Vì sao nhà Hán thất bại trong âm mưu đồng hóa dân tộc ta

Bài 6 trang 71 SBT sử 10

Quảng cáo

Đề bài

Theo em, vì sao trong hơn 1000 năm Bắc thuộc, nhân dân ta vẫn không bị đồng hoá?

Phương pháp giải - Xem chi tiết

Xem lại mục 1. Chế độ cai trị của các triều đại phong kiến phương Bắc và những chuyển biến trong kinh tế, văn hóa, xã hội Việt Nam

Lời giải chi tiết

Trong hơn 1000 năm Bắc thuộc, nhân dân ta không bị đồng hoá. Vì:

- Người Việt đã có ý thức về một nền văn hóa của riêng mình và có “ý thức dân tộc” trước khi bị đô hộ. Đó làý thức hệ, tiếng nói [Việt - Mường], chữ viết và văn hoá riêng. Khi người Hán sang đô hộ còn bị đồng hoá ngược lại.

- Tinh thần dân tộc, kiên quyết đấu tranh của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của những thủ lĩnh xuất sắc như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí, Mai Thúc Loan,... Nhân dân ta liên tục đứng lên đấu tranh lật đổ chính quyền đô hộ, quyết giành độc lập dân tộc.

- Sự bất ổn trong chính sách cai trị và đồng hóa từ phương Bắc. Suốt 1000 năm Bắc thuộc, ở Trung Hoa cũng có nhiều biến động về kinh tế, chính trị, xã hội nên không thể tập trung cho việc đồng hóa người Việt.

- Sự khác biệt về môi trường sinh sống, khí hậu và thời tiết dẫn tới sự đặc thù của sản xuất. Người Hán sang nước ta cũng phải làm việc và sinh sống theo nhân dân ta để thích nghi với thời tiết, khí hậu,...

- Bộ máy cai trị của chính quyền phương Bắc chưa vươn tới làng - xã [ở cấp làng - xã vẫn do người Việt đứng đầu]. Làng - xã là nơi khởi nguồn, lưu giữ và phát huy nền văn hóa đặc sắc của dân tộc.

Loigiaihay.com

Bài tiếp theo

  • Bài 7 trang 71 SBT sử 10

    Giải bài tập 7 trang 71 sách bài tập Lịch sử 10. Vì sao xã hội nước ta thời Bắc thuộc lại có những chuyển biến?

  • Bài 8 trang 71 SBT sử 10

    Giải bài tập 8 trang 71 sách bài tập Lịch sử 10. Tại sao làng xóm của người Việt trở thành nơi xuất phát của các

  • Bài 5 trang 71 SBT sử 10

    Giải bài tập 5 trang 71 sách bài tập Lịch sử 10. Bằng những kiến thức đã học hãy làm rõ mưu đồ đồng hoá dân tộc

  • Bài 4 trang 70 SBT sử 10

    Giải bài tập 4 trang 70 sách bài tập Lịch sử 10. Mục đích của chính quyền đô hộ khi thực hiện chính sách độc quyền

  • Bài 3 trang 70 SBT sử 10

    Giải bài tập 3 trang 70 sách bài tập Lịch sử 10. Hãy điền vào bảng sau những thông tin cần thiết để làm rõ những

Quảng cáo
Báo lỗi - Góp ý

Mục lục

Mục lục

Từ nguyênSửa đổi

Theo Sử ký, sau khi nhà Tần sụp đổ, bá vương Hạng Vũ phong cho Lưu Bang làm vương của vùng đất phong nhỏ Hán Trung được đặt tên theo địa thế ven sông Hán. Về sau, Lưu Bang giành chiến thắng Chiến tranh Hán – Sở, thành lập và đặt tên triều đại mới theo tên vùng đất phong Hán Trung.[7]

Lịch sửSửa đổi

Bài chi tiết: Lịch sử nhà Hán
Xem thêm thông tin: Niên biểu nhà Hán

Tây HánSửa đổi

Xem thêm: Chiến tranh Hán – Hung Nô và Mở rộng về phía nam của nhà Hán
Xem thêm thông tin: Lâu Lan, Sơ Lặc, Vu Điền, Saka, và Tochari

Hoàng triều đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc là nhà Tần [221 TCN – 207 TCN]. Dù đã chinh phục và thống nhất toàn bộ quốc gia thời Chiến quốc, nhà Tần lâm vào tình trạng bất ổn chính trị ngay sau cái chết của vị hoàng đế đầu tiên Tần Thủy Hoàng. Chỉ trong vòng bốn năm, quyền lực hoàng triều tiêu tan trước áp lực từ nhiều cuộc nổi loạn.[8] Hai nhà cựu lãnh đạo phiến quân là Sở vương Hạng Vũ và Hán vương Lưu Bang, bước vào một cuộc chiến phân định xem ai sẽ là người làm chủ Trung Quốc, giờ đây đã chia thành 18 tiểu quốc đều tuyên bố trung thành với Hạng Vũ hoặc Lưu Bang.[9] Mặc dù tự khẳng định bản thân là một nhà chỉ huy tài ba, Hạng Vũ vẫn bị Lưu Bang đánh bại tại Trận Cai Hạ vào năm 202 TCN. Theo lời thúc giục của bề tôi, Lưu Bang xưng hiệu "hoàng đế", trở thành Hán Cao Tổ [trị. 202 TCN – 195 TCN].[10] Trường An được chọn làm kinh đô mới của Đế quốc Hán thống nhất.[11]

Đầu thời Tây Hán, một phần ba lãnh thổ đế quốc ở phía tây chia thành 13 quận do trung ương trực tiếp quản lý. Trong khi đó, hai phần ba lãnh thổ đế quốc ở phía đông chia thành 10 vương quốc bán tự trị.[12] Để phủ dụ các tướng lĩnh chiến hữu từng cùng chiến đấu với nước Sở, Hán Cao Tổ phong vương cho một vài người trong số họ.

