Tại sao phải đến 10 11 1991 Trung Quốc mới bình thường hóa quan hệ với Việt Nam

Tại sao phải đến 10 11 1991 Trung Quốc mới bình thường hóa quan hệ với Việt Nam

Ông Bùi Hồng Phúc:"Trong quan hệ với Trung Quốc, vừa đấu tranh vừa hợp tác là tư tưởng chỉ đạo đã có từ lâu". Ảnh: Đức Dương

- Theo ông, có những mốc quan trọng nào trong lịch sử 65 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc?

- Nhìn lại quan hệ Việt Nam – Trung Quốc hiện đại, năm 1950 là mốc quan trọng với việc hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao. Trước thời điểm đó, quan hệ hai bên là giữa các nhà lãnh tụ, mà tiêu biểu là mối thân tình giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai. Đây chính là cơ sở của mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc sau này.

Sau khi cách mạng Trung Quốc thành công, ngày 15/1/1950, Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề nghị thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Đến ngày 18/1/1950, Trung Quốc gửi điện trả lời đồng ý. Trung Quốc là nước đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, cũng là nước đầu tiên cử đại sứ sang ta. Ngày 11/9/1954, ông La Quý Ba là đại sứ nước ngoài đầu tiên trình quốc thư lên Chủ tịch Hồ Chí Minh tại chiến khu Việt Bắc.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Trung Quốc đã hỗ trợ mạnh mẽ cho Việt Nam về cả con người và vật chất. Giai đoạn 1950-1954, Trung Quốc cử các tướng lĩnh như Đại tướng Trần Canh, Thượng tướng Vi Quốc Thanh và rất nhiều cố vấn sang giúp Việt Nam đánh Pháp. Giai đoạn 1965-1975, Trung Quốc cử nhiều đơn vị quân đội sang Việt Nam để giúp bảo vệ hệ thống cầu đường, đảm bảo giao thông vận chuyển vũ khí, quân nhu từ miền bắc vào chiến trường miền nam. Rất nhiều bộ đội Trung Quốc đã hy sinh trên đất nước ta.

Tuy nhiên, lịch sử quan hệ hai nước vẫn tồn tại những mảng tối. Năm 1974, lợi dụng thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ đi vào giai đoạn quyết liệt, Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa. Năm 1979, Trung Quốc gây nên cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc. Đến năm 1988, Trung Quốc lại đưa quân ra chiếm 7 đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Có thể nói giai đoạn 1979-1990, quan hệ hai nước xuống mức thấp nhất từ trước đến nay.

Đến năm 1990, trước sự thay đổi của tình hình thế giới, hai nước đều có nhu cầu bình thường hóa quan hệ. Tháng 11/1991, trong chuyến thăm Bắc Kinh của nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười và cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc đã tuyên bố bình thường hóa quan hệ hai nước.

- Những thành tựu và trở ngại chính của hai nước từ sau bình thường hóa quan hệ đến nay là gì?

- Từ năm 1991 đến nay, quan hệ hai nước đạt được bốn thành tựu lớn, không thể phủ nhận. Thứ nhất, với các chuyến thăm cấp cao của lãnh đạo hai nước, hai bên đã xây dựng được khuôn khổ quan hệ song phương là phương châm 16 chữ, tinh thần 4 tốt và quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện.

Thứ hai, hai nước đã giải quyết được hai trong ba vấn đề biên giới lãnh thổ do lịch sử để lại, gồm ký kết Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc năm 1999 và Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ, Hiệp định Hợp tác nghề cá trên Vịnh Bắc Bộ năm 2000.

Thứ ba, quan hệ kinh tế - thương mại hai nước phát triển nhanh chóng, với kim ngạch thương mại song phương tăng từ mức 37 triệu USD năm 1991 đến mức trên 50 tỷ USD năm 2014.

