Thời gian tồn tại của nhà Lý là

09:04, 27/06/2021

Triều đại nhà Lý bắt đầu từ năm 1010, khi Thái tổ Lý Công Uẩn được tôn lên ngôi vua và dời đô từ Hoa Lư [Ninh Bình] về Thăng Long. Đó là giai đoạn đất nước phát triển mạnh mẽ, mở đầu thời kỳ thế nước vươn cao, lòng dân đồng thuận đánh bại cuộc xâm lăng lần thứ hai của nhà Đại Tống.

Thế nhưng những năm tháng cuối cùng của thời nhà Lý lại là những bức tranh u ám đối lập hoàn toàn với thuở sơ khai. Những vị vua sau tài hèn đức mọn, đặc biệt Lý Cao Tông hoang chơi sa đọa, con trai Thái tử Lý Hạo Sảm u tối, nhu nhược. Đất nước Đại Việt bấy giờ lâm vào tình cảnh rối ren, vua Lý Cao Tông còn đang loay hoay không tìm ra lối thoát để đối phó sự nổi loạn của Quách Bốc [giặc nổi dậy]. Cuộc chiến giữa các sứ quân, hào trưởng địa phương ngày càng hỗn loạn và nhà Lý không còn khả năng trấn áp. Cuối cùng Lý Cao Tông bỏ kinh thành Thăng Long chạy trốn về Thiên Trường trú nhờ nhà dân làm nghề đánh cá. Trong thời gian này thái tử Sảm [con vua Cao Tông] lấy cô gái họ Trần [Trần Thị Dung] người vùng này làm vợ. Từ đó, anh em họ Trần chiêu mộ binh sĩ giúp Thái tử Sảm về kinh trừng trị bọn Quách Bốc, đón vua cha Lý Cao Tông về lại kinh thành, ông làm vua thêm một năm thì lâm bệnh rồi băng hà ở tuổi 38.

Vì sao Lý Chiêu Hoàng không được thờ trong tôn miếu nhà Lý?

Trong 9 vị vua nhà Lý, 8 vị được thờ tại đền Đô ở phía đông làng Cổ Pháp [nay là đền Lý Bát Đế thuộc khu phố Thượng, phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh] để ngày ngày đón hào quang bình minh; còn vua Lý Chiêu Hoàng thờ tại đền Rồng ở phía tây để hoàng hôn rọi vào rồi nhạt dần dành cho màn đêm buông xuống, bóng tối bao phủ ngôi đền ảm đạm như mang theo nỗi u uẩn số phận của một nữ vương. Có nhiều ý kiến khác nhau nhưng phần lớn cho rằng vì vua bà đã để mất ngôi nhà Lý, là mang tội với dòng họ, vì vậy không được thừa nhận và phải thờ riêng; cũng có ý kiến, do bà đã đi lấy chồng nên thuộc tôn thất nhà Trần, không được thờ chung với các bậc tiên vương. Tuy là một vị vua chính thức của vương triều nhà Lý nhưng Lý Chiêu Hoàng đã không được sử sách công nhận một cách công bằng.

Ngược dòng lịch sử, năm 1211 Thái tử Lý Hạo Sảm kế vị ngôi vua, lấy hiệu Huệ Tông. Bấy giờ các thế lực chống đối nổi lên như ong vỡ tổ, đói kém triền miên năm này qua năm khác; nói chung cơ nghiệp mà Lý Huệ Tông kế thừa từ vua cha là một vương triều đang lâm vào thời kỳ suy thoái.

Huệ Tông lúc 15 tuổi làm vua, quản triều chính mà tài đức thì kém cỏi, tính tình lại nhu nhược, u mê. Tháng 12-1216, Trần Thị Dung được phong làm Hoàng hậu. Kể từ đó, anh em, thân thuộc họ Trần chiếm hết các chức văn võ quan trọng trong triều. Trần Tự Khánh làm Phụ chính Thái úy, Trần Thừa làm Nội thị Phán thủ, họ là các anh trai của Hoàng hậu; chưa kể còn người em họ Trần Thủ Độ và hơn 500 anh em dòng tộc Trần nắm giữ những công việc quan trọng khác.

