngọc Tấn, nhiều phần tử cơ hội, phẩm chất đạo đức kém đã xâm nhập vào hàng ngũ Đảng viên, dùng mưu mẹo vụ lợi để thăng tiến, những Đảng viên thực sự tài năng và đạo đức thì lại bị cản trở phát triển. Goóc-ba-chốp là một nhân vật đặc trưng cho điều đó, khi ông ta lên tới vị trí Tổng Bí thư thì đã quay sang phản bội chế độ.[148]
  • Sức ép từ chiến tranh kinh tế của Phương Tây: Sự lãnh đạo của Ronald Reagan đã dẫn đến sự gia tăng lớn trong chi tiêu quân sự của Mỹ, cũng như nghiên cứu và phát triển nhiều vũ khí mới và tốt hơn. Điều này khiến cho Liên Xô cũng phải gia tăng chi tiêu của họ dành cho quốc phòng trong bối cảnh nền kinh tế đang dần rơi vào tình trạng trì trệ. Hoa Kỳ ủng hộ các phong trào phản kháng ở Đông Âu cùng lực lượng Hồi giáo tại Afghanistan buộc Liên Xô phải đưa quân can thiệp làm tăng chi phí quân sự, đồng thời họ phải tăng viện trợ cho các chính phủ ở đây nhằm duy trì ảnh hưởng tại các nơi này. Reagan không chỉ tấn công Liên Xô bằng chi tiêu quân sự; ông cũng tấn công nền kinh tế của họ. Hoa Kỳ đã phối hợp với Ả Rập Saudi tăng xuất khẩu dầu mỏ sang Châu Âu để đẩy giá dầu xuống và hạn chế sản lượng xuất khẩu của Liên Xô sang phương Tây, bên cạnh đó họ còn hạn chế Liên Xô tiếp cận công nghệ cao của phương Tây[149]. Không có nguồn thu từ dầu mỏ, nền kinh tế Liên Xô bắt đầu lâm vào trì trệ.
  • Các sự kiện trong nước và ngoài nước: cuộc chiến tại Afghanistan của Liên Xô cũng là một yếu tố quan trọng dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô[150]. Hồng quân Liên Xô, đội quân từng đánh bại phát xít Đức trong Thế chiến II, từng dập tắt thành công các cuộc bạo động tại Hungary và Tiệp Khắc, đã sa lầy trong cuộc chiến khốc liệt tại đây. Có tới một triệu binh lính Liên Xô đã tham gia cuộc chiến, với khoảng 14.000 người đã thiệt mạng và hàng ngàn người khác bị thương, đồng thời đã khiến ngân sách Liên Xô hao tổn nhiều cho cuộc chiến này. Đến năm 1986, vụ tai nạn hạt nhân Chernobyl xảy ra cũng khiến Liên Xô bị tổn thất nặng về kinh tế.
  • Chính sách kinh tế cứng nhắc: Nền kinh tế của Liên Xô tập trung quá nhiều vào công nghiệp nặng và công nghiệp quân sự, mà không chú trọng phát triển công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng. Điều này đã dẫn đến sự thiếu hụt hàng hóa tiêu dùng, điều kiện để duy trì mức sống cao. Trong những năm 1960-1970, kinh tế tăng trưởng nhanh, sức mua của người dân Liên Xô tăng mạnh, nhưng công nghiệp nhẹ không tăng đủ nhanh, nên đến thập niên 1980 các mặt hàng tiêu dùng như quần áo hay giày dép bị thiếu nguồn cung, nhiều công dân của Liên Xô có tiền nhưng lại không có hàng để mua. Sự thiếu hụt đã dấy lên những nghi ngờ về tính ưu việt của hệ thống Xô viết, khiến cho nhiều người mất niềm tin vào chính phủ và hi vọng về một sự thay đổi về hệ thống chính trị.
  • Chủ nghĩa dân tộc và phong trào ly khai: Năm 1989, phong trào dân tộc chủ nghĩa ở Đông Âu đã mang lại sự thay đổi chế độ ở Ba Lan và phong trào này nhanh chóng lan sang Tiệp Khắc, Nam Tư và các nhà nước vệ tinh của Liên Xô ở Đông Âu. Điều này đã thúc đẩy các phong trào ly khai ở nhiều nước Cộng hòa thuộc Liên Xô, đặc biệt là ở Ukraina, Belarus và các nước vùng Baltic. Khi các nước Cộng hòa Xô viết này tuyên bố độc lập và tách khỏi Liên Xô, quyền lực của nhà nước trung ương bị suy yếu nghiêm trọng và đến năm 1991, Liên Xô bị giải thể.