Đến năm 196 TCN, triều đình nhà Hán thay thế gần như tất cả vị vương trên khắp đế quốc [trừ Trường Sa] bằng các hoàng thân họ Lưu, vì ngờ vực lòng trung thành của những người không mang trong mình dòng máu hoàng gia.[12] Sau một số cuộc nổi loạn của các vị vương – lớn nhất là Loạn bảy nước – triều đình ban hành hàng loạt cải cách bắt đầu từ năm 145 TCN, nhằm hạn chế quy mô và quyền lực của các vương quốc bán tự trị, chia chúng thành nhiều quận mới do trung ương kiểm soát.[13] Các vị vương bị tước quyền tự bổ nhiệm nhân sự, nhiệm vụ này sẽ do triều đình đảm nhận.[14][15] Trên danh nghĩa, họ là người đứng đầu vùng đất phong của riêng mình, biến một phần thuế thu trong lãnh địa thành thu nhập cá nhân.[14][15] Các vương quốc không bao giờ bị xóa bỏ hoàn toàn và tiếp tục tồn tại trong suốt phần còn lại của hai thời kỳ Tây Hán và Đông Hán.[16]

Phía bắc Trung Quốc bản thổ, thủ lĩnh du mục Hung Nô Thiền vu Mặc Đốn chinh phục nhiều bộ lạc khác nhau sinh sống ở phần phía đông Thảo nguyên Á – Âu. Cuối thời trị vì, Mặc Đốn đã kiểm soát Mãn Châu, Mông Cổ và Lòng chảo Tarim, khuất phục hơn 20 nhà nước phía đông Samarkand.[17][18] Gặp rắc rối khi dân Hán ở biên cương phía bắc trao đổi ồ ạt vũ khí sắt với Hung Nô, Hán Cao Tổ ban bố một lệnh cấm vận trừng phạt Hung Nô.[19]

Để trả đũa, Hung Nô xâm lược vùng đất mà ngày nay là tỉnh Sơn Tây, đánh bại người Hán tại Trận Bạch Đăng vào năm 200 TCN.[19][20] Sau khi đàm phán, thỏa thuận hòa thân năm 198 TCN trên danh nghĩa đã biến các nhà lãnh đạo Hung Nô và Hán thành những đối tác bình đẳng trong một liên minh hôn nhân hoàng gia. Tuy nhiên, nhà Hán vẫn buộc phải triều cống một lượng lớn cống phẩm như quần áo lụa, thực phẩm và rượu cho Hung Nô.[21][22]

Hán Vũ Đế [trị. 141 TCN – 87 TCN]

Dù nhà Hán chấp nhận triều cống và Hán Văn Đế [trị. 180 TCN – 157 TCN] cùng Thiền vu Lão Thượng đã tiến hành đàm phán mở thị trường biên giới, nhiều bề tôi thiền vu Hung Nô vẫn bất tuân hiệp ước và đột kích định kỳ lãnh thổ nhà Hán ở phía nam Vạn lý Trường thành để lấy thêm hàng hóa.[23][24] Trong một đình nghị do Hán Vũ Đế [trị. 141 TCN – 87 TCN] triệu tập vào năm 135 TCN, đa số đại thần đồng thuận duy trì thỏa thuận hòa thân. Hán Vũ Đế chấp thuận, bất chấp việc Hung Nô vẫn tiếp tục đột kích.[25][26]

Tuy nhiên, trong đình nghị một năm sau đó, đa số đại thần tin rằng một cuộc giao tranh hạn chế tại Mã Ấp liên quan tới kế hoạch thích sát thiền vu Hung Nô, sẽ đẩy liên minh Hung Nô vào cảnh hỗn loạn và mang lại lợi ích cho nhà Hán.[27][28] Khi kế hoạch kể trên thất bại,[29] Hán Vũ Đế quyết định phát động một cuộc xâm lược quân sự quy mô lớn vào lãnh thổ Hung Nô. Đỉnh điểm là vào năm 119 TCN, trong Trận Mạc Bắc, hai tướng Hán là Hoắc Khứ Bệnh và Vệ Thanh đã buộc triều đình Hung Nô phải tháo chạy về phía bắc Sa mạc Gobi.[30][31]

Sau thời Hán Vũ Đế, nhà Hán tiếp tục chiếm ưu thế trước Hung Nô. Thiền vu Hô Hàn Tà chấp nhận để Hung Nô trở thành nước chư hầu triều cống, thần phục nhà Hán. Đối thủ tranh đoạt ngai vị với ông, Thiền vu Chất Chi, bị Trần Thang và Cam Diên Thọ lấy mạng trong Trận Chất Chi, ở Taraz, Kazakhstan hiện đại.[32][33]

Năm 121 TCN, người Hán trục xuất Hung Nô khỏi một vùng lãnh thổ rộng lớn trải dài từ Hành lang Hà Tây tới La Bố Bạc. Năm 111 TCN, cũng tại vùng lãnh thổ phía tây bắc này, nhà Hán đẩy lùi một cuộc xâm lược chung Khương – Hung Nô rồi cho thành lập bốn quận vùng biên mới: Tửu Tuyền, Trương Dịch, Đôn Hoàng và Vũ Uy.[34][35] Phần lớn người sống ở vùng biên cương đều là binh lính.[36] Đôi khi, triều đình cưỡng ép nông dân tá điền đến sống ở các khu định cư biên cương mới, cùng với những nô lệ thuộc sở hữu chính quyền và cả tù nhân khổ sai.[37] Triều đình cũng khuyến khích dân thường – nông dân, thương nhân, điền chủ và người làm thuê – tự nguyện di cư đến vùng biên cương.[38]