Lý Huệ Tông do không có con trai nên lập Chiêu Thánh công chúa Lý Chiêu Hoàng lên làm Thái tử và truyền ngôi báu, Lý Chiêu Hoàng tại vị ngai vàng được hai năm rồi nhường ngôi lại cho chồng là Trần Cảnh [tức Trần Thái Tông mở đầu cho vương triều Trần].

Trần Cảnh không được hậu thế gọi là Trần Thái Tổ

Triều đại nhà Trần cũng giống như nhà Lý, nhà Lê, nhà Nguyễn… nhưng sao Trần Cảnh không phải là Trần Thái Tổ? Thời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo được xem là quốc đạo, vì vậy các vua thường nắm triều chính vài năm thì nhường lại cho con để vào các chùa tu hành, phụng chức Thái Thượng hoàng, đồng thời “tu nhân tích đức” cho đời sau. Năm 1224, dưới sức ép của Trần Thủ Độ, vua Lý Huệ Tông chính thức nhường ngôi cho con gái là Chiêu thánh công chúa, tức Lý Chiêu Hoàng lúc này mới 6 tuổi, và ông vào chùa Chân Giáo tu hành.

Từ khi lên làm vua, Lý Chiêu Hoàng đau ốm triền miên, kéo dài hơn sáu tháng, gầy còm, xanh xao, kém ăn, mất ngủ, nhiều lang y tài giỏi trong nước được triệu vào cung bốc thuốc, tìm bệnh, chữa bệnh nhưng không hiệu quả. Lúc này Nội thị Phán thủ Trần Thừa có cậu con trai tên Trần Cảnh cũng tầm tuổi vua, lại có dáng vẻ khôi ngô. Trần Thủ Độ bày mưu cùng Trần Thừa đưa Trần Cảnh vào cung làm Chính thủ phục vụ vua nữ. Từ ngày đưa Trần Cảnh vào triều, hai đứa bé rất hợp nhau, bệnh vua thuyên giảm dần… Sách Khâm định Việt Sử Thông Giám Cương Mục viết: “Một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy cái khăn trầu ném cho Trần Cảnh. Trần Cảnh lạy, nhận lấy, rồi mách với Thủ Độ. Thủ Độ liền đem gia thuộc và họ hàng vào trong cung cấm, sai đóng các cửa thành lại. Trăm quan tiến triều không vào được. Thủ Độ nhân thế, loan báo cho mọi người: "Bệ hạ đã có chồng rồi!". Các quan đều vâng lời và xin chọn ngày vào hầu để làm lễ yết kiến”.

Dưới sự “đạo diễn” của Trần Thủ Độ, vở kịch chuyển giao ngôi vị từ họ Lý sang họ Trần kết thúc vào ngày 11 tháng Chạp năm Ất Dậu [1225], tại điện Thiên An, Lý Chiêu Hoàng xuống chiếu “nhường ngôi cho chồng”. Trần Cảnh mở đầu cho vương triều Trần nhưng hậu thế không gọi là Trần Thái Tổ bởi vì đây là sự sắp đặt của ba người lớn nắm quyền lực của họ Trần là Trần Thừa, Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung. Việc Trần Cảnh được họ Lý nhường ngôi lên làm vua lấy hiệu là Thái Tông thì theo lẽ cha Trần Cảnh là Trần Thừa, dù chưa làm vua giây phút nào vẫn được tôn lên làm Thượng hoàng. Trần Thừa sinh năm 1184 ở làng Tức Mạc, là con trưởng của Trần Lý [sau này giúp Lý Cao Tông dẹp loạn mà chết], là anh của dũng lược tướng quân Thái úy Trần Tự Khánh, Hoàng hậu Trần Thị Dung, anh họ Thái sư Trần Thủ Độ. Trần Thừa từ nhỏ đã theo cha và cậu đem quân về kinh dẹp giặc giúp vua Lý, sau lại cùng em là Trần Tự Khánh lập nhiều công lao đánh tan dư đảng giặc ngoài cõi nên được Lý Huệ Tông phong làm quan. Khi Trần Cảnh lên ngôi, Trần Thừa được tôn là Thượng hoàng trông coi việc nước. Trong chín năm ở ngôi Thượng hoàng, ông dung hòa mọi mâu thuẫn với các bậc cựu thần thời Lý để củng cố vương triều, tái thiết đất nước.