Thứ tư, quan hệ giao lưu, trao đổi giữa hai đảng, giữa các bộ ngành liên quan và các địa phương vùng biên giới, đã xây dựng được các cơ chế hợp tác rõ ràng, chặt chẽ. Giao lưu nhân dân cũng rất phát triển.

Tuy nhiên, theo tôi quan hệ hai nước vẫn còn tồn tại ba trở ngại chính. Trở ngại thứ nhất là các vấn đề trên Biển Đông (gồm biển và quần đảo). Cái gọi là “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc đã lấn vào vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam theo luật quốc tế. Về vấn đề quần đảo, chúng ta có đầy đủ chứng cứ lịch sử và pháp lý để chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Đây chính là trở ngại lớn nhất hiện nay trong quan hệ hai nước.

Trở ngại thứ hai là sự tin cậy lẫn nhau đang bị xói mòn, dù sau bình thường hóa quan hệ, hai nước đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng lại. Nhưng việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải dương 981 trong vùng biển của ta, đã làm tổn thương đến nhân dân Việt Nam, tác động tiêu cực đến sự tin cậy lẫn nhau mà hai bên vừa qua cố gắng lắm mới đạt được.

Trở ngại thứ ba là nhập siêu của Việt Nam từ thị trường Trung Quốc còn lớn, mà chủ yếu là nguyên vật liệu phụ trợ, linh kiện và máy móc thiết bị. Hướng giải quyết là một mặt phải tự chủ động trong nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất, mặt khác phải đa dạng hóa thị trường cung cấp.

- Vậy theo ông, hướng giải quyết trong vấn đề Biển Đông nên như thế nào?

- Theo tôi, để giải quyết vấn đề này cần tuân thủ ba điều sau. Thứ nhất là duy trì hòa bình, ổn định trên Biển Đông, giải quyết các bất đồng thông qua biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực.

Thứ hai, tuân thủ những thỏa thuận cụ thể giữa hai bên, mà quan trọng nhất là “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc”, cũng như “Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông” (DOC) giữa Trung Quốc và ASEAN.

Thứ ba, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982.

Chúng ta có rất nhiều biện pháp, không loại trừ đấu tranh pháp lý, nhưng cần phải cân nhắc các mặt lợi hại và tính hiệu quả để chọn ra phương pháp tốt nhất.

Đây là cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn phức tạp. Trong quan hệ với Trung Quốc, vừa đấu tranh vừa hợp tác là tư tưởng chỉ đạo đã có từ lâu. Chúng ta không nên vì đấu tranh mà không hợp tác, và cũng không nên vì hợp tác mà không đấu tranh, mà nên kết hợp hai điều này một cách hợp lý.

- Mọi mối quan hệ tốt đều phải dựa trên niềm tin, vậy niềm tin giữa Việt Nam và Trung Quốc cần được cải thiện như thế nào?

- Tôi cho rằng, trước hết là phải xử lý tốt vấn đề trên Biển Đông. Thứ hai là hai nước cần tăng cường các hợp tác thực chất, với các dự án, công trình cụ thể. Thứ ba là quan hệ hai nước cần phải lời nói đi đôi với việc làm, nhất là ba nhận thức chung mà lãnh đạo hai nước đạt được vừa qua. Và cuối cùng là cần tăng cường giao lưu nhân dân hai nước.

Chỉ khi thực hiện tốt những điều trên, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc mới có thể phát triển lành mạnh, ổn định, từ đó tạo nên niềm tin trong nhân dân hai nước.

- Ông dự báo như thế nào về tình hình quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong năm 2015?

- Chúng ta không loại trừ khả năng Trung Quốc có hành động tương tự như vụ giàn khoan Hải Dương 981, nhưng sẽ có những nhân tố tác động như sự kiện 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc và việc hình thành Cộng đồng ASEAN. Một ASEAN gắn kết hơn sẽ có tác động tích cực đến việc duy trì hòa bình, ổn định trên Biển Đông, góp phần ngăn chặn Trung Quốc có các hành động đơn phương tại đây.