Bản đồ sơ lược các chiến dịch chinh phạt của nhà Hán trong thế kỷ thứ 2 TCN

Trước khi nhà Hán bành trướng sang Trung Á, những chuyến công du của nhà ngoại giao Trương Khiên từ năm 139 TCN đến năm 125 TCN đã thiết lập mối liên hệ giữa Trung Quốc với nhiều nền văn minh chung quanh. Trương Khiên từng đi qua Đại Uyên, Khang Cư và Đại Hạ [trước đây là Vương quốc Hy Lạp – Bactria]. Ông còn tổng hợp thêm thông tin về Thiên Trúc và Đế quốc Parthia. Tất cả những quốc gia này đều tiếp nhận sứ thần nhà Hán.[39][40][41] Những mối liên kết kể trên đánh dấu sự khởi đầu của mạng lưới thương mại Con đường Tơ lụa trải dài tới tận Đế quốc La Mã, đưa các loại mặt hàng Trung Quốc như tơ lụa đến La Mã và các loại mặt hàng La Mã như đồ thủy tinh đến Trung Quốc.[42][43]

Từ khoảng năm 115 TCN đến năm 60 TCN, nhà Hán giao chiến với Hung Nô để chiếm quyền kiểm soát các thành bang ốc đảo ở Lòng chảo Tarim. Năm 60 TCN, nhà Hán giành chiến thắng chung cuộc và thành lập Tây Vực đô hộ phủ, nơi giải quyết các vấn đề quốc phòng và đối ngoại trong khu vực.[44][45] Nhà Hán cũng rất tích cực mở mang bờ cõi về phía nam. Cuộc chinh phục Nam Việt vào năm 111 TCN đã mở rộng lãnh thổ nhà Hán bao trùm những vùng đất mà ngày nay là Quảng Đông, Quảng Tây và Bắc bộ Việt Nam. Vân Nam trở thành một phần lãnh thổ nhà Hán sau cuộc chinh phục Vương quốc Điền năm 109 TCN. Tiếp đó, vào năm 108 TCN, nhà Hán sáp nhập vài phần Bán đảo Cao Ly sau khi chiến thắng Chiến tranh Hán – Triều Tiên và thành lập hai quận thuộc địa Huyền Thố và Lạc Lãng.[46][47] Trong cuộc điều tra dân số toàn quốc đầu tiên tại Trung Quốc, có 57.671.400 cá nhân được ghi danh trong 12.336.470 hộ gia đình.[3]

Để chi trả cho các chiến dịch quân sự và hoạt động mở rộng thuộc địa, Hán Vũ Đế đã quốc hữu hóa một số ngành công nghiệp tư nhân. Ông tạo ra các công ty độc quyền nhà nước do cựu thương nhân quản lý. Chính quyền độc quyền sản xuất muối, sắt và rượu, cũng như độc quyền phát hành tiền xu đồng. Chính sách độc quyền rượu chỉ kéo dài từ năm 98 TCN đến năm 81 TCN, chính sách độc quyền muối và sắt thì hoàn toàn bị bãi bỏ vào đầu thời Đông Hán. Trong khi đó, chính quyền vẫn duy trì độc quyền phát hành tiền xu cho tới cuối triều đại.[48][49][50]

Các chính sách độc quyền chính phủ bị bãi bỏ khi phái cải cách giành được thêm ảnh hưởng trong triều đình. Họ thống trị triều chính thời Hán Vũ Đế và trong những năm phụ chính sau đó của Hoắc Quang. Đối lập với phái cải cách, phái hiện đại ủng hộ một chính sách đối ngoại táo bạo và mang tính bành trướng, được tài trợ bởi nguồn thu có được nhờ sự can thiệp sâu của chính quyền vào kinh tế tư nhân.[51][52]

Triều đại của Vương Mãng và nội chiếnSửa đổi

Bài chi tiết: Vương Mãng và Nhà Tân

Vương Chính Quân lần lượt làm hoàng hậu, hoàng thái hậu, thái hoàng thái hậu thời Hán Nguyên Đế [trị. 49 TCN – 33 TCN], Hán Thành Đế [trị. 33 TCN – 7 TCN] và Hán Ai Đế [trị. 7 TCN – 1 TCN].[53][54] Sau khi Hán Ai Đế băng hà, Vương Mãng, cháu trai Vương Chính Quân, được bổ nhiệm làm đại thần phụ chính cho Hán Bình Đế [trị. 1 TCN – 5] vào ngày 16 tháng 8 năm 1.[55]

Ảnh bên trái: Bình sứ hoa văn thời Tây Hán với phù điêu rồng, phượng và thao thiết
Ảnh bên phải: Mặt sau của một chiếc gương đồng thời Tây Hán có trang trí hoa văn

Ngày 3 tháng 2 năm 6, Hán Bình Đế qua đời, Nhũ Tử Anh trở thành người thừa kế ngai vàng còn Vương Mãng được phong làm Giả hoàng đế, nhiếp chính thay cho tiểu hoàng đế. Vương Mãng hứa sẽ trả lại quyền kiểm soát triều đình cho Tử Anh khi cậu bé đủ lớn.[55] Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, ông thất hứa rồi đàn áp các cuộc nổi loạn phản đối của giới quý tộc. Ngày 10 tháng 1 năm 9, Vương Mãng tuyên bố nhà Hán không còn giữ Thiên mệnh và đã tới hồi diệt vong, nhường chỗ cho triều đại mới của chính mình: nhà Tân [9 – 23].[56][57]