Ngày 17/3/1991, tại Liên Xô đã có một cuộc trưng cầu dân ý toàn Liên bang về việc có nên duy trì Liên bang Xô Viết nữa hay không. Trong số 148.574.606 cử tri tham gia bỏ phiếu, đã có 113.512.812 phiếu [76%] ủng hộ duy trì Liên Bang Xô Viết. Như vậy, ý nguyện của phần lớn người dân Liên Xô là vẫn muốn đất nước tồn tại. Nguyên nhân sự tan rã của Liên Xô không bắt nguồn từ ý nguyện của đa số nhân dân, mà thực chất đó là hậu quả do giới lãnh đạo cấp cao Liên Xô tự gây nên: họ đã tự phá hủy hệ thống chính trị, làm suy yếu bộ máy Nhà nước, rồi sau đó tự ý ra quyết định giải tán Nhà nước Liên Xô [dù điều này trái với kết quả trưng cầu dân ý trước đó chỉ vài tháng].[134]

Tháng 5/1993, Gorbachev thăm Pháp đã trả lời phỏng vấn báo "Le Figaro" về khả năng "hỗ trợ bên ngoài" trong việc xóa bỏ chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô, Gorbachev lần đầu tiên công nhận rằng trong cuộc gặp với Tổng thống Mỹ Ronald Reagan tại Reykjavik, ông đã "trao Liên Xô vào tay Mỹ" [trong hồi ký của mình, Reagan nói rằng ông ta đã bị sốc vì vui mừng khi biết một bộ phận trong giới chính trị cấp cao Liên Xô lại có tư tưởng chống Cộng]. Sau này, năm 1999, tại trường đại học Mỹ ở Thổ Nhĩ Kỳ, Gorbachev tự thú nhận: "Mục tiêu của toàn bộ đời tôi là tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản. Chính vì để đạt được mục tiêu này tôi đã sử dụng địa vị của mình trong Đảng và trong Nhà nước... Và để đạt được nó, tôi đã phải thay đổi toàn bộ Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Liên Xô và Xô viết Tối cao cũng như Ban lãnh đạo ở tất cả các nước Cộng hoà. Tôi đã tìm kiếm những người ủng hộ để hiện thực hoá mục tiêu đó, trong số này đặc biệt có A. Yakovlev, Shevardnadze..."[151].

