Văn kiện của Trung ương Đảng vạch ra nhiệm vụ của cách mạng miền Nam sau Hiệp định Pari là

Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973. Ảnh: Tư liệu

[Stxdd.thanhuytphcm.vn] - Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris, hiệp định chấm dứtchiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, được ký kết tại Paris [Pháp]. Để đi đến các thỏa thuận tại Paris, phía Việt Nam [gồm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, sau này là Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam] và phía Mỹ [gồm Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa] đã phải trải qua 201 phiên họp công khai, 45 cuộc họp riêng cấp cao. Song song đó, trong 5 năm từ 1968 đến 1973, các bên đã có khoảng 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn; tại Mỹ và một số nước đã diễn ra hàng ngàn cuộc mít tinh chống chiến tranh, ủng hộ Việt Nam.

Từ Hiệp định Paris, quân xâm lược Mỹ đã phải cuốn cờ rút khỏi Việt Nam [diễn ra chính thức vào ngày 28/3/1973], tạo thế xoay chuyển có lợi cho cách mạng Việt Nam, từng bước dẫn đến ngày toàn thắng 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 25/1/2013, tại lễ kỷ niệm 40 năm ký Hiệp định Paris, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã phát biểu: “Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, kết thúc thắng lợi cuộc đấu tranh ngoại giao dài nhất, khó khăn nhất trong lịch sử ngoại giao nước ta ở thế kỷ XX; đánh dấu thắng lợi lịch sử của nhân dân ta sau hơn 19 năm đấu tranh kiên cường, bất khuất trên các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao chống Mỹ xâm lược […] Hiệp định Paris là đỉnh cao thắng lợi của mặt trận ngoại giao nước ta thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, là mốc son trong trang sử vàng của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam”.

Phát biểu với báo chí nhân kỷ niệm 40 năm ký Hiệp định Paris, ông Trịnh Ngọc Thái, thành viên đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Pháp, khẳng định: “Cuộc đàm phán Paris về Việt Nam đã trở thành trung tâm chú ý của dư luận thế giới vì cuộc đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là tâm điểm của những mâu thuẫn cơ bản của thời đại lúc bấy giờ. Việc ký kết Hiệp định là sự tháo nút cho cuộc chiến tranh ác liệt và lâu dài nhất trên thế giới sau chiến tranh thế giới lần thứ hai... Đàm phán Paris được đánh giá là cuộc đấu trí căng thẳng giữa 2 nền ngoại giao. Đó là nền ngoại giao trên thế mạnh của Mỹ và nền ngoại giao nhân văn của Việt Nam”.

Nhìn lại sự kiện ký kết Hiệp định Paris, chúng ta rút ra nhiều bài học quan trọng và có thể vận dụng vào việc xử lý các vấn đề đối ngoại trong giai đoạn hiện nay.

Thứ nhất, giữ vững các nguyên tắc trên tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Lập trường của ta trong các cuộc đàm phán là luôn khẳng định tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam; lên án tội ác chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trên hai miền Nam, Bắc Việt Nam; đòi Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam; yêu cầu chấm dứt hoàn toàn và không điều kiện việc ném bom miền Bắc Việt Nam của Mỹ… Chúng ta đã linh hoạt ứng xử trong các tình huống cụ thể nhưng không bao giờ từ bỏ các nguyên tắc đó và chúng ta đã chiến thắng…

Hiện nay, trong vấn đề chủ quyền của Việt Nam ở biển Đông, chúng ta cũng đã giữ vững quan điểm Việt Nam có chủ quyền không thể tranh cãi ở biển Đông, trong đó có các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, và điều đó là “bất biến”. Trong từng điều kiện cụ thể, chúng ta có thể có thể linh hoạt thực hiện các biện pháp đấu tranh, bảo vệ chủ quyền sao cho phù hợp với luật pháp quốc tế và điều kiện thực tế của đất nước, ấy chính là “vạn biến”.