Vương Mãng khởi xướng một loạt cải cách lớn song hầu hết đều thất bại. Chúng bao gồm việc chấm dứt chế độ mua bán nô lệ, quốc hữu hóa đất đai rồi tái phân phối bình quân cho từng hộ gia đình và giới thiệu thêm các loại tiền tệ mới, làm giảm giá trị tiền xu.[58][59] Dù cho loạt cải cách gây ra làn sóng phản đối đáng kể nhưng những trận lũ lụt lớn từ năm 3 tới năm 11 mới là nguyên nhân chính khiến chế độ của Vương Mãng sụp đổ. Lượng phù sa tích tụ lâu ngày đẩy mực nước sông Hoàng Hà dâng cao, chôn vùi các công trình kiểm soát lũ lụt. Sông Hoàng Hà chia làm hai nhánh mới: một nhánh đổ về phía bắc, một nhánh đổ ra Bán đảo Sơn Đông ở phía nam. Mãi tới năm 70, các kỹ sư người Hán mới có thể xây đập cho nhánh sông phía nam.[60][61]

Lũ lụt cướp đi sinh mạng của hàng ngàn nông dân, nhiều nông dân buộc phải tham gia các nhóm thổ phỉ hay nghĩa quân như Xích Mi để sống sót.[60][61] Quân đội dưới quyền Vương Mãng hoàn toàn không đủ khả năng dập tắt phong trào khởi nghĩa đang ngày càng lan rộng. Cuối cùng, một toán nghĩa quân đông đảo tiến vào Vị Ương cung và giết chết Vương Mãng.[62][63]

Hán Canh Thủy Đế [trị. 25 – 27], hậu duệ của Hán Cảnh Đế [trị. 157 TCN – 141 TCN], cố gắng trung hưng nhà Hán và định đô tại Trường An. Tuy nhiên, quân Xích Mi sớm hạ bệ, ám sát Hán Canh Thủy Đế và thay thế ông bằng quân chủ bù nhìn Lưu Bồn Tử.[64][65] Lưu Tú, em họ xa của Hán Canh Thủy Đế, sau khi xác lập được vị thế trong Trận Côn Dương, được bề tôi thúc dục kế vị ngai vàng.[66][67]

Đế quốc Hán đã thực sự phục hưng nhờ Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú [25 – 57]. Năm 25, Hán Quang Vũ Đế chọn Lạc Dương làm kinh đô. Năm 27, hai đại tướng của ông là Đặng Vũ và Phùng Dị buộc quân Xích Mi đầu hàng và xử tử chủ tướng của họ vì tội phản quốc. [67][68]Từ năm 26 đến năm 36, Hán Quang Vũ Đế tiếp tục giao chiến với các lãnh chúa tự xưng hoàng đế. Khi toàn bộ lãnh chúa đều đã bị đánh bại, Trung Quốc lại một lần nữa thống nhất dưới lá cờ nhà Hán.[69][70]

Thời kỳ kể từ khi nhà Hán thành lập tới khi Vương Mãng soán ngôi gọi là Tây Hán hoặc Tiền Hán [206 TCN – 9]. Kinh đô Tây Hán là Trường An. Thời kỳ kể từ khi Hán Quang Vũ Đế lên ngôi tới khi nhà Hán sụp đổ gọi là Đông Hán hoặc Hậu Hán [25 – 220], kinh đô dời về Lạc Dương.[71]

Đông HánSửa đổi

Các lãnh chúa và lực lượng nông dân cát cứ đầu thời Đông Hán

Ngày 5 tháng 8 năm 25, Hán Quang Vũ Đế lên ngôi hoàng đế, khởi đầu thời Đông Hán [25 – 220].[72] Suốt thời gian hoàng quyền Vương Mãng lung lay, Cao Câu Ly tự do đột kích bốn quận thuộc địa nhà Hán trên Bán đảo Cao Ly. Tới năm 30, nhà Hán mới tái khẳng định được quyền kiểm soát khu vực này.[73]

Năm 40, Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống nhà Hán ở Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa này bị tướng Hán Mã Viện dập tắt trong một chiến dịch năm 42 – 43.[74] Vương Mãng tái thiết lập thái độ thù địch với người Hung Nô. Nhà Hán tiếp tục lạnh nhạt với Hung Nô cho tới khi thủ lĩnh Hung Nô là Bỉ, đối thủ tranh chấp ngai vị với em họ Bồ Nô, đồng ý trở thành chư hầu triều cống vào năm 50. Điều này khiến Hung Nô bị chia thành hai liên minh đối địch nhau: Nam Hung Nô do Bỉ lãnh đạo, đồng minh của nhà Hán, và Bắc Hung Nô do Bồ Nô lãnh đạo, xem nhà Hán là kẻ thù.[75][76]

Thời Vương Mãng, Trung Quốc cũng đánh mất quyền kiểm soát Lòng chảo Tarim. Năm 63, Bắc Hung Nô chinh phục Lòng chảo Tarim, dùng đây làm căn cứ địa tấn công Hành lang Hà Tây ở Cam Túc.[77] Năm 73, trong Trận Y Ngô Lư, Đậu Cố đánh bại Bắc Hung Nô. Ông ép người Hung Nô tháo chạy khỏi Thổ Lỗ Phiên và truy đuổi họ tới tận hồ Ba Lý Khôn trước khi cắm một đơn vị đồn trú tại Cáp Mật.[78] Sau khi Tây Vực đô hộ Trần Mục bị đồng minh Hung Nô ở Yên Kỳ và Quy Từ giết, đơn vị đồn trú tại Cáp Mật cũng rút lui.[79]