Tuy nhiên, một số người khác cho rằng Gorbachev là một chính khách yếu kém nên các chính sách của ông ta mới dẫn tới sự tan rã của Liên Xô. Nikolai Ryzhkov nhận xét "Nhưng dù không kính trọng Gorbachev, tôi vẫn phải nói lại là ông ta không muốn làm tan rã đất nước, không muốn. Chỉ đơn giản là bằng những hành động ngu ngốc của mình, ông ta đã đưa đất nước đến thảm cảnh đó... Sai lầm của Gorbachev là: bao giờ cũng bắt đầu từ kinh tế, không quan tâm gì đến vấn đề Đảng và Nhà nước.". Còn Lý Quang Diệu cho rằng "Cái ngày ông Gorbachev nói với quần chúng tại Moskva: không việc gì phải sợ KGB, tôi đã hít một hơi thật sâu. Tôi nghĩ con người này là một thiên tài thật sự... Cho tới khi tôi gặp ông ấy và tôi thấy ông ấy hoàn toàn lúng túng trước những gì đang xảy ra quanh mình. Ông ấy đã nhảy xuống phần rất sâu của bể nước mà không hề biết cách bơi.". Lý Quang Diệu nhận xét Gorbachev kém xa Đặng Tiểu Bình, người đã cải cách dần dần mà không hề làm Trung Quốc tan rã.[152] Đến năm 2016, trả lời phỏng vấn của đài BBC, Gorbachev cho rằng "Những gì xảy ra cho Liên Xô là tấn kịch đời tôi. Và là tấn bi kịch cho mọi người sống ở Liên Xô". Ông cho rằng các các lãnh đạo Cộng hòa Xô viết Nga, Belorussia và Ukraina, những người đã ký văn bản giải thể Liên Xô đã "Phản bội ngay sau lưng tôi... Họ đốt cả ngôi nhà chỉ để châm điếu thuốc. Chỉ để có quyền lực... Họ không thể làm thông qua biện pháp dân chủ [vì trưng cầu dân ý cho thấy 76% cử tri vẫn ủng hộ duy trì Liên Xô]. Thế là họ phạm tội. Đó là đảo chính." và quyết định từ chức Tổng thống Liên Xô là vì "Chúng tôi đang đi tới nội chiến và tôi muốn tránh nó. Tôi không thể để điều đó xảy ra chỉ để bám níu quyền lực. Từ chức là thắng lợi của tôi.".[153]

Theo Leon Aron, việc Liên Xô tan rã là một điều rất bất ngờ, ngay cả với đa số nhà nghiên cứu về Liên Xô thời kỳ ấy. "Nhiều người cho rằng Liên Xô tan rã là do tình trạng kinh tế yếu kém, nhưng sự thực không phải như vậy". Vào năm 1985, Liên Xô vẫn có nguồn lực kinh tế, khoa học và nhân sự rất mạnh mẽ. Tình trạng thiếu hụt hàng tiêu dùng có diễn ra, điều kiện sống của người dân Liên Xô thấp hơn so với hầu hết các nước Đông Âu và chắc chắn không bằng so với các nước phát triển ở Phương Tây, nhưng vẫn ổn định và tốt hơn nhiều các nước đang phát triển, và Liên Xô đã từng trải qua nhiều giai đoạn gian khó hơn nhiều mà vẫn vượt qua được. Từ năm 1981 đến năm 1990, mức tăng trưởng GDP của Liên Xô, mặc dù có chậm lại, nhưng vẫn đạt 1,9% một năm, tốc độ này không chậm hơn so với nhiều nước phát triển cùng thời kỳ. Thâm hụt ngân sách vẫn ở dưới mức 9% GDP cho đến hết năm 1989, tỷ lệ mà hầu hết các nhà kinh tế cho là hoàn toàn có thể khắc phục được. Mức thu nhập của người dân Xô viết vẫn tiếp tục gia tăng trong 5 năm 1985-1990, ở mức độ trung bình trên 7% mỗi năm. Chi phí cho cuộc chiến ở Afganistan là khoảng 4 - 5 tỷ đôla [thời giá năm 1985], không đáng kể khi so với GDP của Liên Xô[154]. Nguyên nhân cốt lõi của việc Liên Xô tan rã, theo Leon Aron, chính là từ trên xuống: những chính sách phá vỡ nguyên tắc Xô Viết, vừa liều lĩnh lại vừa bạc nhược của Gorbachev; sự chia rẽ nhân tâm được kích động bởi những bài viết của các nhà văn, nhà báo chống Nhà nước Liên Xô mà không bị ngăn chặn..