Có thể chưa nói hết những công lao của Trần Thừa với triều Trần, với dân tộc; nhưng với những việc kể trên chứng tỏ ông là người có tầm nhìn, góp công lớn trong buổi đầu khai nghiệp. Ông mất năm Giáp Ngọ [1234], hưởng dương 51 tuổi. Sau khi ông mất 12 năm, được truy tôn làm Thái Tổ nhà Trần [tức Trần Thái Tổ].

Võ Hữu Lộc

 

Nhà Lý đôi khi gọi là nhà Hậu Lý [để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập] là một triều đại trong nền quân chủ Việt Nam. Triều đại này bắt đầu khi Lý Công Uẩn lên ngôi vào tháng 10 âm lịch năm 1009 sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Tiền Lê. Triều đại này trải qua 9 vị hoàng đế và chấm dứt khi Lý Chiêu Hoàng, lúc đó mới có 7 tuổi, bị ép thoái vị để nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh vào năm 1225 – tổng cộng là 216 năm. 

 

 

Lý Thái Tổ [974-1028]

  • Tên đầy đủ: Lý Công Uẩn
  • Niên hiệu: Thuận Thiên
  • Thụy hiệu: Thần Vũ Hoàng đế
  • Miếu hiệu: Thái Tổ
  • Sinh: 8 tháng 3 năm 974 Từ Sơn, lộ Bắc Giang , Đại Cồ Việt
  • Mất: 31 tháng 3, 1028 [54 tuổi] Điện Long An, Thăng Long, Đại Cồ Việt
  • Tại vị: 21 tháng 11 năm 1009 –  31 tháng 3 năm 1028  [18 năm, 131 ngày]
  • An táng: Thọ Lăng
  • Vị hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam

Lý Thái Tổ [8 tháng 3 năm 974 – 31 tháng 3 năm 1028] tên thật là Lý Công Uẩn là vị hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời vào năm 1028.

Xuất thân là một võ quan cao cấp dưới triều Nhà Tiền Lê, năm 1009, nhân khi vị vua cuối cùng của nhà Tiền Lê là Lê Long Đĩnh qua đời, con trai còn nhỏ, Lý Công Uẩn được lực lượng của Đào Cam Mộc và thiền sư Vạn Hạnh tôn làm hoàng đế. Trong thời kỳ trị vì của mình, ông dành nhiều thời gian để đánh dẹp các nơi phản loạn, vì cơ bản nước Đại Cồ Việt vẫn chưa thu phục được lòng tin của các tộc người vùng biên cương. Triều đình trung ương dần được củng cố, các thế lực phiến quân bị đánh dẹp, kinh đô được dời từ Hoa Lư về thành Đại La vào tháng 7 năm 1010 và thành này được đổi tên thành Thăng Long, mở đầu cho sự phát triển lâu dài của nhà Lý tồn tại 216 năm.  