Tôi không bi quan về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Tuy trải qua những thăng trầm lịch sử, hữu nghị và hợp tác vẫn là dòng chính trong quan hệ Việt - Trung. Đó là tài sản quý giá của cả hai dân tộc, cần được giữ gìn và phát triển. Những vấn đề còn tồn tại giữa hai bên cần được giải quyết thỏa đáng bằng biện pháp hòa bình thông qua thương lượng, vì đây là mong muốn và lợi ích của nhân dân hai nước.

Đức Dương

Năm 2020 có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ hữu nghị truyền thống Việt Nam-Trung Quốc. Mùa xuân Canh Tý năm nay, cùng với việc chào đón năm mới 2020, nhân dân hai nước Việt Nam-Trung Quốc vui mừng và phấn khởi kỷ niệm 70 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, cùng nhau ôn lại chặng đường 70 mùa xuân của mối quan hệ láng giềng hữu nghị do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Ðông cùng các vị tiền bối cách mạng hai nước dày công xây dựng và vun đắp.

Cách đây vừa tròn 70 năm, ngày 18/1/1950 đã đi vào lịch sử quan hệ Việt Nam-Trung Quốc như một mốc son quan trọng. Sau khi được thành lập không lâu, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là quốc gia đầu tiên trên thế giới thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Trong chặng đường 70 năm phát triển, hai Ðảng, hai nước và nhân dân hai nước đã kề vai sát cánh, dành cho nhau sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn và quý báu, góp phần vào thành công của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước. Ðảng, Nhà nước Việt Nam đánh giá cao và không bao giờ quên điều đó.

70 năm qua, quan hệ Việt - Trung tuy có lúc thăng trầm, nhưng hữu nghị, hợp tác vẫn là dòng chảy chính, tình hữu nghị do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Ðông cùng các thế hệ lãnh đạo hai nước dày công vun đắp đã trở thành tài sản chung quý báu của hai dân tộc, góp phần duy trì xu thế phát triển ổn định quan hệ hữu nghị truyền thống Việt - Trung, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước.

Ðặc biệt, kể từ khi bình thường hóa năm 1991 đến nay, quan hệ Việt Nam-Trung Quốc đã phát triển sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, an ninh, quốc phòng. Giao lưu và tiếp xúc cấp cao được duy trì thường xuyên bằng nhiều hình thức linh hoạt. Qua các chuyến thăm và tiếp xúc, lãnh đạo cấp cao hai Ðảng, hai nước đã đạt nhiều nhận thức chung quan trọng, góp phần củng cố và tăng cường tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp tác toàn diện trên các lĩnh vực, là định hướng chiến lược nền tảng, lâu dài cho sự phát triển lành mạnh, ổn định của quan hệ Việt-Trung. Hai bên đã xác định phát triển quan hệ hai nước theo phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” (năm 1999) và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” (năm 2005). Năm 2008, hai bên nhất trí thiết lập khuôn khổ quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc, khung hợp tác cao nhất, nội hàm sâu rộng nhất trong quan hệ của Việt Nam với các nước trên thế giới. Trung Quốc cũng là quốc gia đầu tiên cùng Việt Nam xây dựng khuôn khổ hợp tác này.

Với sự nỗ lực chung của hai bên, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt-Trung những năm qua duy trì đà phát triển ổn định và đạt được nhiều tiến triển mới. Tính đến nay, Việt Nam và Trung Quốc đã thiết lập được gần 60 cơ chế giao lưu, hợp tác từ trung ương tới địa phương, liên quan gần như tất cả các lĩnh vực, phát huy vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các bộ, ngành, địa phương hai nước. Hợp tác giữa hai Ðảng được đẩy mạnh, góp phần quan trọng vào việc xây dựng quan hệ tin cậy giữa hai nước. Hai bên duy trì trao đổi đoàn và thiết lập cơ chế giao lưu, hợp tác thường xuyên giữa các Ban Ðảng, nhất là trong lĩnh vực đào tạo cán bộ, xây dựng Ðảng…; tổ chức thành công Cơ chế gặp gỡ cấp cao hai Ðảng và Hội thảo lý luận để trao đổi về kinh nghiệm xây dựng Ðảng, quản lý nhà nước, đổi mới, cải cách mở cửa và hội nhập quốc tế; ký kết và triển khai hiệu quả Kế hoạch hợp tác giữa hai Ðảng, Thỏa thuận hợp tác đào tạo cán bộ cấp cao giữa hai Ðảng.