Sau này, Tổng thống Nga Vladimir Putin cho biết ông phản đối sự tan rã của Liên Xô. Ông cho rằng lẽ ra Liên bang Xô Viết đã không bị sụp đổ, nếu như Đảng Cộng sản Liên Xô tiến hành cải cách đúng hướng và không "thả cửa" cho những tư tưởng phá hoại đất nước của giới báo chí biến chất cũng như các phần tử cơ hội trong nội bộ Đảng.[155]. Mặc dù vậy, bản thân Putin không có ý định đưa mô hình Nhà nước Liên Xô quay trở lại nước Nga bởi nó không phù hợp với bối cảnh hiện nay "Bất cứ ai không cảm thấy tiếc nuối vì sự sụp đổ của Liên Xô là kẻ không có trái tim. Bất cứ ai muốn khôi phục nó thì là kẻ không có não"[156]. Khi nhận được câu hỏi về sự kiện nào trong lịch sử Nga mà ông muốn thay đổi nhất, Tổng thống Putin đáp ngắn gọn rằng: "Sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết"[157].

Hậu quả sau khi tan rãSửa đổi

Sau khi Liên Xô tan rã, lớp Đảng viên trung thành với chủ nghĩa cộng sản trong Đảng Cộng sản Liên Xô vừa căm phẫn cực độ, vừa bất lực. Tổng Tham mưu trưởng quân đội, Anh hùng Liên Xô, nguyên soái Sergei Fyodorovich Akhromeev đã tự sát bằng khẩu súng ngắn từng theo ông suốt cuộc đời. Trong bức thư tuyệt mệnh, ông để lại sự phẫn nộ và than thở: "Tất cả những gì tôi phấn đấu cho Đảng đều đã tiêu tan... Tôi không thể sống khi tổ quốc của tôi bị hủy hoại và mọi thứ mà tôi coi là ý nghĩa nhất trong cuộc đời mình bị phá hủy"[158].

Ngược lại, bộ phận cựu Đảng viên chống chủ nghĩa cộng sản nay đã đạt được mục đích. Họ giành rất nhiều đặc quyền đặc lợi trong chính phủ mới: 75% số quan chức bên cạnh tân tổng thống, 57,1% cán bộ trong những chính đảng mới và 73,4% quan chức của chính phủ mới ở Nga là cựu Đảng viên. Họ lợi dụng sự hỗn loạn về thương mại hoá, thị trường hoá để trực tiếp chiếm đoạt tài sản nhà nước thành tài sản riêng.[159]. Sau khi Liên Xô tan rã, theo "liệu pháp sốc" do người Mỹ tư vấn, chính phủ Nga tiến hành cưỡng chế tư hữu hóa trong lĩnh vực kinh tế[134][160]. Hồi thập niên 1980, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Nikolai Ryzhkov khi thảo luận về kế hoạch chuyển đổi nền kinh tế Liên Xô sang cơ chế thị trường đã từng cảnh báo "Các đồng chí sẽ phá nát đất nước này mất, nước ta tuyệt đối chưa sẵn sàng [cho những bước đi như vậy]! Các đồng chí hãy tưởng tượng xem, ví dụ suốt cả cuộc đời tôi, có ai đó luôn bảo tôi cần phải làm cái gì và đột nhiên tất cả bỏ hết và và nói: tự xoay xở lấy! Và để mà có thể tự xoay xở được, ít nhất cũng phải mất có 1 đến 2 năm mò mẫm! Chúng ta hãy thực hiện một giai đoạn chuyển đổi nào đó. Cụ thể là trước mắt giao cho các nhà máy 50% công việc bằng các đơn đặt hàng nhà nước, còn 50% còn lại các nhà máy tự tìm đơn đặt hàng. Ít nhất, họ cũng có cái gì để mà làm việc chứ."[134]. Nền kinh tế - chính trị thời hậu Liên Xô hoàn toàn chưa chuẩn bị gì cho giai đoạn quá độ và "liệu pháp sốc" cuối cùng đem lại vô số hậu quả bi kịch: các công ty quốc doanh bị bán cho tư nhân với mức giá rất rẻ mạt [ví dụ như Zil, hãng sản xuất xe tải rất lớn với 100.000 công nhân, lại được bán với giá chỉ 16 triệu USD]. Các trùm tài phiệt nhanh chóng thâu tóm nền kinh tế và lũng đoạn chính trường Nga.[161] Kết quả rất nhanh là đưa đến một nền kinh tế tiêu điều và suy thoái nghiêm trọng. Đất nước nghèo đi nhanh chóng, hệ thống an sinh xã hội suy yếu, xã hội rơi vào hỗn loạn, phạm tội xảy ra tràn lan, phân hóa giàu nghèo tăng mạnh. Hàng chục vạn nhà khoa học và lao động có trình độ cao di cư sang phương Tây[162].

