Sau khi dự Lễ tưởng niệm Chưởng môn Lê Sáng lần thứ 4, hôm sau [14-9-2014], tôi và con gái Nguyễn Kim Thanh cùng các đồng môn Mã Thị Ngọc Liêng, Nguyễn Thị Phụng [Kiên Giang], Thiều Thị Tân, Diệp Thanh Long, Phạm Ngọc Thành, Cao Văn Nam. Nguyễn Tiến Khoa và vợ chồng cô Nguyễn Ngọc Phước [TPHCM]… đã từ TPHCM ra huyện Tân Thành [tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu] thăm khu đất ở Núi Dinh – nơi Chưởng môn Lê Sáng đã mua và dự định xây dựng Tổ đình với diện tích đất khoảng 6.000m vuông… Trước đây, khi thầy Chưởng môn còn tại thế, một số võ sư nhiều lần rủ tôi cùng đi, nhưng lần lữa tôi đều không đi được. Chẳng hiểu sao, sau Lễ tưởng niệm Thầy lần thứ 4, lòng tôi lại thấy nao nao và quyết định ra nơi đó. Cái “duyên” ấy đã đến với tôi như từ sự dẫn dắt của Thầy.
Thật lòng, đến nơi rồi mới thấy được tầm nhìn xa trông rộng của Thầy chúng ta. Phong cảnh Núi Dinh thật hữu tình, mảng xanh trải rộng từ ngoài vào trong sân tập lên đến tận đỉnh Bao Quang. Nơi đây đúng là lá phổi xanh của huyện Tân Thắng, bao quanh khu đất có khá nhiều ngôi chùa, đặc biệt Khu du lịch Tâm Linh với dòng suối mát trong xanh chảy quanh đang được hình thành, bên cạnh là ngôi chùa Thái do chính Công chúa người Thái Lan đề nghị xây dựng, uy nghi, trang nghiêm, tuyệt đẹp với bàn tay sáng tạo của con người hòa quyện với núi rừng thiên nhiên.
CLB Vovinam-Việt Võ Đạo Núi Dinh
Dừng chân nơi phòng tập vừa mới tu bổ lại – chắc chắn và khang trang – với bảng tên “CLB VOVINAM – VIỆT VÕ ĐẠO NÚI DINH”, chúng tôi cảm thấy thật ngon miệng với tô mì gói vẫn còn bốc khói từ tay vợ chồng cháu Trần Ngọc Tùng – con võ sư Trần Ngọc Trình… Theo con đường mòn, chúng tôi lại tiếp tục khám phá núi rừng thiên nhiên. Qua chiếc cầu nhỏ, nhìn dòng suối thuộc Khu du lịch Tâm Linh nối liền hướng theo mũi tên vẽ chữ VOVINAM trên đá mà lên núi để đến tận cùng mảnh đất đã in dấu chân Chưởng môn lúc sinh tiền.
Có lẽ đôi chân mạnh khỏe hơn chăng, tôi cùng con gái Kim Thanh leo lên núi trước, đến cổng chùa Bạch Vân [đang đóng cửa] trên đỉnh Bao Quang, mà người sáng lập ra ngôi chùa này cũng tên Bạch Vân. Nhìn lại, không thấy bóng mấy đồng môn; sợ lạc, tôi và con gái lại xuống thì thấy anh chị em đang ngồi nghỉ chân và trò chuyện cùng một tu sĩ trên chính mảnh đất phân định địa giới của Vovinam, mà Thầy cùng các môn đồ Vovinam khắp nơi chung góp và tạo dựng.
Động viên mọi người tiếp tục hành trình, đã đi thì rán lên đến tận nơi. Lại quay lên đỉnh Bao Quang, lúc nầy chỉ còn hai cha con tôi cùng cô Liên, cô Phụng, anh Nam và em Khoa. Nghe có mấy anh em Vovinam-Việt Võ Đạo lên, thầy Bạch Vân đã tiếp đón nồng hậu và thân tình. Thầy đã kể lại những lần gặp gỡ võ sư Lê Sáng cũng như ý nguyện của Chưởng môn… Hơn nửa giờ uống trà và đàm đạo, tôi cảm nhận gần gũi và thân thiết thầy Bạch Vân hơn khi nhìn thấy trên vách treo một bức ảnh Chưởng môn Lê Sáng chụp cùng một số võ sư, mặc dù đã nhạt nhòa theo năm tháng.
Lưu niệm trên đỉnh Bao Quang cùng Thầy Bạch Vân
Thầy Bạch Vân tên thật là Tạ Tường Vân, năm nay 84 tuổi, người làng Vạn Tượng, quê ngoại ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Gia tộc nội, ngoại của thầy đều thuộc dòng dõi quí tộc, giàu có. Thầy rời xa gia đình đi học “đạo Thiền” lúc còn nhỏ, đọc nhiều, hiểu rộng, sống đạm bạc và gần gũi thiên nhiên. Cũng như Chưởng môn Lê Sáng, thầy Bạch Vân [bút hiệu Liên Khương cùng nhiều bút hiệu khác] đã viết rất nhiều sách, có thể kể vài quyển: “Tiến trình chứng nghiệm trong thực tại của người Mây Trắng”, “Cái tuyệt đối của suối nguồn chân lý, “Thơ người Mây Trắng”, “Những hạt bụi hình thành thế giới”, v.v. Vốn là một thi sĩ “tâm linh”, thầy đã sáng tác trên 1.000 bài thơ, có nhiều bài thơ siêu thoát, hư hư, thực thực, như:
NGỘ ĐẠO
Đêm ngày chẳng có bóng người qua,
Gió thét vang rền động Phong La [*],
Đá tảng vạn cân lòng rỗng ruột,
Đêm tàn trăng lạnh một Tăng Già.
Thế gian phi thế nào cân lượng,
Đời Đạo xem ra đã nhạt nhòa,
Sinh tử như mây chiều ảo mộng,
Kinh hồn một chớp, ta nhìn ta.
Tôi cũng như một số đồng môn lên tận đỉnh Bao Quang gặp thầy Bạch Vân quả là một “duyên may” hay do thầy Chưởng môn của chúng ta dẫn dắt? Cá nhân tôi thì nghĩ như thế khi được thầy Bạch Vân tiếp tục dẫn lên ngôi nhà chót đỉnh để nhìn mây trời lồng lộng, ngắm nhìn non nước hữu tình, cùng nhau chụp vài bức ảnh… Bất chợt trời lại đổ mưa, chúng tôi cùng thầy Bạch Vân quay về chùa. Ngồi nghe thầy Bạch Vân đọc thơ và tâm tình rất nhiều về thầy Chưởng môn Lê Sáng qua 3 lần gặp gỡ và lần hẹn thứ 4 chưa thành, vì Chưởng môn đã vội đi xa. Thầy Bạch Vân rất quý trọng thầy Chưởng môn. Thầy đưa chúng tôi qua chính điện lễ Phật, đồng thời mong muốn có một bức ảnh thầy Chưởng môn đặt bên phải tượng Phật tổ, để ngày ngày có thể cùng nhau bầu bạn qua kinh kệ. Quả là “Tri kỷ, tri bỉ”…
Hơn nửa tháng sau, theo lời hứa, tôi đã chuyển đến thầy Bạch Vân bức ảnh bán thân Chưỡng môn Lê Sáng… Và thầy Bạch Vân cũng gởi cho tôi một bức thư chứa đựng nhiều tình cảm cùng ước nguyện của người đã khuất. Xin mời quý đồng môn cùng đọc và đến thăm CLB Núi Dinh khi có cơ hội.