Năm 89, trong Trận Altai, Đậu Hiến đánh bại thiền vu Bắc Hung Nô, buộc ông ta tháo chạy tới dãy núi Altai.[80] Sau khi Bắc Hung Nô dời đến lưu vực sông Y Lê vào năm 91, người du mục Tiên Ti liền chiếm đóng vùng lãnh thổ trải dài từ biên giới Vương quốc Phù Dư ở Mãn Châu đến sông Y Lê của người Ô Tôn.[81] Lãnh thổ của người Tiên Ti bành trướng cực đại dưới thời Đàn Thạch Hòe, người liên tục đánh bại quân đội nhà Hán. Tuy nhiên, liên minh của Đàn Thạch Hòe sớm tan rã ngay sau khi ông qua đời.[82]

Ban Siêu tranh thủ sự trợ giúp từ Đế quốc Quý Sương, chiếm đóng khu vực mà ngày nay là Ấn Độ, Pakistan, Afghanistan và Tajikistan hòng khuất phục Khách Thập và đồng minh Túc Đặc.[83] Tuy nhiên, khi nhà Hán từ chối yêu cầu thành lập liên minh hôn nhân vào năm 90, nhà cai trị Quý Sương Vima Kadphises liền điều quân tới Wakhan [Afghanistan] tấn công Ban Siêu. Xung đột kết thúc khi quân Quý Sương buộc phải rút lui vì thiếu nhu yếu phẩm.[83] Năm 91, chức Tây Vực đô hộ được tái lập và do chính Ban Siêu đảm nhiệm.[84]

Chữ khắc Đông Hán khắc trên một thỏi chì, dùng chữ Hy Lạp thôi lối Quý Sương, được khai quật ở Thiểm Tây, thế kỷ 1 – 2.[85]
Một mũi tên thời Tây Hán

Trong số du khách nước ngoài đến Đông Hán có nhiều nhà sư biên dịch kinh Phật như An Thế Cao từ Parthia và Lâu-ca-sấm từ Càn-đà-la, Ấn Độ.[86] Ngoài nhận cống phẩm từ Quý Sương, Đế quốc Hán còn từng nhận quà từ Parthia, một vị vua Miến Điện và một nhà cai trị Nhật Bản. Năm 97, triều đình nhà Hán thử phái sứ giả Cam Anh tới Roma song không thành công.[87][88]

Ngụy lược và Hậu Hán thư đều ghi chép về một sứ đoàn thừa mệnh hoàng đế Marcus Arelius, tiếp cận triều đình Hán Hoàn Đế [trị. 146 – 167] vào năm 166.[89] Tuy nhiên, Rafe de Crespgny lại khẳng định rằng sứ đoàn được đề cập trong hai tài liệu trên có thể chỉ là một nhóm thương nhân La Mã mà thôi.[90] Ngoài đồ thủy tinh và tiền xu La Mã ở Trung Quốc,[91] người ta còn tìm thấy huy chương La Mã từ thời Antonius Pius và Marcus Aurelius ở Óc Eo, Việt Nam.[92] Óc Eo nằm gần quận Nhật Nam [hay Giao Chỉ], nơi các nguồn Trung Quốc khẳng định là địa điểm đầu tiên mà người La Mã và một phái đoàn Thiên Trúc đặt chân khi đến nhà Hán vào hai năm 159 và 161.[93] Ngoài ra, Óc Eo cũng được cho là thành phố cảng "Cattigara" mà Ptolemaeus đã mô tả trong Geographia, nằm ở phía đông "Chersonesus Aurea" [bán đảo Mã Lai] dọc theo "Magnus Sinus" [vịnh Thái Lan và Biển Đông], nơi một thủy thủ Hy Lạp từng ghé thăm.[94][95]

Thời Hán Chương Đế [trị. 75 – 88] được các học giả Đông Hán về sau đánh giá là giai đoạn cường thịnh cuối cùng của nhà Hán.[96] Từ sau thời Hán Chương Đế, hoạn quan can thiệp triều chính ngày một nhiều, tham gia nhiều cuộc tranh đoạt quyền lực khốc liệt giữa các nhóm ngoại thích.[97][98] Năm 92, với sự trợ giúp của hoạn quan Trịnh Chúng, Hán Hòa Đế [trị. 88 – 105] giam lỏng Đậu thái hậu, tước hết quyền lực mà gia tộc nhà bà đang nắm giữ. Hán Hòa Đế làm điều này để trả đũa việc Đậu thái hậu từng thanh trừng gia tộc và che giấu danh tính của Lương quý nhân, mẹ ruột hoàng đế.[99][100] Sau khi Hán Hòa Đế băng hà, Đặng thái hậu nhiếp chính giữa lúc nhà Hán lâm vào một cuộc khủng hoảng tài chính và cuộc khởi nghĩa của người Khương đang lan rộng.[101][102]