Theo tài liệu của Bộ Nội vụ Nga, lúc đó toàn quốc xuất hiện hơn 8.000 băng nhóm tội phạm có tổ chức cỡ lớn. Trong Thông điệp tình hình đất nước năm 1996, Boris Yeltsin thừa nhận: "Nước Nga hiện nay đã vượt Italia, trở thành vương quốc băng đảng mafia lớn nhất thế giới". Số vụ giết người tăng nhanh, từ 14.300 vụ [năm 1990] tăng lên 29.800 vụ vào năm 2001. Bình quân cứ 100.000 dân thì có 1000 người phạm tội, tỷ lệ này ở mức cao nhất thế giới[163]. Nạn buôn người để phục vụ cho công nghiệp tình dục và các ngành công nghiệp khác phát triển tại nước Nga sau khi Liên Xô sụp đổ là điều chưa từng có dưới thời Xô Viết[164].

GDP bình quân đầu người của Nga sụt giảm liên tục trong thập niên 1990, tới năm 2005 mới khôi phục lại mức của năm 1990, sau đó tăng trưởng mạnh [Nguồn: Ngân hàng Thế giới]

Từ năm 1991 đến năm 1999, tổng giá trị sản xuất trong nước [GDP] của Nga giảm xuống 52% so năm 1990 [trong khi đó vào thời kỳ chiến tranh từ năm 1941 đến năm 1945 chỉ giảm 22%]. Theo Ngân hàng Thế giới, GDP danh nghĩa bình quân đầu người của Nga đã giảm từ 3.429 USD/người năm 1989 xuống còn 1.331 USD/người vào năm 1999, nghĩa là chỉ còn 38,8% so với khi Liên Xô còn tồn tại[165]. Mức suy thoái của Nga trong giai đoạn này thậm chí còn dài hơn và lớn hơn so với mức suy thoái của Mỹ trong thời kỳ Đại khủng hoảng [kéo dài 4 năm và chỉ sụt giảm ở mức 27%][166]. Sản xuất công nghiệp giảm 64,5%, sản xuất nông nghiệp giảm 60,4%. Vật giá tăng cao hơn 5.000 lần.

Số nhân công kỹ thuật ở Nga đã giảm từ 2,5 triệu xuống còn 800.000 trong giai đoạn 1991-2001, rất nhiều nhân tài khoa học đã bỏ ra nước ngoài. Chảy máu chất xám rất nặng nề, nghiên cứu khoa học kỹ thuật cũng bị đình trệ[167]

Hệ thống y tế miễn phí và rộng khắp của Liên Xô bị hủy bỏ, hàng loạt bệnh viện công bị tư hữu hóa. Viện phí theo đó tăng chóng mặt, nhiều người dân không có đủ tiền đi chữa bệnh [điều chưa từng xảy ra dưới thời Liên Xô], tỷ lệ tử vong do bệnh tật cũng tăng lên. Từ năm 1992 trở đi, dân số nước Nga luôn có xu thế giảm. Tuổi thọ bình quân của người Nga năm 1990 là 69,2 tuổi, đến năm 2001 sụt còn 65,3 tuổi. Thậm chí, tuổi thọ bình quân của nam giới ở một số vùng giảm xuống chỉ còn 50 tuổi. Dân số Nga đã giảm từ 147 triệu [1990] xuống còn 145 triệu vào năm 2002[167]

Dưới thể chế đa đảng, hệ thống nhà nước yếu ớt và việc thiếu vắng một lý tưởng đoàn kết xã hội, tinh thần dân tộc chủ nghĩa ở các nước cộng hòa cũ thuộc Liên Xô đã không ngừng dâng cao, khuynh hướng ly khai, dân tộc hẹp hòi ngày càng trở nên trầm trọng. Thập niên 1990, hàng loạt các cuộc chiến tranh ly khai nổ ra tại các nước thành viên thuộc Liên Xô cũ, khiến hàng trăm ngàn người thiệt mạng.