Thứ hai, phải luôn kiên quyết, kiên trì, sử dụng đồng thời các thắng lợi khác để bổ trợ cho công tác đối ngoại. Thắng lợi của Hiệp định Paris là một thắng lợi về mặt ngoại giao nhưng cũng là thắng lợi chung của cách mạng Việt Nam cả về chính trị, quân sự… Nếu không có từng chiến thắng ở các chiến dịch, trận đánh cụ thể thì Mỹ không bao giờ chịu ngồi vào bàn đàm phán, hoặc không bao giờ từ bỏ các yêu sách phi lý của mình. Trong đó, thắng lợi ở trận “Điên Biên Phủ trên không” cuối năm 1972 đã bẻ gãy hoàn toàn ý chí xâm lược của Mỹ và buộc Mỹ phải chấp nhận đàm phán cũng như chấp nhận các đề nghị của Việt Nam.

Vận dụng bài học này, để khẳng định quan điểm của Việt Nam trong các đàm phán quốc tế, cần thể hiện vị thế của nước ta ở nhiều lĩnh vực, nhất là chính trị, kinh tế, văn hóa và cả quân sự. Như trong các đàm phán thương mại song phương, có đối tác đưa ra các yêu sách phi lý về nhân quyền, về các vấn đề nội bộ, về nền kinh tế thị trường…; bên cạnh việc kiên trì giải thích, thuyết phục, chúng ta luôn chứng minh bằng các lý lẽ cụ thể về các thành tựu bảo vệ quyền con người ở nước ta, về uy tín của đất nước trên trường quốc tế, về tính hội nhập và đặc điểm thị trường của nền kinh tế…

Thứ ba, tôn trọng các cam kết nhưng không bao giờ mất cảnh giác. Ngay trước và sau Hiệp định Paris, chính quyền Sài Gòn liên tiếp vi phạm Hiệp định bằng cách ráo riết thực hiện Chiến dịch Tràn ngập lãnh thổ từ đêm 24/1/1973 và hàng loạt kế hoạch quân sự trong toàn bộ năm 1973, đầu năm 1974; đồng thời thực hiện các kế hoạch như Hùng Vương, Lý Thường Kiệt [1973 - 1974] và kế hoạch toàn diện lâu dài [1973 - 1978] nhằm nhanh chóng bình định miền Nam Việt Nam… Đối phó với âm mưu, thủ đoạn này, ta đã có nhiều giải pháp từ trong nội bộ và hành động cụ thể về mặt chính trị, quân sự và từng bước làm phá sản các kế hoạch của địch trước khi đánh đổ hoàn toàn chế độ này...

Hiện nay, chúng ta ký kết nhiều thỏa thuận, hiệp định, hiệp ước song phương, đa phương với nhiều đối tác. Trong quá trình thực hiện, không tránh khỏi những cách hiểu khác nhau, sự vận dụng khác nhau vào từng thời điểm, thậm chí có cả những âm mưu, thủ đoạn phá hoại. Do đó, bài học cảnh giác vẫn phải luôn được thực hiện một cách thường xuyên và triệt để.

Thứ tư, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế nhưng phải dựa vào sức mình là chính. Hiệp định Paris là “niềm cổ vũ lớn lao đối với nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới, những người đã đồng hành ủng hộ, giúp đỡ nhân dân ta trong suốt cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ, dõi theo từng diễn biến trên chiến trường cũng như trên bàn đàm phán tại Paris. Hiệp định Paris là sự minh chứng hùng hồn cho chân lý “đại nghĩa thắng hung tàn, chí nhân thay cường bạo”, củng cố niềm tin của nhân dân yêu chuộng hòa bình và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới vào sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa”, như phát biểu của Chủ tịch Trương Tấn Sang tại lễ kỷ niệm 40 năm ngày ký Hiệp định này. Tuy nhiên, nếu bản thân cách mạng Việt Nam không tự lực, tự cường thì không thể đi đến Hiệp định cũng không thể đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân tiến bộ trên thế giới…

Hiện nay, việc xử lý các vấn đề liên quan đến chủ quyền trên biển Đông của Việt Nam cơ bản được thế giới đánh giá cao và ủng hộ. Như trong cuộc đấu tranh với việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD 981 trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam năm 2014, gần như cả thế giới đứng về phía Việt Nam. Tuy nhiên, sự ủng hộ đó chỉ trở thành sức mạnh vật chất thực sự khi kết hợp với các sức mạnh khác từ nội lực của chúng ta, như về chính trị, kinh tế, ngoại giao, kể cả sức mạnh quốc phòng.