Ngày 22 tháng 01 năm 2015
Môn đồ NGUYỄN CHÁNH TỨ
———————————————————————————————————————
[*] Động Phong La: nơi thầy Bạch Vân ngồi thiền suốt 10 năm.
Thư thầy Bạch Vân được đánh máy lại để đọc cho dễ
Kính gửi Thầy Nguyễn Chánh Tứ
Thành viên Hội đồng Chưởng quản Môn phái Vovinam Việt Võ Đạo.
ĐT 0913 857 399
Cho đến nay tôi ở trên núi Dinh này cũng đã gần ba mươi năm 1985 -2014. Người đến núi này gần, xa đều có nhưng không nhiều, hình bóng lưu lại cũng hiếm hoi – duy có một hình người đậm nét, cứ mỗi khi nhìn đến tôi đều có cảm xúc như gặp lần đầu đó là Thầy Lê Sáng.
Thầy Lê Sáng là bậc Tôn sư, là Chưởng môn Vovinam Việt Võ Đạo – Tôi thì thấy như vị THẦY ĐẠO HẠNH, tam nghiệp của Thầy thật hoàn hảo [Thân, Khẩu, Ý] Lời nói và hành động của thầy luôn như nhất nên khiến mọi người mến phục.
Tôi gặp Thầy Lê Sáng khoảng năm lần – một lần ở đất bằng, hai lần trên núi và hai lần tôi viếng thăm Thầy ở đường Sư Vạn Hạnh. Tôi thấy Thầy rất gần gủi với ĐẠO nên tôi đưa Thầy mượn cuốn sách quý Bodhicaryavatara [Bồ tát hạnh của Santideva ] [Tịch Thiên – Si ba tha] Thầy mượn gần mấy tháng mới gởi lại tôi. Tôi hỏi Thầy đọc có dễ không? Thầy nói không dễ – nhưng tôi coi kỹ và Thầy nói tiếp – “ một lúc nào đó – sau này tôi cũng muốn gần thầy “ !
Tôi nói : Thầy muốn tỉnh lặng vĩnh hằng ở đỉnh núi, hay muốn nuôi dưỡng “khí thiêng của môn phái” Thầy vui vẻ nói : Cả hai.
Tôi nghĩ : Bậc Tôn Sư đáng kính của Vovinam nầy muốn một tổ đình lâu dài cho môn đệ, con cháu mai hậu chăng? Vì trước đó nhiều lần Thầy Lê Sáng đã nói : “sau này họ sẽ mua đất của thầy đấy”!
Gần hai năm mà nhà cất Vovinam ở chân núi không phát triển, Tôi đường đột nói với Thầy Lê Sáng : Nếu nhà đó thầy chưa cần thì tôi nói Phật tử mua lại, vì tôi cần một chỗ làm chủng ở phía dưới.
Thầy bật ra như một phản ứng : Không đâu, tôi thêm chớ không bớt ! Rồi thầy nói : Vovinam đến mấy chục nước, còn cần hơn nữa…[tôi còn nhớ thầy LS nói thêm với âm thanh rất nhẹ : Tôi làm việc gì cũng phải Hòa và Thuận trước.
Sau đó tôi không có cơ hội thăm thầy nữa cho đến khi thầy Lê Sáng mất. Tôi rất buồn, như không bao giờ còn gặp lại người tri âm. Một Bực Thầy Vĩ đại của làng Võ Việt Nam.
Ngoài nhân cách và đạo đức, Thầy Lê Sáng còn tiềm ẩn một phẩm- thuật THIỀN – VÕ, Thiện- chân, Cao- thượng.
Tôi thật không may đã không bao giờ nữa được cùng thầy uống một chung trà trên đỉnh núi Bao Quang nầy nữa!
Nay nhân có mấy đệ tử Vovinam đến đây; nhìn lên hình thầy, tôi thấy xúc động viết mấy dòng nầy. Có bao nhiêu Công đức và Tuệ giác, tôi xin hồi hướng thầy: nguyện Hương linh Bardo của thầy dạo chơi ở miền Liên hoa – đài thượng và Vovinam đem hình ảnh Việt Nam cùng tiếng gọi giống nòi hùng mạnh qua Võ Thuật Việt cùng núi sông thân yêu lan tràn khắp Năm Châu Thế giới.
Xin kính tặng bực Thầy Võ Đức trong làng Võ Việt Nam.
Núi Dinh Hội ..[không rõ chữ] huyện Tân Thành, tỉnh bà Rịa Vũng Tàu. La1 Octobe, ngày 8/9 Giáp Ngọ 2014 [Ký tên ] Thầy Bạch Vân
Trên đỉnh Bao Quang.
Võ Việt Nam oai hùng sông núi Màu áo xanh trong sắc lá da vàng Hồn bất khuất Năm Châu đồng vọng mãi Nhân phẩm người Lê Sáng mãi thênh thang.
B.V
Lá thư Thầy Bạch Vân gửi Krishnamurti-bậc đạo sư thế giới- khi Thầy còn trẻ
Gửi: Krishnamurti – đây có phải là tên của anh? Hay chỉ là [ ]
Hơn 10 năm trước, một người bạn quen với tôi GS Phạm Công Thiện, một thi sĩ ở Việt Nam đã từng gặp anh, có nói với tôi rằng: Anh chính là một thiền sư. Tôi cũng tin như thế, bởi vì Thiền sư [Bonza-monk, Buddhist prist] không phải là người dạy về thiền định [bhàvanàmaya] mà thiền sư theo chỗ biết của tôi là một tuệ giác mà cũng có thể là một toàn giác [Samma sam buddhi]. Trong những bài giảng thuyết anh không khuyên ai theo đường lối tập trung thần trí [Sammatha, sammadhi]. Cách thức gôm tâm duy nhất [Cittekaggata] anh cũng không đề cập đến. Như thế, những người hiểu biết có thể gọi anh là con ngươi của mắt hay dòng xuyên chảy của trực quân Vipassana.
Hàng ngàn người tai mắt nhất của thế kỉ 20 trên quả địa cầu này đã bằng lòng với anh. Và có vô số triết gia thông thái đã nghe anh; họ được thiết lập tâm niệm một cách vững chắc [Satipatbana] bằng phương pháp phân tích căn cứ theo sự chú ý “attention: tất cả trở về sự thực và sáng lên trong chính quê hương của họ”. Người ta không thể có khả nghi hay ám muội gì một khi họ đã tự “Hồi quán” như thế [observation]. Tôi là một trong những người ấy trước đây gần 20 năm tôi vẫn là một thi sĩ triết gia [poctc philosophe, không tự thỏa mãn với chính mình. Vì lúc ấy trong tôi đang tụ hợp] có điều kiện theo đường lối của chân lý ước định Sammuti sacca! Sau đó tôi nhờ đọc bản kinh Lankàra [lăng già] tôi mới được sự hiểu biết thông thường về cái gọi là praijnãpati. Tất cả mặc ước về [một người] con người [pudgala] đều được giải tán cho đến một tính chất của thực tại [dravya] cũng không còn cần thiết [không tồn tại].