Quan niệm đạo đức - tinh thần trong xã hội cũng trở nên hỗn loạn, luân lý xã hội và năng lực phân định đúng - sai biến mất, nền tảng đạo đức khủng hoảng toàn diện. Các giá trị đạo đức cũ mất hiệu lực, bị thực tế cuộc sống phủ định trong khi các giá trị đạo đức mới chưa hình thành. Một số phương tiện truyền thông tư nhân chỉ biết tập trung truyền bá các giá trị quan phương Tây, thực chất là khuyến khích người dân khéo léo vơ vét và theo đuổi lợi ích cá nhân, đặt đồng tiền lên trên hết, từ đó mất đi phẩm chất chính trực, yêu lao động vốn có của người dân Xô Viết.[168]

Tại Nga và các nước Đông Âu, tầm ảnh hưởng của các Đảng cộng sản xuống thấp. Trong cuộc bầu cử Duma Quốc gia Nga năm 2016, Đảng Cộng sản Nga đạt được 13.4% tổng số phiếu bầu, qua đó giành được 42 ghế, đứng thứ 2 toàn quốc nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với Đảng nước Nga thống nhất[169].

Sự sụp đổ của Liên Xô sau này được tổng thống Nga Putin gọi là "thảm họa địa chính trị tồi tệ nhất thế kỷ XX. Đối với nước Nga, nó đã trở thành một bi kịch thực sự. Hàng triệu công dân và những người yêu nước của chúng ta bỗng nhiên thấy họ đang sống bên ngoài lãnh thổ Nga.". Ông cho rằng "Hậu quả sụp đổ còn tồi tệ hơn nhiều so với những gì mọi người nghĩ và những gì họ có thể nghi ngờ ngay cả trong những giấc mơ tồi tệ nhất của mình"[170]. Cựu Thủ tướng Nga Evgeny Primakov cho rằng: "Cái giá của sự sụp đổ Liên Xô là rất khủng khiếp, nền kinh tế Nga tổn thất còn nhiều hơn Chiến tranh thế giới thứ hai. Sẽ là điên rồ nếu nói rằng đất nước này được hưởng lợi từ những năm 1990."[171]

Đảng Cộng sản Liên Xô biến mất, Liên Xô tan rã đã mang lại hậu quả tai hại cho nhân dân Liên Xô. Rất nhiều học giả Nga cũng rút ra kết luận rằng, Liên Xô tan rã làm cho phát triển kinh tế - xã hội tại Nga thụt lùi mấy chục năm[172]. Viện sỹ khoa học xã hội Dobrinkov nhận xét vào năm 2003 rằng: "Trên thực tế, cái gọi là cải tổ khiến kinh tế nước Nga thụt lùi 20-30 năm, một số tổn thất tinh thần thì không thể nào đo đếm được"[163] Ngay cả nhà văn chống Xô viết là Maksimov, trước khi qua đời vào năm 1994 cũng cảm thấy ân hận về việc xóa bỏ Liên Xô: "Tôi chưa bao giờ nghĩ mình lại cảm thấy đau lòng như vậy... Tổ quốc của mình bị giày xéo thành như vậy, cứ như giương mắt mà nhìn mẹ mình bị hãm hiếp vậy. Không còn gì đau lòng hơn thế"[168]. Cựu Tổng thống Ukraina Leonid Kravchuk, một trong ba nhân vật hàng đầu tham gia ký kết hiệp định giải thể Liên Xô sau này đã nói: "Nếu như năm 1991, tôi biết được đất nước sẽ phát triển đến như cục diện như ngày hôm nay thì khi đó tôi đã nhất quyết chặt đứt cánh tay mình chứ không ký vào Hiệp định đó[173].