Khi Đặng thái hậu qua đời, Hán An Đế [trị. 106 – 125] tin lời hai hoạn quan Lý Nhuận và Giang Kinh, cho rằng Đặng thái hậu và gia tộc nhà bà đã lên sẵn kế hoạch phế truất mình. Ông cách chức toàn bộ thành viên gia tộc họ Đặng, đày ải và buộc nhiều người trong số họ phải tự sát.[103][104] Sau khi Hán An Đế băng hà, Diêm thái hậu đưa con trai bà là Bắc Hương hầu Lưu Ý lên ngôi hòng duy trì quyền lực cho gia tộc nhà mình. Tuy nhiên, hoạn quan Tôn Trình đã đảo chính thành công, lập Lưu Bảo làm hoàng đế, tức Hán Thuận Đế [trị. 125 – 144]. Diêm thái hậu bị quản thúc tại gia, người thân bị giết hoặc lưu đày, các đồngminh hoạn quan bị tàn sát.[105][106] Phụ chính Lương Ký, anh trai của Ý Hiên Lương hoàng hậu, giết chết anh rể Đặng Mãnh Nữ, người sau này trở thành hoàng hậu thứ hai, khi Đặng Mạnh Nữ phản kháng nỗ lực kiểm soát của ông. Sau đó, Hán Hoàn Đế [trị. 146 – 167] lợi dụng hoạn quan, hạ bệ và buộc Lương Ký phải tự sát.[107][108]

Nho sinh trường Thái học đã tổ chức một cuộc biểu tình lớn phản đối hoạn quan trong triều.[109] Hán Hoàn Đế thì ngày càng xa cách bộ máy quan liêu khi khởi xướng nhiều dự án xây dựng hoành tráng và chiêu đãi hàng nghìn thê thiếp giữa thời điểm khủng hoảng kinh tế.[110][111] Lý Ưng và cộng sự ở trường Thái học bị bè lũ hoạn quan cầm tù vì tội phản quốc. Tới năm 167, họ mới được trả tự do khi Đại tướng quân Đậu Vũ thuyết phục thành công con rể Hán Hoàn Đế.[112] Dù là vậy, Hán Hoàn Đế vẫn cách chức vĩnh viễn Lý Ưng và cộng sự, khởi đầu lệnh cấm quan chức kết bè kéo cánh.[112]

Sau khi Hán Hoàn Đế băng hà, Đậu Vũ và Thái phó Trần Phồn đã âm mưu tiến hành một cuộc đảo chính, hạ bệ ba đại hoạn quan Hầu Lãm, Tào Tiết và Vương Phủ. Khi âm mưu bị phanh phui, các hoạn quan lập tức bắt giữ Hoàn Tư Đậu hoàng hậu và Trần Phồn. Tướng Trương Hoán sủng ái hoạn quan, dẫn quân đối đầu với Đậu Vũ và môn khách ngay trước cổng hoàng cung. Hai bên cáo buộc lẫn nhau tội phản quốc. Khi từng môn khách dưới trướng lũ lượt theo phe Trương Hoán, Đậu Vũ buộc phải tự sát.[113]

Dưới thời Hán Linh Đế [trị. 168 – 189], hoạn quan có thêm quyền thanh trừng quan chức kết bè kéo cánh, ngang nhiên bán đấu giá chức vụ cấp cao trong chính quyền.[114] Hán Linh Đế dành phần lớn thời gian chơi trò nhập vai với thê thiếp và tham gia các cuộc duyệt binh, giao hết việc nước cho hai hoạn quan Triệu Trung và Trương Nhượng.[115]

Nhà Hán diệt vongSửa đổi

Bài chi tiết: Nhà Hán diệt vong
Các châu và quận nhà Hán vào năm 219, một năm trước thời điểm diệt vong

Năm 184, lệnh cấm quan chức kết bè kéo cánh bị bãi bỏ giữa lúc Khởi nghĩa Khăn vàng và Khởi nghĩa Ngũ đấu mễ đạo đang bùng nổ, chủ yếu là do triều đình không muốn tiếp tục xa lánh một bộ phận đáng kể tầng lớp thân sĩ, những người hoàn toàn có thể trở cờ khởi nghĩa.[116] Phần tử tham gia Khởi nghĩa Khăn vàng và Khởi nghĩa Ngũ đấu mễ thuộc hai xã hội Đạo giáo có tôn ti khác nhau, lần lượt do hai thầy đồng Trương Giác và Trương Lỗ lãnh đạo.

Cuộc khởi nghĩa của Trương Lỗ ở miền bắc Tứ Xuyên và miền nam Thiểm Tây ngày nay, mãi đến năm 215 mới bị dập tắt.[117] Trong khi đó, Khởi nghĩa Khăn Vàng trên khắp tám châu chấm dứt chỉ trong vòng một năm, có vài lần tái bùng phát trong những thập kỷ tiếp theo.[118] Dù Khởi nghĩa Khăn vàng đã kết thúc, nhiều tướng lĩnh được bổ nhiệm ồ ạt trong thời kỳ chiến loạn, không chịu giải tán lực lượng dân quân tự tuyển mộ của họ và dùng chúng để tích lũy sức mạnh ngoài vòng kiểm soát của hoàng quyền đang lung lay.[119]

Đại tướng quân Hà Tiến, anh cùng cha khác mẹ với Hà thái hậu, cùng Viên Thiệu âm mưu lật đổ các hoạn quan trong triều bằng cách điều vài tướng lĩnh dẫn quân tới vùng ngoại ô kinh đô. Tại đây, họ dâng kiến nghị lên Hà thái hậu, yêu cầu xử tử các hoạn quan.[120] Sau một thời gian đắn đo, Hà thái hậu đồng ý. Tuy nhiên, khi các hoạn quan phát hiện ra âm mưu, họ liền yêu cầu anh trai Hà thái hậu là Hà Miêu thu hồi lệnh xử tử.[121][122] Ngày 22 tháng 9 năm 189, một nhóm hoạn quan ám sát thành công Hà Tiến.