Krishnamurti! Tôi nghĩ anh có thể nghe một vài điều như vậy như những dữ kiện phổ biến cần thiết theo tính chất có thể có của con người. Nếu tất cả đều là những thông điệp sẵn sàng đủ xuyên thủng qua những thành phần riêng biệt, làm cho tất cả đều phẳng lặng: như mọi tính hòa hợp đều theo tự thể của nó. Bây giờ tôi, anh với mọi sự đều không đủ làm thành cái không ước lượng để một chân lý được hiển bày và cái phi chân đều được đồng đều trong tự vọng.
Trên thế giới ngày nay, mỗi diễn biến đều nằm trong hủy diệt và mọi phát minh của nhân loại là sự phóng thể tận cùng, mọi giao ước đều tự vô tận và phản bội. Sau cùng các gập ghềnh xung động như thế, người ta mới đủ định tĩnh mà nhận định bên mình vẫn còn những kẻ uyên nguyên trác việt như những tính chất hữu tồn của chính họ. Đầu tiên là những người phi tán như chúng ta được biết về loại các chân lý cứu cánh [Paramathasacca]. Điều này không còn là những chung-lý trừu tượng nữa mà là chứng nhân có thật trong vũ trụ này [Tempsduréc Espace Spatialité] và tất cả nhân quả [Samuppàda-patica] không thể là không trơn. Nhưng “kẻ đã đến” mới có đủ thẩm quyền và tự vị mở bày ra nó, ngoài ra mọi luân lý tranh biện đều là dị tướng nằm trong đặc chất của Atman mà thôi.
Tôi viết bức thư này như một khai từ cho một luận án không hình sắc [từ nơi Arũpadhatu] mà tôi vừa soạn xong. Luận án này như một tuyên ngôn nguyên vị ở anh qua hình thức dàn bài: TÂM TOÀN GIÁC V của Ven Huệ Hải.
Tôi như một em bé hồn nhiên từ lâu sống đùa trong những khu rừng rậm của mặt đất này bỗng nhiên được lệnh Thiên Tiên đưa mình đến cung trời Đâu Suất [Tushita] được diện kiến cùng Từ Thị Thế Tôn [Maitreya]. Người ta hỏi em rằng: Sao, Đức Từ Thị có đẹp lắm không? Ngài giống ai? Em có được Ngài chỉ bày chân tánh cho chưa? [lavraienature]. A! em bé chỉ mở miệng trong cái âm a đó mà thôi và em cảm thấy mình bâng khuâng như không như có… diễn tả gì đây.
Hỡi Krishnamurti! Tôi không đủ khả năng biện chứng mà gọi anh là một hóa thể của Milel Mirokou. Nhưng điều tôi có thể tin được anh là một hiện tượng giải thoát toàn bộ những Dukkha! Bởi vì một người đầy đủ chân lý tuyệt đối bởi chân lý cao thượng tuyệt đối [paramanariya-Saccam] Anh là người chỉ cảm xúc mà không có điều kiện dính mắc [visamyulo]. Tôi tin rằng người đã thấu triệt thực tướng thì dù hành động như thế nào vẫn là Kriya mà không là Kamma.
Hơn nửa thế kỉ rồi anh đã trải dài phạm âm trên từng không của loài người như vành trăng mồng chín, mầu trăng thâm trầm thanh diệu biết bao cho những người sẵn sàng và thưởng thức nó! Nhưng tiếc thay, bên kia bán cầu cái u buồn vẫn còn dầy đặc. Còn bao nhiêu thành phần theo giới thủ cứng nhắc, những tôn giáo hình tượng quá dày sâu vì ái ngã, những người chậm tiến và vô luân, tất cả đều không lợi gì khi nghe tên anh. Tất cả đều hãi hùng khi nhìn về cái triết lý của cây búa trời vô tướng. Họ không chịu nổi một mùa thu lá rụng. Thực ra tôi cũng không thể diễn đạt gì cho chính xác, tôi vốn chỉ là kẻ đồng quê về ngữ pháp ở thế gian này. Chỉ trong tôi vừa hiện lên được sự tràn ngập của "upeckhã", nhờ đó mà có thể bập bẹ trở lại được nguyên âm của thời thơ trẻ... Và từ đó trong tôi sẽ dần hiện ra cái chủng loại "người" đích thật vì tiếng nói trong bản luận án - thư này là một cụ thể hóa nhất diện: "Tôi và anh đều có thật" vì A = A A2 vậy Anh có: tôi có = Tất cả đều có: BHIKKU HUỆ HẢI.
Thầy là một đầu đà Tăng gần gũi nhất trong danh từ phạn ngữ: "Bhikkhu" trong kinh Pháp Cú [Dhammapada] phần thứ 25 câu 8 có Phật ngôn rằng: “Sabaso nàmarù pasnum, Yassonathi mamàyitam”. Người không có ý nghĩ TA và CỦA TA, dầu đối với tâm hay thân người không thắc mắc hay lo âu về những gì mình không có - người ấy, thật vậy được gọi là Tỳ kheo. Những kẻ thất học [không hiểu được danh pháp] dốt nát [chạy theo hình tướng] và không hiểu biết [chỉ có Rhatorie] thì thường hay nhìn về hình thức. Vì tác phong của Thầy không như ý họ nghĩ. Người ta ngạc nhiên và nghi hoặc khi nghe và biết rằng Thầy còn "có vợ con"! Họ không tìm thấy được một hình thức tôn giáo ở nơi Thầy [Religion-imajes] kẻ tín ngưỡng [croyance] bên ngoài với bộ óc đầy ắp những hành tưởng [Samskaras, formations wentates] các khối óc chật đầy biểu tượng và giới cấm thủ như vậy không thể nào hiểu được cái "foi" là gì...! Thầy là người dịch về Krishnamurti đầu tiên ở Việt Nam. Thầy có trí thức, có hiểu biết và tiến theo sự kiện có thực chất [có lõi], Thầy đã vượt xa những người tu đạo tầm thường. Như kinh nói: "con ngựa Tuấn bỏ lại sau đám ngựa gầy hèn". [Tuấn liệt truy tiền đạo - hòng hưu khải hậu nhân]. Cái hình thức vợ con Thầy là một hình thức liên thuộc có tính chất nhân quả [Sanuppadà và như một point materich: chất điểm. Ginénosite: một tính chất ôn hòa, phúc hậu tự nhiên] mà cái Paticca [liên quan] thuộc về nhân "anta" chứ không phải thuộc "panenppanna". Vì nếu nói cái hiện tại thì phải lấy ý thức là chủ động mà ý trong thầy triển chuyển như một cái không chi - Vous n'attein drez la verite que lorsque vous seriez comme un "Rieu".