*

Có thể nói, thắng lợi của Hiệp định Paris đã mở ra một bước ngoặt mới cho cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Quá trình đi đến việc ký kết và bản thân Hiệp định đã để lại cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học quý giá. Trong bối cảnh hiện nay, các bài học đó cần được nghiên cứu và vận dụng một cách hợp lý để tiếp tục thúc đẩy cách mạng nước ta phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

Vân Tâm

Tin liên quan

 Lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ muốn thay chân Pháp biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, làm bàn đạp tấn công miền Bắc, ngăn chặn làn sóng đấu tranh cách mạng ở khu vực Đông Nam Á. Sau khi dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, chúng liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét, bình định miền Nam với chính sách “tố cộng”, “diệt cộng”, “đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật”, ra đạo luật 10/59, thực hiện khẩu hiệu “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”, thẳng tay đàn áp các phong trào đấu tranh của nhân dân ta. “Chỉ trong 4 năm [từ 1955-1958], ở Nam Bộ chỉ còn khoảng 5.000 so với 60.000 đảng viên trước đó. Ở đồng bằng Liên khu V, có khoảng 40% tỉnh ủy viên, 60% huyện ủy viên, 70% chi ủy viên bị địch giết hại, 12 huyện không còn cơ sở đảng”[1]. Chế độ thống trị của Mỹ-Diệm ở miền Nam lúc bấy giờ là một chế độ độc tài, hiếu chiến. Chúng ngang nhiên phá hoại Hiệp định Giơnevơ, mưu tính chia cắt lâu dài nước ta. Đứng trước những diễn biến phức tạp đó, lịch sử đặt ra cho Đảng Lao động Việt Nam một yêu bức thiết là phải vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi.

         Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng [7/1954] nhận định: “Hiện nay, đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương. Cho nên, mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ”.[2] Từ đó, Đảng ta chỉ đạo “phải tích cực xây dựng, củng cố và phát triển lực lượng cách mạng thì mới có thể có điều kiện nắm lấy thời cơ thuận lợi và giành lấy thắng lợi cuối cùng”[3]. Trải qua nhiều hội nghị, chủ trương của Đảng về chiến lược cách mạng giải phóng miền Nam từng bước được hình thành.

         Trong tình hình mới, nhiệm vụ của Đảng đối với cách mạng miền Nam là “lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến, củng cố hòa bình, thực hiện tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập. Đồng thời, phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống những hành động khủng bố, đàn áp, phá cơ sở của ta, bắt bớ cán bộ ta và quần chúng cách mạng; chống những hành động tiến công của địch”[4]. Mục đích của cách mạng miền Nam “là phải đánh đổ chính quyền Mỹ-Diệm, thực hiện một chính quyền liên hiệp dân chủ có tính chất dân tộc, độc lập để giải phóng nhân dân miền Nam khỏi ách đế quốc”[5]. Trước yêu cầu đó, tháng 10/1954, Xứ ủy Nam Bộ được thành lập do đồng chí Lê Duẩn - Ủy viên Bộ Chính trị làm Bí thư. Tháng 12/1956, đường lối cách mạng miền Nam được thông qua, trong đó khẳng định “để chống Mỹ-Diệm, nhân dân miền Nam chỉ có con đường cứu nước và tự cứu mình là con đường cách mạng ngoài con đường cách mạng không có con đường nào khác”[6]. Hội nghị lần thứ mười ba Ban Chấp hành Trung ương khóa II [12/1957] nhấn mạnh “khi ta đồng thời chấp hành hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm cách mạng nói trên đều quan trọng, coi nhẹ nhiệm vụ nào cũng đều sai lầm”[7].

         Trên cơ sở nhận định tình hình miền Nam dưới chế độ Mỹ-Diệm, Nghị quyết Hội nghị lần thứ mười lăm của Đảng [01/1959] đã vạch rõ: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”[8]. Con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp đấu tranh chính trị và vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam. Hội nghị nhận định “đế quốc Mỹ là đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ... và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta”[9]. Nghị quyết nêu rõ cần tăng cường công tác mặt trận để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố, xây dựng Đảng bộ miền Nam vững mạnh đủ sức lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi.