Tào Phi [trị. 216 – 220], người trực tiếp đặt dấu chấm hết cho nhà Hán

Ngay sau khi Hà Tiến bỏ mạng, hai anh em Viên Thiệu, Viên Thuật lần lượt bao vây Bắc cung và Nam cung. Ngày 25 tháng 9 năm 189, cả hai cung điện đều thất thủ, khoảng hai nghìn hoạn quan bị tàn sát.[123][124] Trương Nhượng trước đó đã kịp bỏ trốn cùng Hán Thiếu Đế và em trai Lưu Hiệp, tức Hán Hiến Đế [trị. 189 – 220] tương lai. Khi bị anh em họ Viên truy cùng giết tận, Trương Nhượng nhảy xuống sông Hoàng Hà tự sát.[125]

Tướng Đổng Trác tìm thấy hai anh em tiểu hoàng đế đang lang thang nơi vùng thôn quê. Ông hộ tống họ hồi kinh an toàn và được phong làm Tư không, nắm quyền kiểm soát Lạc Dương và ép Viên Thiệu phải lui binh.[126] Sau khi Đổng Trác phế Hán Thiếu Đế, lập Hán Hiến Đế Lưu Hiệp, Viên Thiệu cầm đầu một liên minh chống Đổng Trác gồm toàn cựu quan chức và cựu sĩ quan. Tháng 9 năm 189, Đổng Trác đầu độc giết chết Hán Thiếu Đế. Tháng 5 năm 191, ông cho thiêu rụi Lạc Dương, dời kinh đô về lại Trường An.[127]

Đổng Trác bị con trai nuôi Lã Bố giết trong một âm mưu do Vương Doãn sắp đặt.[128] Năm 195, Hán Hiến Đế chạy khỏi Trường An, quay lại Lạc Dương hoang tàn. Năm 196, nghe theo lời thuyết phục của Tào Tháo, người lúc này đang là Thứ sử Duyện Châu, Hán Hiến Đế chấp nhận dời đô một lần nữa tới Hứa Xương.[129][130]

Viên Thiệu tuyên chiến với Tào Tháo hòng giành quyền kiểm soát hoàng đế. Sức mạnh của Viên Thiệu suy giảm đáng kể khi ông để thua Tào Tháo trong Trận Quan Độ năm 200. Ngay khi Viên Thiệu vừa qua đời, các con trai ông lao vào một cuộc nội chiến giành quyền thừa kế.[131][132] Năm 205, Tào Tháo giết Viên Đàm, con trai cả Viên Thiệu. Năm 207, Công Tôn Khang giết Viên Hi và Viên Thượng, hai người em của Viên Đàm, gửi thủ cấp tới cho Tào Tháo.[131][132]

Sau thất bại của Tào Tháo trong trận thủy chiến Xích Bích năm 208, Trung Quốc chia thành ba thế lực ảnh hưởng: Tào Tháo thống trị miền bắc, Tôn Quyền thống trị miền nam và Lưu Bị thống trị miền tây.[133][134] Tháng 3 năm 220, Tào Tháo qua đời. Đến tháng 12 cùng năm, con trai ông là Tào Phi ép Hán Hiến Đế nhường ngôi, tự lập Tào Ngụy Văn Đế [trị. 216 – 220]. Sự kiện này chính thức đặt dấu chấm hết cho nhà Hán, mở ra thời kỳ giao tranh ác liệt giữa ba nhà nước: Tào Ngụy [220 – 265], Đông Ngô [229 – 280] và Thục Hán [221 – 263].[135][136]

CÂU HỎI ÔN TẬP SỬ 10 HKII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [153.11 KB, 3 trang ]

CÂU HỎI ÔN TẬP SỬ 10 HKII
Vì sao người Việt vẫn giữ được tiếng nói, phong tục tập quán của mình ?
Vì trong thời Bắc thuộc, nhân dân ta biết tiếp nhận và “Việt hoá” những yếu tố tích cực của nền văn hoá Trung
Hoa thời Hán. Đường như ngôn ngữ, văn tự. Nhân dân ta không bị đồng hoá. Tiếng Việt vẫn được bảo tồn.
Các phong tục, tập quán như ăn trầu, nhuộm răng đen, tôn trọng phụ nữ vẫn được duy trì.
Mục đích của chính sách đô hộ đó có thực hiện được không ? Tại sao ?
— Mặc dù đã có nhiều biện pháp nhưng chính quyền đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc chỉ thiết lập
tới quận, huyện. Trong khi đó, nhân dân ta sinh sống chủ yếu trong các làng, xóm do người Việt quản lí, vì vậy
chính quyền đô hộ không thể với tay đến đơn vị cơ sở quan trọng nhất của người Việt.
— Những chính sách về văn hoá như truyền bá Nho giáo, chữ Hán cũng chủ yếu được phổ biến ở trung tâm
cai trị là quận, huyện, do đó chỉ tác động đến một bộ phận trong xã hội, còn đại bộ phận nhân dân không
chịu ảnh hưởng nhiều. Mỗi làng xóm, cùa người Việt trở thành một 'pháo đài xanh" để bảo vệ bản sắc văn
hoá dân tộc.
— Các triều đại phong kiến phương Bắc đã không thực hiện được mục đích của mình vì những cuộc đấu tranh
bền bỉ,kiên cường chống lại chế độ cai trị tàn bạo của dân tộc Việt Nam.