Hồi tưởng lại những ngày đầu chúng ta gặp nhau tại Biên Hòa, mặc dù hồi ấy tôi chưa được mở mang lắm, với minh sát lờ mờ nhưng tôi rất biết chắc Thầy thuộc loại người độc đáo [một khi biết ai bằng sự biết của mình: vì "ai" phải là đặc biệt thì mình mới có cái biết đặc biệt]. Thầy với tôi đã sống gần nhau nhiều ngày liên tiếp. Lúc ấy tôi vừa mới tạm thời giũ rơi được cái chức giảng sư và cũng chỉ mới có quan niệm khước từ bán phần - theo cái vô luyến ngoại tại và tha nhân.
Tôi trở về sống đơn độc trong ngôi nhà lớn vắng vẻ và quan liêu bên dòng sông Đồng Nai đầy lặng tĩnh. Nơi đây tôi và thầy đã ăn những bữa cơm bằng gạo lứt muối mè. Có lúc tôi đã coi nhẹ thầy nhưng các dấu hiệu mà thấy của thầy đến trong tôi thật là trọn vẹn. Chúng ta đã đi thăm hãng Cogivina và tôi đã ở lại chơi trên tầng lầu thượng của ông kỹ sư giám đốc này hơn mấy tháng. Sau đó thầy tặng tôi một ngôi trại với khoảnh đất lớn ngoài xa lộ gần bên một hầm sạng trắng. Rồi không bao lâu thầy cũng lặng lẽ trở về trên dòng sông nhiều hương vị, bên cầu Bạch Mã của cố đô xứ Thần - Kinh thơ mộng. Tôi thì sau ngày ấy thuyền mình cũng gặp gió ra khơi. Tôi bắt đầu đùa với biển. Thuyền tôi và những con kình ngư to lớn cùng đuổi bắt nhau trên trùng khơi vi vút. Ôi biết bao lồng lộng sóng gió, mây trời, hiểm nguy, bí mật. Những diệu kỳ và mới lạ đã vung lên và sau cùng tôi đã trở lại quê hương.
Tôi đã làm nhiều tập thơ ca tụng sa mạc, ca tụng mặt trời, ca tụng rừng thiên, ca tụng những kẻ giàu và người nghèo, ca tụng lá thu, ca tụng cái bất toàn và viên mãn. Và hôm nay tôi viết lại bản luận án thư này với công thức A = AA 2 theo dàn bài mẫu bản TÂM-TOÀN-GIÁC. Tôi không nguôi khi nghĩ nhớ đến thầy, vì đây là kỷ niệm từ "phi-không" như một tính chất có sự tri âm không nằm trong hủy diệt - Panna Gu Na - karunà - Bây giờ thầy đã viên cao lập trưởng lắm rồi .... liệu chúng còn có thể gặp nhau trong cái giả hợp của tứ đại này? Chúng ta còn có thể nhìn mặt nhau như ngày nào qua ánh mắt phù du: trên dòng thời gian của sự tích trữ năng lượng phi thực này nữa không?
Thiên ngoại Tường Vân
Hiệu - Liên Phương đồng tử
1. GIÁC NGỘ [BUDDHA]
Phật từ tâm không hóa ra
Tu hành thờ Phật là thờ: "Tâm Không"
Tâm không vô ngã đại đồng
Lòng không tham luyến rõ thông nhiệm mầu
Nhiệm mầu rốt tận vô vi
Vô vô bất tận - phi ly Niết Bàn [Nibbàna]
"Pháp Không", Tâm pháp ẩn tàng
Không tâm không pháp huy hoàng lạ thay.
2. DỤC [TANHÀ]
Trần gian ham muốn bên ngoài
Luyến lưu khổ hận những ngày vô nương
Ai hay ái thủ vô thường
"Biết" là giải thoát chẳng nương vật gì
Đó là "Vô Hữu" một khi
Lòng trong tánh lặng đường đi tuyệt vời
Đạo là Tâm tự Thảnh Thơi
Muốn vì niệm khởi, Thấy thời tự đi
3. NIỆM
Niệm là hỏi niệm cái chi?
Phải có một vật niệm thì mới sanh
Niệm với vật là hai thấy rành
Hai này là chỗ diệt sanh vô thường
Lìa niệm, vô tướng không lường
Điểm từ vô điểm tâm thường trụ không
Đạo là vô niệm ở lòng
Hữu niệm thì bị trói trong cột ngoài
4. GIỚI
Giới là Tâm Lượng thẳng ngay
Tu hành thờ giới là thờ tâm không
Tâm không thờ, thờ giới là lầm
Bởi vì giới trói thì tâm phiền hoài
Giới từ vị ngã chế ra
Ngã mà tiêu diệt thì là giới không
Giữ giới để diệt thức tâm
Thức mà tiêu diệt thì không giới gì
Ji-la gốc trị Sân-ri
Gồm theo ngữ tự: Ca-vì rit-ta
[Càritta: Bổn phận phải làm]
[Vàritta: Những điều nên tránh]
Si-ga-tô va-da Sut-ta [Sigàlovàdasutta]
Nguyên từ tự tánh mọi loài thanh cao
Giới định là một vì sao - Sammàditthi, étoil
Lắng bằng cao thấp thẳng vào nội tâm
Lòng lo sợ: giới thủ ngầm
Nghĩ rằng phước báo sanh tầm nhân thiên
Giải thoát không từ những miền
Tội phước nhân quả xích xiềng mãi thôi.
5. TA
Cũng vì chỉ một cái tôi
Tôi - Ta là cái song đôi hữu hình
Ai hay sắc vốn tự sinh
Biết từ vọng khởi chẳng tình chẳng ta
Ta là chấp vọng Ma-da [vọng tưởng]
Sắc thọ tưởng hành thức Ta chỗ nào
Cởi mở không còn thấp cao
Ngoài trong lặng lẽ ra vào sắc không
6. PHÁP
Tâm không thì pháp cũng không
Pháp từ huyễn hiện tâm tùy biệt phân
Pháp tâm là thể phù vân
Chấp lòng diệt tắc trong ngần một khi
7. THỨC
Thức là mê tại trí tri
Biết thức sanh diệt trí tri đặng nào
Phân biệt lòng còn thấp cao
Vô phân biệt ấy thanh cao nhẹ nhàng
Bao giờ tính chẳng bàng hoàng
Thức kia biến loại ngang hàng chữ Tâm
Lìa thức sinh diệt không lầm
Nhẹ nhàng tự thấy thân tâm diệu huyền
Theo thức thì lòng đảo điên
Bình tâm vô trú là miền tự do
8. THẤY NGHE
Kiến văn như tợ qua đò
Lên bờ bờ mộng còn lo sợ gì
Thấy là hỏi thấy cái chi
Phải có một vật thấy thì mới sanh
Thấy với Vật là hai rõ rành
"Hai"này là chỗ ngoài vành chữ Tâm
Tâm là vốn tự vô tâm
Lầm tâm gọi tưởng âm thầm hại ta
Diệt đi quyến niệm la đà
Phá hòa hợp uẩn là ca khải hoàn.