Lý Thái Tông [1000-1054]

  • Tên đầy đủ: Lý Phật Mã, Lý Đức Chính
  • Niên hiệu: Thiên Thành [1028 - 1033]Thông Thụy [1034 - 1038]Càn Phù Hữu Đạo [1039 - 1041]Minh Đạo [1042 - 1043]Thiên Cảm Thánh Vũ [1044 - 1048], Sùng Hưng Đại Bảo [1049 - 1054].
  • Thụy hiệu:
  • Miếu hiệu: Thái Tông
  • Sinh: 29 tháng 7 năm 1000, Hoa Lư, Đại Cồ Việt
  • Mất: 3 tháng 11 năm 1054 [54 tuổi], Điện Trường Xuân, Thăng Long, Đại Cồ Việt
  • Tại vị: 1 tháng 4 năm 1028 – 3 tháng 11 năm 1054 [26 năm, 216 ngày]
  • An táng: Thọ Lăng

Lý Thái Tông [29 tháng 7 năm 1000 – 3 tháng 11 năm 1054] là vị hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, cai trị trong 26 năm [1028–1054]. Ông được đánh giá là một vị hoàng đế tài giỏi, thời đại của ông, con ông là Lý Thánh Tông, cháu ông là Lý Nhân Tông được xem là thời thịnh vượng của nhà Lý, sử gọi thời kỳ này là Bách niên Thịnh thế.

Hoàng đế Thái Tông được mô tả uy dũng hơn người, bách chiến bách thắng, trải qua loạn ba vương mà lên ngôi, công danh rạng rỡ triều Lý. Ông củng cố quyền lực cho nhà Lý, bên trong dùng chính sách hòa thân, gả công chúa cho các quan Châu mục, bên cạnh đó còn dẹp loạn đảng làm phản như Loạn họ Nùng; bên ngoài Đế đánh được Chiêm Thành, công tích đánh dẹp uy nghi, tiền đề cho các đời sau phát triển phồn thịnh.

 

 Lý Thánh Tông [1023-1072]

  • Tên đầy đủ: Lý Nhật Tôn
  • Niên hiệu: Long Thụy Thái Bình [1054-1058], Thiên Thánh Gia Khánh [1059-1065], Long Chương Thiên Tự [1066-1068], Thiên Thống Bảo Tượng [1068-1069], Thần Vũ [1069-1072]
  • Thụy hiệu: Ứng Thiên Sùng Nhân Chí Đạo Uy Khánh Long Trường Minh Văn Duệ Võ Hiếu Đứng Thánh Thần Hoàng đế
  • Miếu hiệu: Thánh Tông
  • Sinh: 30 tháng 3 năm 1023
  • Mất: 1 tháng 2 năm 1072 [48 tuổi]
  • Tại vị: 3 tháng 11 năm 1054 – 1 tháng 2 năm 1072 [17 năm, 90 ngày]
  • An táng: Thọ Lăng

Lý Thánh Tông [30 tháng 3 năm 1023 – 1 tháng 2 năm 1072] là vị hoàng đế thứ ba của hoàng triều Lý nước Đại Việt, trị vì từ tháng 11 năm 1054 đến khi qua đời năm 1072. Trong thời kỳ cầm quyền của mình, Lý Thánh Tông đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, khoan giảm hình phạt, đồng thời bảo trợ Phật giáo và Nho giáo. Ông còn xây dựng quân đội Đại Việt hùng mạnh, thực hiện chính sách đối ngoại cứng rắn với Đại Tống và mở đất về ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính [nay là một phần thuộc Quảng Bình và Quảng Trị, Bắc Trung Bộ Việt Nam] sau thắng lợi trong cuộc chiến tranh Việt - Chiêm [1069]. Sử thần đời Hậu Lê Ngô Sĩ Liên viết về Lý Thánh Tông: "Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc vua tốt".

Thời đại của cha ông là Lý Thái Tông, ông và con ông là Lý Nhân Tông được xem là thời thịnh vượng của Nhà Lý với tên gọi là Bách niên Thịnh thế.