         Sự ra đời của Nghị quyết 15 có ý nghĩa vô cùng to lớn, đáp ứng đúng yêu cầu của lịch sử, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên. Nghị quyết 15 chính là ngọn lửa châm ngòi cho phong trào “Đồng khởi” trên quy mô lớn tại các tỉnh Nam Bộ và Khu V nhất tề đứng lên. Tiêu biểu như cuộc khởi nghĩa ở Bắc Ái [2/1959], Trà Bồng [8/1959], Tua Hai [1/1960], đặc biệt là phong trào nổi dậy ở tỉnh Bến Tre. Phong trào “Đồng khởi” như tức nước vỡ bờ lan nhanh ra khắp Nam Bộ, Tây Nguyên và Trung Trung Bộ. Đến cuối năm 1960, về cơ bản cách mạng đã làm tan rã trên 2/3 bộ máy chính quyền địch ở nông thôn, “làm chủ được 600 trong tổng số 1298 xã, trong đó có 116 xã được hoàn toàn giải phóng. Ở các tỉnh đồng bằng ven biển Trung Bộ, có 904 trong tổng số 3829 thôn được giải phóng. Tây Nguyên có tới 3200 trong tổng số 5721 thôn không còn chính quyền ngụy”[10]. Dưới sự chỉ đạo kịp thời, sáng suốt của Đảng cùng với thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” đã tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng cách mạng phát triển nhanh chóng. Công tác xây dựng đảng, phát triển đảng viên được đẩy mạnh. Hàng nghìn chi bộ được khôi phục, phát triển ở tất cả các đảng bộ miền Tây, miền Trung và miền Đông Nam Bộ. Số lượng đảng viên tăng nhanh từ 7.641 đảng viên [cuối năm 1959] đã tăng lên 12.946 đảng viên [cuối năm 1960]. Sự khôi phục nhanh chóng của các tổ chức cơ sở đảng đã tạo chuyển biến mạnh mẽ và động lực quan trọng cho các lực lượng chính trị, vũ trang miền Nam phát triển. “Ở miền Đông Nam Bộ, đã xây dựng được 40 trung đội tập trung và 60 đội tự vệ vũ trang; miền Trung Nam Bộ có 36 trung đội và 68 đội tự vệ xã; miền Tây Nam Bộ xây dựng được 37 trung đội và 150 đội tự vệ xã”[11]. Có thể thấy, phong trào “Đồng khởi” đã giáng đòn chí tử vào chế độ Mỹ-Diệm, đẩy chúng rơi vào tình thế bị động lúng túng, buộc phải thay đổi chiến lược đối phó với cách mạng miền Nam. Phong trào “Đồng khởi” thắng lợi đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Từ trong khí thế đó, ngày 20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, góp phần quy tụ, phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc.

         Thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” chính là “biểu hiện cụ thể, sinh động của sự vận dụng sáng tạo Nghị quyết 15 vào thực tiễn đấu tranh của các cấp ủy Đảng và nhân dân miền Nam […] đưa cách mạng thoát khỏi thế hiểm nghèo, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, tạo tiền đề quan trọng cho quân và dân ta đánh bại các chiến lược quân sự của Mỹ trong những năm tiếp theo của cuộc kháng chiến”[12] góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

[1] Lê Mậu Hãn [Chủ biên], Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư, Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập III, Nxb Giáo dục, H.2007, tr.159-160

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, h.2001. tr.172

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002. tr.82-83

[4] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, H.2006, tr.205

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 17, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002. tr.787

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 17, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002. tr.785

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 18, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002. tr.771-772

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002. tr.81

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002. tr.85

[10] Đinh Xuân Lâm [Chủ biên], Nguyễn Xuân Minh, Trần Bá Đệ, Lịch sử 12, Nxb Giáo dục, H.2006, tr.131

[11] Phong trào Đồng khởi-50 năm nhìn lại, Nxb Chính trị quốc gia, H.2010, tr.52

[12] Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Phong trào Đồng khởi miền Nam 1960-Bước ngoặt chiến lược của cuộc kháng chiến chống mỹ, cứu nước, Tạp chí  Lịch sử Đảng, số 350 [1/2020], tr.11

Video liên quan

Chủ Đề