9. THẤY LÌA THẤY
Chấp Thấy là cái đa mang
Thấy-chấp tự nội biết đàng diệt tiêu
Bây giờ thấy tự tiêu diêu
Thấy là không thấy những điều thị phi
Thấy tâm như cảnh vô vi
Thấy từ vô thức tâm di động ngừng
Thấy mà còn biết còn mừng
Thì bị cái biết buộc chân trong ngoài
Hóa thành phiền não buộc hoài
Phiền não bởi chỗ gốc thời biết sanh
Thấy biết tùy tánh đành rành
Tùy [duyên] tánh là chỗ tu hành dứt đi
Hóa thành không thấy biết chi
Tức là Chứng Đạo vô vi thanh nhàn.
10. MINH TÂM KIẾN TÁNH
Minh Tâm là minh Tâm Không,
Tâm Không thấy biết ở trong ở ngoài.
Kiến tánh là tánh thời thời,
Vô trụ vô niệm trong ngoài không hai.
Hằng khi chực sẵn đổi dời,
Hằng khi vô trú lẽ đời Tâm Không.
Cái Ta với cái Thức Tâm,
Hằng khi giải thoát ở trong “không” này.
11. ÁI KIẾN
Do thấy lòng sinh duyên tây
Biết trong nhớ mãi mối dây buộc ràng
Tâm cảnh luân chuyển tuần hoàn
Sanh già bệnh chết là đàng biệt ly
Không thấy biết còn nhớ chi
Rỗng không tự tại tâm vi nhẹ nhàng
Đạo là vô niệm tâm quang
Hữu niệm thì bị trái ngang buộc hoài
Thấy biết sinh ra đêm ngày
Thấy từ chuyển động biết sai huyễn hình
12. Thấy Biết Này Chỗ Thức Sinh
Tạo thành danh sắc vô minh buộc ràng
Tâm với cảnh là đàng sinh diệt
Bậc trí thường siêu việt tưởng tư
Ái kiến không cùng với như
Vô ái diệt kiến như như đại hùng
Tự mình thấy biết thung dung
Ngoài trong tự tĩnh vô cùng lặng trang
13. THẾ TRẦN ÁI THỦ MÀNG MÀNG
Thấy biết nhớ để trám toàn tâm không
Tâm không vô trụ mây hồng
Dù cho niệm niệm vẫn dòng thật chân
Niệm này chính thật là thân
Thân là thân tưởng như vầng bụi sương
Hữu niệm còn kẹt ở đường
Thấy niệm không tự, tánh thường trụ không
14. CÕI ĐỜI LÀ VÔ AN TRÚ
Phù du thế sự xoay vòng
Sinh linh tự buộc những dòng tang thương
Cõi đời là bể vô thường
Không nơi an trú không đường dựa nương
Ngày ngày khổ nạn khôn lường
Bởi vì sanh diệt ta nương cõi đời
Thức tâm là tánh chuyển dời
Quán tâm thức diệt ta thời vô nương
Vô nương giải thoát hai đường
Hai đường tâm cảnh không nương chỗ nào
Đạo là không trụ nơi nao
Hữu trụ thì bị trói vào cảnh tâm
15. ĐẠO
Đạo là thấy tận những mầm
Các hành nội tĩnh không lầm diệt sanh
Đạo là khám phá nguyên nhân
Nào phải thay thế những lần khổ tâm
Giác là thấy rõ sự lầm
Bao giờ toàn giác mê lầm toàn không
Bây giờ mới thấy rõ Tâm
Chân không vô trụ chẳng lầm lý vô
Đạt rồi bất động giao lô
Không vô trụ trước không tô những màu
16. TU GIẢI THOÁT
Tu hành hoán chuyển trước sau
Hành tu thoái hoại giữa ngày không gian
Giải thoát thoát giải hai đàng
Đàng đời đàng đạo rõ ràng rỗng rang
Hành nhân dứt bỏ ngang tàn
Dùng ý chí đoạn những mầm tập xưa
Khổ kia nào khác lọc lừa
Thấy là chẳng đổi chỉ chừa tập nhân
Đừng lầm đổi tráo phân vân
Được thì trơ trụi chẳng thân chẳng đời
Dường như mình vượt biển khơi
Dường như mình tự chơi vơi ngút ngàn
Không tự kỷ không an toàn
Ấy là dấu hiệu trên ngàn đỉnh cao
Tiêu giao là ở chỗ nào
Chính là chẳng trụ chẳng vào chẳng ra
17. DỨT BỎ
Hành thiền tứ niệm Ma-ha
Thân tâm trơ trụi tột đà rỗng không
Chết đi những chuyện bất đồng
Chết đi giữa bận mặn nồng ái yêu
Nhìn nhìn dục não tiêu diêu
Thấy từng thúc động những điều dục tâm
A-ha mấy bận xem rồng
Này mây này nước này không gian tình
Mắt mờ gọi lẽ vô minh
Mắt sinh nhãn tịnh thinh thinh tuyệt vời
Tâm cao cao tột mây trời
Thức không không tột không thời gian không
Thời gian nhẹ bóng mây hồng
Không gian khói tụ sống vong tâm đồng.
18. TÂM KHÔNG
Tâm không nào phải khô không
Nhưng thường chứa đựng vô cùng lý chơn
Hóa thành suối cuộn xanh rờn
Ngữ nguyên thuyết tận những cơn hiểm nghèo
Giảng giải lý cứu kẻ nghèo
Cho người thấy tận thu vèo rụng rơi
Cái ta như tự tiếng lời
Tiếng ta là bởi những rơi rớt hình
Cái người cái ngã vô minh
Đập tan tưởng vọng thanh bình tại đây
Người ngu rắn hóa thành dây
Rắn dây đều mộng đất hay nở chồi
Chừa đi một bận rồi thôi
Đừng nương đừng dựa ái danh lợi tình
Ráng mà thấy thức chuyển sinh
Thấy rồi thức lại diện bình chữ tâm
19. THỨC
Thức là tánh biết nương [duyên] ngoài
Lìa nương thì thấy thức thời vô nương
Thức là ý phân biệt suy lường
Dứt ý tự tịnh suy bằng lặng trang
Khi sinh tử ý bàng hoàng
Bởi vì thức muốn tầm đàng dựa nương
Thức là chỉ bát thức tâm vương
Nhưng tâm vô động thức nương đằng nào
Thức là chỗ mống động xao
Biết là gợn sóng bọt bào tế vi
Mắt chạm sắc lòng thì di động
Bởi tâm phân biệt cảnh thu hình
Từ không lầm có nhận sinh
Đây là tưởng biết, thức sinh chỗ này
Sóng âm rung động vơi đầy
Chạm nhằm tai nọ một giây thanh trần
Nhĩ trần xúc chạm chưa phân
Cảm thanh tự biết thức phần sinh ra
Tỷ căn thanh tịnh như là
Nghe mùi nhóm động thọ là thức sanh
Thân va chạm tứ phần đại sắc
Tâm không hoa biến mặt cảm tình
Hiểu là trụ xứ tự đình
Này hiểu, này biết, này sinh thức này
Lưỡi nếm đụng lòng ngây gọi vị