Phải đến khi Tổng thống Nga Vladimir Putin [một cựu sỹ quan tình báo Liên Xô] lên nắm quyền năm 2000, nước Nga mới dần khôi phục, đến năm 2005 thì GDP đầu người của Nga cuối cùng cũng đã trở lại mức của năm 1990. Nếu tính GDP đầu người của Nga theo sức mua của năm 2010 thì đến năm 2007, GDP đầu người của Nga đã về lại mức năm 1989 và sau đó tiếp tục tăng trưởng[174]. Tới năm 2010, người Nga đã đạt mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn dưới thời Liên Xô. Số người ủng hộ việc khôi phục Nhà nước Liên Xô với hệ thống chính trị giữ nguyên như trước kia đã giảm dần, theo một khảo sát năm 2016 chỉ có 12% số người được hỏi ủng hộ việc khôi phục nguyên trạng nhà nước Liên Xô, tuy nhiên 46% ủng hộ việc đoàn kết các nước cộng hòa Xô viết cũ trong một liên minh mới tương tự như Liên minh châu Âu.[175].

Theo cuộc khảo sát của Sputnik Mneniya tại 9 nước trong số 11 quốc gia thuộc Liên Xô cũ vào năm 2016, phần lớn cư dân trên 35 tuổi [những người đã trải qua cuộc sống dưới thời Liên Xô] cho rằng cuộc sống ở Liên Xô tốt hơn so với thời kỳ sau khi đất nước tan rã. Ở Nga, 64% số người đã trải qua thời kỳ Liên Xô đánh giá rằng chất lượng cuộc sống thời đó cao hơn. Ở Ukraina, đồng ý với tuyên bố này có 60% số người trả lời, còn tỷ lệ cao nhất là ở Armenia [71%] và Azerbaijan [69%][176] Trong một cuộc thăm dò do Trung tâm Levada tổ chức vào tháng 4/2016, 56% người được hỏi cho biết họ mong muốn Liên Xô vẫn tồn tại. Một điều tra của Trung tâm Công luận Toàn Nga [VTsIOM] cho thấy 64% người Nga sẽ bỏ phiếu cho việc gìn giữ Liên Xô nếu như tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý vào năm 1991.[177] Trong cuộc khảo sát của Trung tâm Levada năm 2016, 53% số người được hỏi nuối tiếc vì sự sụp đổ của hệ thống kinh tế kế hoạch hóa, 43% nuối tiếc cảm giác được sống trong một siêu cường[175].

Khảo sát của hai cơ quan điều tra dư luận ở Nga cho thấy: đa số người dân Liên Xô cũng không muốn đất nước Liên Xô tan rã. Cuối năm 2005, kết quả một cuộc điều tra dư luận của hai cơ quan độc lập nổi tiếng ở Nga cho thấy: 66% người Nga ngày nay cảm thấy nuối tiếc cho sự sụp đổ của Liên Xô; 76% số người cho rằng Liên Xô có rất nhiều điểm đáng để tự hào. 72% và 80% số người được hỏi lần lượt cho rằng Gorbachev và Yeltsin đã đẩy đất nước vào con đường sai lầm; chỉ có 1% số người được hỏi mong muốn sống dưới thời Yeltsin.[173], 60% người Nga tin rằng: sự sụp đổ của Liên Xô gây nhiều tác hại nhiều hơn là lợi ích. Trong cơn đại hồng thủy đó, nhiều nước cộng hòa hậu Xô viết đã rơi vào bạo lực sắc tộc sau khi có được độc lập, khiến cả trăm ngàn người thiệt mạng.

Một cuộc thăm dò đã được tiến hành trong năm 2016 cho thấy có 35% người Ukraina nuối tiếc về sự sụp đổ của Liên Xô, 50% không nuối tiếc và 15% thấy phân vân. Trong số này, người miền Đông Ukraina [đa số là người gốc Nga] có tỷ lệ tiếc nuối cao gấp đôi so với người miền Tây [muốn Ukraina gia nhập EU và NATO]. Những người già từng sống trong thời kỳ đó, hoặc người đang thất nghiệp có tỷ lệ tiếc nuối cao hơn[178].