 

 Lý Nhân Tông [1066-1128]

  • Tên đầy đủ: Lý Càn Đức
  • Niên hiệu: Thái Ninh [1072-1076], Anh Vũ Chiêu Thắng [1076-1084], Quảng Hựu [1085-1092], Hội Phong [1092-1100], Long Phù [1101-1109], Hội Tường Đại Khánh [1110-1119], Thiên Phù Duệ Vũ [1120-1126], Thiên Phù Khánh Thọ [1127-1127]
  • Thụy hiệu: Hiếu Thiên Thể Đạo Thánh Văn Thần Vũ Sùng Nhân Ý Nghĩa Hiếu Từ Thuần Thành Minh Hiếu Hoàng Đế
  • Miếu hiệu: Nhân Tông
  • Sinh: 22 tháng 2 năm 1066, Cung Động Tiên, Thăng Long
  • Mất: 15 tháng 1 năm 1128 [61 tuổi], Điện Vĩnh Quang, Thăng Long
  • Tại vị: 1072 – 1128
  • An táng: Lăng Thiên Đức

 Lý Nhân Tông [22 tháng 2 năm 1066 – 15 tháng 1 năm 1128] là vị hoàng đế thứ tư của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì Đại Việt từ năm 1072 đến năm 1128, tổng cộng 56 năm, cũng là vị vua có thời gian trị vì lâu nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

Dưới thời trị vì của Nhân Tông, nước Việt phồn vinh, "dân được giàu đông". Ông rất quan tâm đến nông nghiệp – thủy lợi, đã cho đắp đê ở nhiều nơi và mở rộng luật cấm giết trâu. Thời Nhân Tông còn nổi bật với việc tổ chức khoa thi Nho học đầu tiên của Đại Việt [1075] và xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám [1076]. Phật giáo cũng phát triển; nhà vua và mẹ là Linh Nhân đều là những Phật tử mộ đạo, đã cho xây nhiều chùa tháp và khuyến khích việc hành đạo của các thiền sư. Về đối ngoại, năm 1075, đế quốc Tống dòm ngó Đại Việt, Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đi đánh, liên tiếp phá tan quân Tống ở 3 châu Ung, Khâm, Liêm [đất Tống] và sông Như Nguyệt [đất Việt]. Sau năm 1077, giữa Việt và Tống không còn cuộc chiến lớn nào. Trong khi đó các nước Chiêm Thành, Chân Lạp thần phục Đại Việt, thường gửi sứ sang cống.

Tuy ở ngôi lâu năm, Lý Nhân Tông không có con trai để nối dõi. Ông nhận nuôi một người cháu là Lý Dương Hoán rồi lập làm thái tử. Đó là Lý Thần Tông, làm vua trong vòng 11 năm sau khi Nhân Tông mất. Thời đại của Lý Nhân Tông cùng với ông nội là Lý Thái Tông và cha là Lý Thánh Tông được xem là thời thịnh vượng của Nhà Lý với tên gọi là Bách niên Thịnh thế.

 

   

Lý Thần Tông [1116 – 1138]

  • Tên đầy đủ: Lý Dương Hoán
  • Niên hiệu: Thiên Thuận [1128-1132], Thiên Chương Bảo Tự [1133-1138]
  • Thụy hiệu: Quảng Nhân Sùng Hiếu Văn Vũ Hoàng đế 
  • Tôn hiệu: Thuận Thiên Quảng Vận Khâm Minh Nhân Hiếu Hoàng đế, Thuận Thiên Duệ Vũ Tường Linh Cảm Ứng Khoan Nhân Quảng Hiếu Hoàng đế
  • Miếu hiệu: Thần Tông
  • Sinh: năm 1116, Thăng Long
  • Mất: 31 tháng 10 năm 1138, Điện Vĩnh Quang, Thăng Long
  • Tại vị: 1128 – 1138
  • An táng: Thọ Lăng

Lý Thần Tông [1116 – 1138] là vị hoàng đế thứ năm của triều đại nhà Lý nước Đại Việt. Ông trị vì từ năm 1128 đến khi qua đời năm 1138, tổng cộng là 10 năm.