Tùy thích ưa giả ngụy thơm hôi
Biết này chuyển động mãi thôi
Dựa đường thọ cảm miếng mồi dở ngon
Vì phân biệt ý còn xao động
Chuyển động này thành rộng thức sanh
Lợi danh tâm ý giật giành
Cảm tình thì nhất phải dành cho ta
Chỗ tự biết thức mà thức động
Thức như vòng lửa vọng chuyển quay
Thức là đứa tớ ăn mày
Xin từ chút biết từ ngày tỷ phân
Thức này dường thể phù vân
Tùy hơi nước động biến vần nọ kia
Thức là chỗ có chia lìa
Phân đôi rồi gục sau bìa tử sanh
Quán thức như thể khách hành
Trong mơ khách muốn vượt sanh tử cầu
Quán thức mường tượng lên lần
Tình chưa thỏa động mối sầu vô biên
Quán thức ngộ thức diệu huyền
Thấy thức sinh diệt tại miền hư vô
Thức sanh diệt như hồ gợn sóng
Quán sóng lòng biết vọng là chân
Vọng chân một đóa trong ngần
Biết là đã đạt những tầng thẳm sâu
Người đắc đạo nhiệm màu vô tỷ
Thấy mình là vật lý Như Như
Thấy mình không chỗ còn dư
Mình người phi tuyệt không từ nơi đâu
Mười hai móc xích không đầu
Bức hình quang phổ nhuộm màu kính lăng
20. BẢN TÁNH CHƠN KHÔNG
Ý còn gọi không năng không sở
Chỗ này còn ở đợ chữ không
Tánh người bổn thể hư không
Vô trụ vô trước không phân trong ngoài
Thấy nghe giải thoát liền ngay
Sông hồ tự tại những ngày sạch trong
Vô minh trí huệ vẫn đồng
In tuồng hỗn độn mà thông suốt rồi
Phân chia là thức tâm tồi
Thức tâm giải thoát không ngôi bực gì
Thấy mình như thể ngu si
Nhưng hằng giải thoát những khi đổi dời
Quang minh trí huệ rạng ngời
Vô tâm vô cảnh thời thời không ta
Thấy biết từ tánh phát ra
Tánh thường thấy biết không ta không người
Thung dung tự tại đứng ngồi
Đi lại ăn uống không thời chấp nê
TÂM KHÔNG ĐÃ BIẾT CHỖ VỀ
Hóa thành giải thoát tứ bề không lưu
21. TÂM THỨC VỚI BÓNG TRONG GƯƠNG
Không tâm vốn thật vô ưu
Nhận lầm từ thuở thức lưu bóng hình
Gương trong là thể nguyên trinh
Tướng vào thành tưởng thức tình hiện ra
Ấn tượng chùng chập la đà
Vì không giác được chuyển ra thọ hành
Lầm tâm là tướng thông manh
Thức như bóng bọt chói vành gương trong
Chấp tâm, tâm chấp vòng vòng
Chính là thọ tưởng một dòng sinh sinh
Diệt đi ngàn vạn bóng hình
Gương lòng vô trụ linh minh nhiệm mầu
Thức nguyên tâm vốn một màu
Một là vô một, màu là chân không
Có ai biết một chữ đồng
Tính tâm sáng suốt ở trong thân này
Tâm không rỗng tịnh không tày
Như gương lồng cảnh đâu hay ám mờ
Hình trong gương dệt bài thơ
Hình qua gương lại như tờ giấy trinh
Thân này như một dòng kinh
Xuyên vào tâm ảnh như hình mống treo
Thân đây như một chiếc bèo
Khi lên khi xuống tùy theo sóng triều
Thân tâm giả hợp phiêu phiêu
Một hình bóng bọt giữa chiều chiêm bao
Cảm biết chuyển động ba đào
Sống say chết ngủ biết nào mộng mơ
Thân tâm một thể không mờ
Thức tâm che đậy làm nhơ não phiền
Như như này tự uyên nguyên
Một lần hiểu được ly duyên sinh già
Lòng từ phát động bài ca
Vang vang nhịp điệu san hà chân không
22. TÂM HUỆ TÂM THỨC
Huệ từ suốt lẽ thậm thâm
Nhờ nghe bát nhã ngộ tâm tuyệt vời
Lý chân lý đoạn trùng khơi diệu huyền
Tâm sâu đạt thức tâm viên
Thức tỉnh tánh đoạn tánh viên huệ bày
Mê tâm nhận thức đời sai
Rõ tâm tỉnh mộng một ngày muôn năm
Thức tâm dối giả mê lầm
Vô minh muôn thuở trói tâm tham hoài
Bình tâm diệt trí thảnh thơi
Hóa thành tự tại đạo đời thung dung
Thức tâm diệt huệ tâm sanh
Huệ tâm ở chổ hiểu rành thức tâm
Thức, huệ suốt lý tột mầm
Tức thành vô niệm thanh tâm Niết Bàn
Lạ thay ngữ tự rộn ràng
Giữa vòng sinh diệt vạn ngàn sáng soi
Phàm tiên thánh Phật một nòi
Biển trời nhân thú sóng mòi lặng trang
Tột cùng thủy tận nhân hoàn
Hình thành la võng ngàn ngàn đế châu
Không không mà có nhiệm màu
Thức tâm ý diệt bến tàu đại an
Đạo là ngàn vạn con đàng
Thời phương tính tận con đàng tự đâu
Đời còn như một nhịp cầu
Ngu nhân ái mộ tim dầu tử sanh
23. MỘT NGÀY TU VÔ LẬU NGHIỆP
Tùy tâm mê, động sinh thành
Xả tâm rọi thức nghiệp đành phải tiêu
Ngã sinh ý tại tín điều
Tập thành chế định cây nêu tự ngoài
Xả buông thức ngã một ngày
Thân tâm giải thoát liền ngay thanh nhàn
Thung dung hơn cả thiên đàng
Nhìn về địa ngục muôn ngàn khổ tâm
Vô sanh bi nguyện thậm thâm
Giữa vùng hỏa ngục mọc mầm ma ha
24. TIN [FOI]
Tin đi cứu tự an hòa
Tin đi cứu tự ma ha tại lòng
Tín tâm, tâm tự thành trong
Vô tín, tín ngưỡng chạy rong ở ngoài
Tín tâm, giác ngộ tâm đầu
Bất tín tâm địa lập cầu vọng hương
Tín tâm một đảo về nương [dipa: đảo = natho]
Tín ngưỡng [croyance] ngoại tại lập đường cong cong
Tín tâm tâm tự tại lòng
Vô tín bất lập còn mong Đại Thừa?
Tâm không thấu triệt Vô Thừa
Tin là "muốn có" lòng ưa vọng cầu
Tín tâm giác ngộ tâm màu
Vốn từ tự tánh chẳng cầu mảy chi
Tin là tự ngã ngu si
Cái ta sáng tịnh tin thì hóa không
Tin tướng : vô tướng tâm không
Tâm không không tướng còn mong tin gì
25. NGHI
Tu hành ta phải đa nghi
Nghi tâm nghi cảnh nghi tà nghi chân
Nghi ta giả lập mấy phần?