Giao lưu, hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam với Nhân Ðại Trung Quốc, giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Chính hiệp Trung Quốc và giữa các bộ, ngành như ngoại giao, quốc phòng, công an không ngừng được tăng cường. Ðến nay, hai bên đã phối hợp tổ chức thành công 11 kỳ Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương cũng như triển khai tốt hoạt động Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt - Trung, Ðối thoại an ninh chiến lược, Ðối thoại chiến lược quốc phòng; duy trì cử tàu hải quân thăm lẫn nhau, tuần tra chung trên bộ và Vịnh Bắc Bộ, kiểm tra liên hợp nghề cá giữa Cảnh sát biển Việt Nam và Tổng đội Ngư chính Trung Quốc, giao lưu sĩ quan trẻ…

Hợp tác giữa các địa phương Việt Nam với các tỉnh, thành Trung Quốc, nhất là Quảng Tây, Vân Nam, Quảng Ðông… diễn ra sôi động, đạt nhiều thành quả thiết thực. Tính đến nay, đã có gần 50 tỉnh/thành phố của Việt Nam thiết lập quan hệ hợp tác hữu nghị với các tỉnh/thành phố/khu tự trị của Trung Quốc. Các cơ chế, chương trình giao lưu hợp tác giữa địa phương hai nước được tổ chức thường xuyên như: Gặp gỡ đầu xuân giữa Bí thư bốn tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang của Việt Nam với Bí thư Khu ủy khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc và Ủy ban công tác liên hợp giữa bốn tỉnh này với Quảng Tây; Hội nghị kiểm điểm tình hình hợp tác giữa các bộ/ngành, địa phương Việt Nam với tỉnh Quảng Ðông, Trung Quốc; Nhóm công tác liên hợp giữa các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Ðiện Biên và tỉnh Vân Nam, Trung Quốc; Hợp tác Hành lang kinh tế giữa các tỉnh/thành phố Lào Cai, Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh với tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Qua các phiên họp, hai bên đã đi sâu trao đổi về các biện pháp nhằm tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, thúc đẩy hợp tác thực chất trên các lĩnh vực, giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình hợp tác, cùng xây dựng đường biên giới hòa bình, ổn định, hữu nghị, đóng góp cho quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc phát triển ổn định, lành mạnh. Giao lưu, trao đổi giữa các đoàn thể quần chúng ngày càng mở rộng, góp phần tăng cường tin cậy, thúc đẩy hợp tác cùng có lợi, tạo cơ sở vững chắc cho quan hệ hai nước. Hai bên đã phối hợp tổ chức nhiều hoạt động phong phú như Diễn đàn nhân dân, Liên hoan hữu nghị nhân dân, Liên hoan nhân dân biên giới, Gặp gỡ hữu nghị thanh niên, Liên hoan thanh niên...

Quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học-công nghệ, văn hóa, giáo dục, du lịch… phát triển sâu rộng, đi vào thực chất. Tháng 11/2017, hai nước đã ký Bản ghi nhớ hợp tác về kết nối giữa khuôn khổ “Hai hành lang, một vành đai” với sáng kiến “Vành đai và Con đường”. Kể từ năm 2004, Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Ðến nay, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất và thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam, trong khi Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN, đối tác thương mại lớn thứ tám, thị trường xuất khẩu lớn thứ năm và là thị trường nhập khẩu lớn thứ chín của Trung Quốc trên thế giới. Năm 2018, kim ngạch thương mại song phương Việt Nam-Trung Quốc đạt 106,7 tỷ USD, tăng hơn 3.300 lần so năm 1991. Trong 11 tháng đầu năm 2019, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam-Trung Quốc đạt 105,75 tỷ USD, tăng 8,71% so cùng kỳ 2018. Tính đến hết tháng 11/2019, Trung Quốc có 2.739 dự án đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, tổng số vốn 16,1 tỷ USD, đứng thứ 7 trong số 132 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam. Các khoản tín dụng ưu đãi dài hạn và viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Trung Quốc dành cho Việt Nam cũng góp phần quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của nhiều địa phương Việt Nam. Hằng năm có khoảng năm triệu lượt du khách Trung Quốc tới Việt Nam. Hiện nay có khoảng 11.000 học sinh Việt Nam đang học tập tại các trường đại học ở Trung Quốc và khoảng 2.000 học sinh Trung Quốc đang học tập tại Việt Nam.

Thực hiện các thỏa thuận và nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước, các vấn đề tồn tại trong quan hệ hai nước đã từng bước được giải quyết. Hai nước ký Hiệp ước biên giới trên đất liền (năm 1999), Hiệp định phân định và Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ (năm 2000), hoàn thành toàn bộ công tác phân giới cắm mốc (năm 2008) và ký kết ba văn kiện về quản lý đường biên giới trên đất liền (năm 2009). Ðây là những sự kiện quan trọng có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề xây dựng đường biên giới Việt-Trung thành đường biên giới hòa bình, ổn định và phát triển, góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước.

Hiện nay, hai nước còn có bất đồng và nhận thức khác nhau đối với vấn đề trên biển. Lãnh đạo cấp cao hai Ðảng, hai nước đã đạt được nhiều nhận thức chung quan trọng về việc kiểm soát bất đồng, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Ðông. Hai bên đã ký kết “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc” (năm 2011), thiết lập và duy trì thường xuyên cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ, các cuộc gặp giữa Thứ trưởng Ngoại giao hai nước và ba cơ chế đàm phán Nhóm công tác cấp chuyên viên Việt Nam-Trung Quốc về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, Nhóm công tác về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển, Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển.

Ðối với những diễn biến trên biển thời gian qua, Việt Nam một mặt kiên quyết bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, mặt khác kiên trì thông qua đối thoại để giải quyết bất đồng. Các bài học kinh nghiệm quý báu trong quá trình đàm phán giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền và phân định Vịnh Bắc Bộ cùng với “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc” và nhận thức chung đạt được giữa lãnh đạo cấp cao hai nước sẽ tạo tiền đề, niềm tin để hai bên tiếp tục đàm phán, tìm kiếm biện pháp từng bước giải quyết hòa bình vấn đề Biển Ðông trên cơ sở quan hệ hữu nghị giữa hai nước, tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của nhau, phù hợp luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Ðông (DOC) ký giữa ASEAN và Trung Quốc.

Những thành quả trong quan hệ Việt Nam-Trung Quốc 70 năm qua là tài sản quý báu của nhân dân hai nước. Năm 2020, hai nước sẽ phối hợp tổ chức nhiều hoạt động kỷ niệm, giao lưu hữu nghị đa dạng và phong phú liên quan nhiều lĩnh vực. Chúng ta tin tưởng rằng, các hoạt động này sẽ tạo động lực mới thúc đẩy quan hệ hai nước tiếp tục phát triển, mong muốn năm 2020 sẽ đánh dấu giai đoạn phát triển mới ngày càng tốt đẹp của quan hệ giữa hai Ðảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước.

Nhân dịp Xuân Canh Tý đang đến gần, chúng ta cùng gửi tới nhân dân Trung Quốc lời chúc mừng năm mới tốt đẹp nhất. Chúc tình hữu nghị và quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc không ngừng phát triển.