Dù lên ngôi khi mới 11 tuổi, Lý Thần Tông đã tin dùng những người phụ chính như Trương Bá Ngọc, Dương Anh Nhị và Lý Công Bình, thực hiện chính sách cai trị khoan dung và duy trì sự ổn định của Đại Việt. Thời này Chân Lạp và Chiêm Thành vài lần đánh phá nước Việt, Thần Tông phải sai tướng đi đánh đuổi. Bên cạnh đó, Thần Tông bị sử sách phê phán vì quá mê tín vào các "điềm làn"

 

Lý Anh Tông [1136-1175]

  • Tên đầy đủ: Lý Thiên Tộ
  • Niên hiệu: Thiệu Minh [1138 - 1139, Đại Định [1140 - 1162], Chính Long Bảo Ứng[1163 - 1173], Thiên Cảm Chí Bảo [1174 - 1175]
  • Tôn hiệu: Thể Thiên Thuận Đạo Duệ Văn Thần Võ Thuần Nhân Hiển Nghĩa Huy Mưu Thánh Trí Ngự Dân Dục Vật Quần Linh Phi Ứng Đại Minh Chí Hiếu Hoàng Đế
  • Miếu hiệu: Anh Tông
  • Sinh: năm 1136, Thăng Long
  • Mất: 14 tháng 8 năm 1175 [38–39 tuổi], Thăng Long, Đại Việt
  • Tại vị: 1138 – 1175
  • An táng: Thọ Lăng

Lý Anh Tông [1136 - 14 tháng 8 năm 1175] là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1138 tới năm 1175, tổng cộng 37 năm.

Vua Anh Tông tên thật là Lý Thiên Tộ, con thứ của vua Lý Thần Tông. Năm 1138, vua Thần Tông mất sớm, nên thái tử Thiên Tộ mới 3 tuổi đã lên ngôi, lấy hiệu là Anh Tông. Mẹ ông là Thái hậu họ Lê được tôn làm nhiếp chính. Nhưng bản thân thái hậu lại dựa vào Thái úy Đỗ Anh Vũ, một đại thần chuyên quyền, khiến nhiều quan lại căm ghét. Năm 1150, một số tôn thất và quan viên làm binh biến? bắt Đỗ Anh Vũ, nhưng thái hậu gây sức ép buộc nhà vua phục chức cho ông ta. Ngay sau đó, Đỗ Anh Vũ mở đường tổ chức các cuộc thanh trừng đẫm máu đối với những người chống đối. Kể cả khi vua Anh Tông đã trưởng thành, Đỗ Anh Vũ vẫn nắm đại quyền trong triều.

Năm 1158, Đỗ Anh Vũ chết, vua Anh Tông phong Tô Hiến Thành làm thái úy. Tô Hiến Thành giúp Anh Tông rất đắc lực; tiến hành đem quân đi tuần nơi biên giới, đánh quân Chiêm Thành, Ngưu Hống, ngăn Ai Lao xâm nhập biên cương phía tây. Vua Anh Tông còn đích thân vi hành khắp các xứ, biết sự đau khổ của dân gian cũng như đường đi xa gần.

Nhà vua đặt ra Xạ Đình, sai các quan võ hàng ngày luyện tập binh pháp. Cuối đời, vua Anh Tông lập hoàng tử thứ 6 là Lý Long Trát làm thái tử, vì con trưởng là Lý Long Xưởng ve vãn cung nữ của cha. Khi vua Anh Tông chết năm 1175, Long Trát lên ngôi khi mới 2 tuổi, tức vua Lý Cao Tông. 

 Lý Cao Tông [1173-1210]

  • Tên đầy đủ: Lý Long Cán
  • Niên hiệu: Trinh Phù [1176 - 1185], Thiên Tư Gia Thụy [1186 - 1201], Thiên Gia Bảo Hựu [1202 - 1204], Trị Bình Long Ứng [1205 - 1210]
  • Tôn hiệu: Ứng Thiên Ngự Cực Hoành Văn Hiến Vũ Linh Thiệu Chiếu Phù Chương Đạo Chí Nhân Ái Dân Lý Vật Duệ Mưu Thần Trí Cảm Hóa Cảm Chánh Thuần Phu Huệ Thị Từ Tuy Du Kiến Mỹ Công Toàn Nghiệp Thịnh Long Hiện Thần Cư Thánh Minh Quang Hiếu Hoàng Đế
  • Miếu hiệu: Cao Tông
  • Sinh: 6 tháng 7 năm 1173
  • Mất: 15 tháng 11 năm 1210 [37 tuổi]
  • Tại vị: 1175 - 1210
  • An táng: Thọ Lăng