Nghi ta có thật ở trong thân này
Nghi ta đâu lại về đây
Đâu là uẩn xứ mối dây buộc ràng
Bao giờ thức chưa hóa không
Thì còn nghi mãi diệt trong diệt ngoài
Nghi tình kết tụ như say
Gặp người có đạo đập ngay một chùy
Tận cùng nghi ngược cái nghi
Nghi tâm, tâm nghĩ, ý ly sáng bừng
Bây giờ buồn giận tham mừng
Vụt thành khói bụi giữa rừng mây bay
Tựu thành ngộ đó không ngoài
Không bên không giữa ở ngay không gì
26. SỢ
Ngu nhân cả sợ thầm thì
Bực trí một quyết đường đi rạng ngời
Đố ai biết sợ là chi
Sợ từ cái "có" biết vì phân hai
Sợ từ ái niệm lai rai
Sợ từ mất hữu một mai lạc loài
Sợ là tâm chạy bên ngoài
Sợ là tâm lậu ở ngay tại tiền
Khi sợ lòng loạn đảo điên
Tưởng chừng "niệm" động tâm duyên ở ngoài
Sợ bùng hét lớn xỉu ngay
Là khi tưởng tướng choáng ngay tâm điền
Có khi sợ bởi tránh duyên
Sợ e giải thoát về miền lạc bang
Thông thường sợ bởi hoang mang
Vì chưa biết được giả, chân là gì
Người hay sợ lòng tham si
Càng hay sợ hãi tham si càng nhiều
Bao giờ dứt tận luyến yêu
Bấy giờ chẳng sợ chẳng siêu động lòng
Tâm không không chỗ cầu mong
Lòng không để sợ những dòng thị phi
Quán tâm tâm nguyện từ bi
Hùm beo thú quỉ xem thì như con
Lòng từ sánh tận núi non
Bi tâm mở rộng lối mòn lợi tha
Một mình một chữ Ma Ha
Buồm giong biển tận khéo đà độ sanh
Quán tâm cảnh quán rõ rành
Vô tâm vô cảnh vô danh sắc tùy
27. TÌM KIẾM
Ai hay tìm kiếm vô vi
Khi tìm tới chỗ tâm thì chơn không
Âm thanh sắc tướng chậu lồng
Vì chưa đứt đoạn ái tâm nên mờ
Đạo đời như một bài thơ
Vẽ lên vần luật giữa tờ giấy trinh
Hay nào đó một dòng kinh
Sinh thành hủy diệt là tình tiết thơ
Kẻ tìm tình trạng lơ thơ
Kẻ tin tâm trạng lờ mờ biết đâu
Kẻ nương ngồi dựa gầm cầu
Xem chừng nước cuộn lòng sầu mãi thôi
Trí nhân mường tượng lên đồi
Ngẩng nhìn mây bạc vành môi nhẹ cười
Xanh xanh trời rộng vô dư
Hoát nhiên đại ngộ tâm tư chẳng hình
Biết mình vạn vật làm thinh
Không sanh nào có giữa tình tiết kia
Vô sanh bất diệt tính lìa
Tình không thức đoạn giữa tia sáng trời
Hỡi ôi xin tặng một lời
Mây bay ý lộng đạo rơi vãn nhàn
28. GIÁC
Giác rời thức lại tâm quang
Chân vô vô động vô vàn biệt phân
Này đây lá cọng sanh thần
Hoa huyền tự tỏa giữa chân thật huyền
Giác là soi thấu vạn duyên
Giác so mãi tận tâm miền thẳm sâu
Giác không căn cảnh đuôi đầu
Thức không không tánh không dầu tim sanh
Có chăng thọ tưởng hay hành
Có chăng mộng thức ngoại vành của tâm
Có chăng giác đạo âm thầm
Hay là diễn lại tuồng câm mặt trời
Giác là soi thấu vạn nơi
Giác soi phản giác giác thời vật chi
Giác là chỗ hữu vô vi
Chân tâm há lại mê ly bụi trần
Không tâm pháp tự mấy tầng
Không pháp tâm nhóm buồn mừng nỗi chi
Pháp tâm tâm pháp vô vi
Vô vi, vô niệm kẹt khi ngữ hành
Vô thừa mây tự trời xanh
Phù vân biến rạng thanh thanh đặng nào
Thức từ căn cảnh bàn giao
Cảnh căn tự tịnh thức nào đã sanh
Thức sanh thời giác hiện hành
Giác diệt thức diệt tự thành không hoa
Thức sanh là ta hóa sanh
Hóa sanh để đặng xưng danh ra ngoài
Xưng danh gốc bởi tham đời
Tham tâm nhiễm trước hóa lời tuôn ra
Lời tuôn từ những chữ ta
Chữ ta biến rạng hằng sa muôn hình
Mỗi hình đều có mỗi danh
Hình danh là cái chứa tình chứa tham
Tham là gốc ở thức tâm
Thức tâm, hoại diệt tham trong không còn
29. THẤY BIẾT NHỚ
Thấy biết là chuyện đường mòn
Vì trong luyến ái "nhớ" còn vật chi
Muốn ưa từ chỗ tâm si
Mắt phân lầm lộn biết chi dục tình
Dục tình tột hiển phân minh
Tham si nhuế hận lung linh thức điền
Lầm duyên là bởi duyên tâm
Duyên này bất động chẳng mầm tại đâu
Chấp tâm duyên tự tâm đầu
Chấp là duyên hiện giữa màu tịch thanh
Xem tâm thấy tự bức mành
Nhìn dây tre lát đệm thành chu vi
Trí nhân siêu việt chữ thì
Vất thân như thể giũ đi bụi đường
Thấy thân góp tự bằng sương
Làm trong hơi nước bằng dương điện từ
Như vòng lửa chạy giả hư
Như hoa đóm hiện đến từ giữa không
Thân tâm dường trẻ đồng mông
Nhìn dòng nước chảy chợt lồng bóng sâu
Thấy bóng tưởng mình trôi mau
Bé nào biết được mình ngay tại tiền
Cái đi đi tự tâm duyên
Những hòn bụi bám chảy xuyên qua đầu
Thấy ngoài vật cảnh qua mau
Nào hay chóng mặt bởi đầu não cân
Quay quanh chiếc cột xoay vần
Hỏi trời đất quyện hay thân mình nhào
Người nói quá khứ tự cao
Người rao hiện tại là xao động tình
Vị lai tiếng tự vô minh
Nhìn không gian động bởi tình kiến xoay
Khổ không vô ngã lạc loài
Vì tâm vang động ở ngày di cư
Biết là trú một chữ như
Như như động chuyển khá dư khá thừa
Dư làm ngôn luận trời mưa
Mưa cho sáng sạch cấy bừa ngã tâm
Thừa này bất động thậm thâm
Như vua ngự tiệc một mâm tại triều.