Năm 1991, Tổng thống Hoa Kỳ George H.W. Bush đã bày tỏ cảm xúc sung sướng của mình nhân sự kiện Liên Xô sụp đổ: "Sự kiện vĩ đại nhất từng diễn ra trên thế giới trong suốt cuộc đời của tôi, trong toàn bộ cuộc đời của mỗi chúng ta, chính là sự kiện này đây: Nhờ vào ân sủng của Thiên Chúa, nước Mỹ đã chiến thắng cuộc Chiến tranh Lạnh" [179]. Với việc Liên Xô sụp đổ, Hoa Kỳ trở thành siêu cường duy nhất còn tồn tại trên thế giới.

Theo sử gia Geoffrey Roberts, trên bình diện thế giới, sự sụp đổ của Liên Xô khiến phương Tây không còn một đối trọng đủ mạnh mẽ, thế giới ngày nay vẫn còn xa mới có thể gọi là an toàn.[180] Theo tiến sĩ Marcus Papadopoulos, một chuyên gia về Nga, việc Liên Xô sụp đổ khiến cho sự can thiệp của Mỹ và phương Tây vào công việc nội bộ của các nước tăng mạnh, với các vi phạm luật pháp quốc tế ở mức độ chưa từng thấy. Nếu Liên Xô còn tồn tại thì những cuộc chiến tranh của phương Tây tấn công Nam Tư, Iraq, Libya, Syria... sự trỗi dậy của chủ nghĩa khủng bố và Hồi giáo cực đoan sẽ không bao giờ xảy ra[181].

Tại sao Liên Xô tan rã?

08/11/2013
Share
Facebook
Email
Print
Viber
Pinterest
Linkedin

Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX là một sự kiện đặc biệt quan trọng của thế giới, là một tổn thất hết sức to lớn của những người cộng sản trong quá trình hiện thực hóa học thuyết Mác – Lênin. Sự tan rã của Liên bang Xô viết vào cuối 1991 đã làm thay đổi căn bản cục diện chính trị thế giới.

Trong giai đoạn 1918 – 1920, nước Nga Xô viết nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc và bị bọn Bạch vệ [được sự hậu thuẫn của nước ngoài] tấn công từ bốn phía. Trong giai đoạn đặc biệt khó khăn này, nước Nga Xô viết non trẻ lâm vào thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Dưới sự lãnh đạo của Lênin và Đảng Bonsevich, nước Nga Xô viết đã vượt qua thách thức hiểm nghèo để tiếp tục phát triển.

Cuộc duyệt binh của các chiến sĩ Hồng quân Liên Xô ở Quảng trường Đỏ.

Sau hơn bảy chục năm tồn tại, phát triển không ngừng, vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước, Liên Xô đã trở thành một cường quốc hàng đầu thế giới. Với sức mạnh to lớn về quân sự, khoa học công nghệ và kinh tế, Liên xô đủ sức đương đầu với hệ thống tư bản thế giới và có khả năng ngăn chặn mọi âm mưu, hoạt động hiếu chiến của chủ nghĩa đế quốc để bảo vệ hòa bình thế giới.

Liên Xô tan rã khi đã đạt đến đỉnh cao. Tại sao?

Nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở liên xô là do đâu? Đã có hàng trăm, thậm chí hàng nghìn bài viết, công trình chuyên khảo và sách lý giải vấn đề này, trong đó các cuốn sách của những người trong cuộc đưa ra lời giải có sức thuyết phục nhất. Nhân kỷ niệm 96 năm Cách mạng tháng Mười Nga [7/11/1917 – 7/11/2013], bài viết này nhằm cung cấp một cái nhìn cận cảnh về sự tan rã của Liên Xô.

Video liên quan

Chủ Đề