Lý Cao Tông [6 tháng 7 năm 1173 – 15 tháng 11 năm 1210] là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Lý, cai trị từ năm 1175 đến năm 1210. Thời kỳ của ông đánh dấu sự suy tàn không thể vực dậy của nhà Lý hay còn gọi là Cao Tông Trung Suy.

Lý Huệ Tông [1194 – 1226]

  • Tên đầy đủ: Lý [Hạo] Sảm
  • Niên hiệu: Kiến Gia [1210 – 10/1224]
  • Tôn hiệu: Tự Thiên Thống Ngự Khâm Nhân Hoành Hiếu Hoàng đế
  • Miếu hiệu: Huệ Tông
  • Sinh: năm 1194, Thăng Long
  • Mất: 3 tháng 9, 1226 [31–32 tuổi], Chùa Chân Giáo, Thăng Long, Đại Việt
  • Tại vị: 1210 – 1224
  • An táng: Thọ Lăng Thiên Đức, Đại Việt

Lý Huệ Tông [1194 – 1226] là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lý, cai trị từ năm 1210 đến năm 1224. Ông tên thật là Lý Sảm hay Lý Hạo Sảm, sinh tại kinh đô Thăng Long, Đại Việt. 

  • Tên đầy đủ: Lý Phật Kim, Lý Thiên Hinh
  • Niên hiệu: Thiên Chương Hữu Đạo [1224 - 1225]
  • Thụy hiệu:
  • Miếu hiệu: 
  • Sinh: Tháng 9 năm Mậu Dần [1218], Thăng Long
  • Mất: Tháng 3 năm Mậu Dần [1278][61 tuổi], Cổ Pháp
  • Tại vị: 1224 - 1225
  • An táng: rừng Báng [?]

Lý Chiêu Hoàng [1218 - 1278], còn được gọi là Chiêu Thánh Hoàng hậu, là Hoàng đế thứ 9 và cũng là cuối cùng của triều đại nhà Lý, trị vì từ năm 1224 đến năm 1225. Bà là Nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam, nhưng không phải là vị vua nữ giới đầu tiên, vị nữ quân chủ đầu tiên là Nữ vương Trưng Trắc. Bà được chính vua cha Lý Huệ Tông ra chỉ truyền ngôi, dù bên trong có khả năng do sự sắp đặt của Điện tiền Chỉ huy sứ Trần Thủ Độ, người đang nắm quyền lực trong triều đồng thời cũng là chú họ bên ngoại của bà.

Năm 1226, Chiêu Hoàng được Trần Thủ Độ sắp xếp nhường ngôi cho Trần Cảnh [Trần Thái Tông], triều đại nhà Lý cai trị Đại Việt hơn 200 năm đã chính thức kết thúc. Sau khi nhượng vị, Chiêu Hoàng trở thành hoàng hậu của Thái Tông cho đến khi bị phế truất vào năm 1237 vì không sinh được con nối dõi. Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu, người kế vị ngôi hoàng hậu sau đó, chính là chị ruột của bà. Sau năm 1258, ở tuổi 40, bà tái giá lấy Lê Phụ Trần, một viên tướng có công cứu giúp Trần Thái Tông khỏi bị truy kích trong lần quân Nguyên vào cướp. Hai người sống với nhau hơn 20 năm và sinh được 1 trai là Thượng vị hầu Lê Tông và 1 gái là Ứng Thụy Công chúa. Bà qua đời ngay sau Thái Tông khoảng 1 năm.

Video liên quan

Chủ Đề