30. HỌC THỨC
Mê nhân tánh tự kênh kiêu
Tỉnh nhân tánh tự tiêu diêu tại trần
Háo nhân háo động cầu thân
Bình nhân nội tịnh tâm thân nhẹ nhàng
Ngu nhân thích học làm sang
Học nhân bắt chước những trang sử đời
Học hành thức tự chơi vơi
Học thức là kẻ đắm thời bởi tham
Học thức tự hóa long đong
Vì chưng thức cõng cái trong cái ngoài
Học thức như người đi vay
Tầm từ danh số những ngày mộng mơ
Kẻ học hình thức mê mờ
Tự làm cái thức ngu ngơ lộn đầu
Tâm số là trí câu mâu
Thức chồng trên thức ở câu học hành
Học thức là học Thức Tâm
Lầm danh nhiếp tướng nảy mầm tưởng tư
Tưởng tư tướng trạng lừ đừ
Ấy là thọ cảm ám từ u mê
Hoá thành trí nhớ chấp nê
Che mờ thật tính nhìn dê hóa rồng
Ký ức quá khứ liền trong
Lấp mờ hiện thực vọng mong lai kỳ
Học thức chẻ bằm vô vi
Góp từ hữu hạn làm suy tâm điền
Người người học thức đảo điên
Chân tâm che tính phan duyên dị đồng
Trí lầm che mất chân tâm
Học lầm che mất chân không rạng ngời
Đâu còn có một nghỉ ngơi
Hình danh sắc tướng lấp thời bản chân
Chân tâm vô niệm bất phân
Học thức hữu niệm những lần cãi tranh
Học thức là chỗ tranh giành
Tùy theo cái sống biết thành phải sai
Luồn trôn đụt háng một mai
Cũng vì học thức chiêu bài cạnh tranh
Học thức xa rời mối manh
Từ tham khởi sợ trượt danh tự đời
Kẻ học ham muốn ta thời
Cái ta hình trạng biết thời ở mô?
Mê học làm kẻ hồ đồ
Lênh đênh kiến thức vập vồ dạt trôi
Kẻ học là trẻ mồ côi
Lấy đầu làm đít kéo lôi tự thầy
Hay đâu thầy vẫn tày lay
Lềnh bềnh Trí Lự tỉnh say chưa tường
Vì ham dựa học mà nương
Nghiệp tầm kiến hoặc mù sương phủ đầu
Tâm tham cảnh ngoại vọng cầu
Nào hay bít lấp tâm đầu từ đây
Cái dây lầm tưởng là dây
Tưởng dây hay rắn, tưởng nầy cả sai
Người thường vọng tưởng lai rai
Yêu không tự được phân hai mới đành
Tình tang trí lự tham ganh
Rồi khi biết động mất danh trí cùng
Học đòi là chỗ đại hung
Bằm năm xẻ bảy cái thung dung lòng
Nhóm tâm vút cảnh nằm trong
Thuần căn thuận cảnh lòng vòng hiện ra
Một mai căn cảnh mù lòa
Trí ngu vất bỏ ngoài xa những gò
Học hành chỉ được một mo
Bó dành mo chặt, lò vò lại kia
Biết cạnh thời chẳng biết bìa
Học khôn chỗ nọ chỗ kia chưa tường
Bay lên chân nặng lưng chừng
Học là lấy hiểu buồn mừng hiện ra
Học này không thỏa mãn ta
Thời tính vận chuyển lập lòa không gian
Gánh nặng quá khứ buộc ràng
Chính là sự sống tầm đàng vị lai
Chia tâm hiện tại làm hai
Luân hồi trước mắt có ai biết gì
Học thức làm nghèo vô vi
Dầu cho rộng mấy đường đi cũng nghèo
Vì gốc là thức quê nghèo
Lìa thức tâm mới tự theo sáng bừng
Lìa thức tâm thần dịu ngưng
Bỗng lòng hoát ngộ mấy từng giao lô
Học thức gốc nguồn ngây ngô
Vì huệ giác sóng lặng phô diệu huyền
Học thức gốc từ dở điên
Trí huệ mở hoát nó liền diệt tiêu
Bát nhã là tự đồng đều
Trí từ cái học kênh kiêu não phiền
Vô học liền được tiên thiên
Biết từ bắt chước ngục xiềng kéo lôi
Học thức là gốc luân hồi
Nhị nguyên kiến trí phân đôi lỗi này
Một mai chết mất lòng ngây
Thân tâm thường thọ những giây não phiền
Sinh già bệnh chết triền miên
Cũng vì cái học mà điên đảo lòng
Học thức làm một đường cong
Không gian trĩu nặng quay vòng cuốn lôi
Hữu thủ sau khi chết rồi
Không nơi nương tựa; động thời phân ly
Học thức bánh xe chu kỳ
Trong ngoài hợp-hủy, hồi quy buộc ràng
Vô Học huyền huyền lặng trang
Dù tịnh đó chỉ chút màng nghỉ ngưng
Rỗng rang tỏa rạng ngàn từng
Mới là quả hậu vụt lừng tâm không
Quê mùa chút học tây đông
Mọc sau lặn trước lại vòng đêm thâu
Biết chi nhờ bức tranh màu
Từ tay họa sĩ đậm màu nhạt thanh
Kiến thức là nguồn chiến tranh
Ngu thời dã thú, biết giành giựt nhau
Chiến tranh văn hóa đặt bày
Đùn văn minh đến những ngày diệt tiêu
Phế hưng lịch sử phập phiều
Kìa chân Lăng-tít nọ bên trường thành
Hỡi nhà bác học Einstein
Nếu ngài trở lại nhân danh những gì
Ông rằng ta sẽ hàn chì
Hoặc sửa ống nước đường đi lưu hành
Ngoài kia sa mạc lưu danh
Dựng hình kim tự [pyramide] để danh đời đời
Người xưa trí đạt đến nơi
Trí lượng tích trữ thuộc thời gian năng
Thời gian năng lượng thăng bằng
Thời gian vật chất bởi tăng giảm tình
Tình trường chuyển động vô minh
Hành quay, thức hiện ái sinh luân hồi
Một màng trắng toát như vôi
Lấy vôi làm phấn viết "Tôi" lên tường
Đây là ký hiệu khôn lường
Ai từng khám phá sở trường của ai
Học thức trí mọn khôi hài
Chưa từng thoát hóa những bài tích phân
Tâm tham tích trữ ngu đần
Xem như tốt đẹp nhưng lần phải buông
Luân hồi huân biến thành khuôn
Đà - na vi tế tập tuồng bộc lưu
Giác tính mới thật tươi cười
Vì chân tính giác bằng mười trí khôn
Học thức quê nghèo cô thôn
Dạn dày bản ngã dập dồn quỷ ma
Lũy thừa [exponentiel] nào sánh ma ha
Thức còn sanh tử chữ tà hóa tôi
Học hành ông táo bình vôi
Nhờ cây đa nọ lên ngôi lão thần
Khuyên ai lý nghịch vi phân
Tự quan sát tĩnh một vầng nguyệt sâu
Đấy là vô tỷ nhiệm mầu
Tâm thân nhẹ rỗng, thần châu hiện về
Quăng đi trí thức nặng nề
Vất đi văn tự nhiêu khê hiểm nghèo
Buông tay chiếc rụng thu vèo
Tợ người giữa mộng vụt gieo giữa vời
Giựt mình tỉnh thức đâu nơi?
Mộng tâm mộng cảnh sự đời rã tan
Trong mơ đá đá vàng vàng
Nhân sinh cá lặn huyền quang tuyệt mù.
Lưu ý: Đây là sách có bản quyền. Không được sao chép khi chưa được sự cho phép của tác giả