Mục tiêu của chính quyền đô hộ phương Bắc trong suốt hơn 1000 năm là đồng hóa, xóa tên Việt Nam trên bản đồ
thế giới. Mục tiêu này không thực hiện được.
- Chính quyền thực dân mới chỉ thành công trong việc áp dụng các chính sách cai trị, đưa sang Việt Nam các hệ tư
tưởng, các yếu tố văn hóa nhưng không thực hiện được việc đồng hóa.
- Nhân dân Việt Nam đã nhanh chóng tiêp nhận các thành tố văn hóa, các yếu tố tiến bộ của văn minh Trung Hoa
để làm phong phú thêm nền văn hóa của mình, giao lưu và tiếp nhận các yếu tố văn hóa ấy trên cơ sở nền văn hóa
bản địa, giữ vững các phong tục tập quán, văn hóa truyền thống vì thể chúng ta không bị mất văn hóa. Không mất
văn hóa vì thế mà không mất nước.
- Sở dĩ chính quyền đô hộ thực dân không thực hiện được âm mưu đồng hóa với nhân dân ta trong suốt hơn 1000
năm Bắc thuộc vì chúng ta cơ bản giữ được làng, tinh thần cố kết cộng đồng của nhân dân Việt Nam trong các làng
khá bền chặt tạo thành một kết cấu khá vững chắc khiến chính sách đô hộ không thể phá vỡ. làng là nơi dung
dưỡng văn hóa, giữ gìn văn hóa, hội tụ và kết tinh truyền thống yêu nước và khiến lòng yêu nước, tinh thần quật
khởi không hề bị mất đi. Có thời cơ, chúng ta mới có thể đứng lên giành lại độc lập hoàn toàn sau 1000 năm bị đô
hộ. Đấy là một minh chứng cho việc chính quyền đô hộ không thực hiện đươc âm mưu đồng hóa Việt Nam.
Tuy nhiên, nhìn ở khía cạnh tích cực, thời Bắc thuộc đã để lại cho nhân dân Việt Nam những nhân tố tiến bộ sau:


+ Tạo điều kiện cho nhân dân Việt Nam tiếp thu các sản phẩm của văn minh Trung Hoa và văn minh thế giới nhất
là các yếu tố về tư tưởng, tôn giáo.
+ Bồi đắp thêm nền văn hóa bản địa, làm phong phú thêm nền văn hoá của dân tộc mình.
Nhân dân ta vẫn giữ được phong tục tập quán của mình, chứng tỏ điều gì ?
Chính sách đồng hóa dân tộc Việt của chính quyền đô hộ bị thất bại.
Hãy nhận xét chính sách đô hộ của phong kiến phương Bắc đối với nhân dân ta thời Bắc thuộc.
-Luật pháp nặng nề, đàn áp tàn bạo các cuộc nổi
dậy của nhân dân ta.
- Toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa.
- Bóc lột tàn bạo về kinh tế.
- Đồng hóa, biến người dân Việt thành người Hán.
Tại sao nói: Thời kỳ chuyên chính Giacôbanh là đỉnh cao của Cách mạng tư sản Pháp?
- Trước những khó khăn, thử thách nghiêm trọng, Chính quyền Gia-cô-banh đã đưa ra những biện
pháp kịp thời, hiệu quả.
+ Giải quyết ruộng đất cho nông dân, tiền lương cho công nhân.
+ Thông qua hiến pháp mới, mở rộng tự do dân chủ.
+ Ban hành lệnh "Tổng động viên".
+ Xóa nạn đầu cơ tích trữ
- Phái Gia-cô-banh đã hoàn thành nhiệm vụ chống thù trong giặc ngoài, đưa cách mạng đến đỉnh cao.
*Vì sao nói đây là cuộc cách mạng triệt để:
- Xóa bỏ được mọi tàn tích của xã hội phong kiến
- Giải quyết được triệt để vấn đề ruộng đất cho nhân dân
- Xóa bỏ mọi sự cản trở đến việc phát triển công, thương nghiệp
- Thống nhất được thị trường dân tộc
*Thế nào là cách mạng tư sản:
- Là cuộc cách mạng do giai cấp tư sản lãnh đạo nhằm thay thế chế độ phong kiến, thiết lập nền thống trị của giai
cấp tư sản, mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
- Cách mạng tư sản bắt đầu từ thế kỉ 16 kéo dài tới thế kỷ 20. Nó đã thiết lập nền dân chủ tư sản và tạo ra phát triển
mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, đồng thời có một tiến bộ vượt bực về phương thức sản xuất, là một bước tiến có ý
nghĩa lịch sử trong xã hội nhân loại. Mặc dù vậy, những học giả chủ nghĩa xã hội khoa học cho rằng cách mạng tư

sản vẫn là sự thay thế chế độ bóc lột phong kiến bằng chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa, chưa giải quyết được vấn đề
cơ bản của xã hội là xóa bỏ chế độ người bóc lột người.
Hãy đánh giá vai trò của phong trào Tây Sơn?
Vai trò phong trào Tây Sơn:
- Lật đổ các chính quyền phong kiến thối nát : Nguyễn , Trịnh , Lê.
- Cơ bản thống nhất đất nước sau ba thế kỉ bị chia cắt.
- Đánh bại quân xâm lược Xiêm và Thanh giữ vững nền độc lập dân tộc.
- Xây dựng đất nước
Phong trào Tây Sơn đã có những đóng góp gì cho lịch sử dân tộc Việt Nam?
- Lật đổ các tập đoàn phong kiến Trịnh, Nguyễn, Lê.
- Bước đầu thống nhất đất nước về mặt lãnh thổ.
- Chiến thắng quân xâm lược Xiêm, Thanh bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Xây dựng một vương triều mới, tiến bộ.
Sau khi lên ngôi, vua Quang Trung đã thực hiện chính sách gì? Em có nhận xét gì về việc làm của vua
Quang Trung?
- Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế thống trị vùng đất từ Thuận Hóa trở ra Bắc.
- Những việc làm của vua Quang Trung:
+Kêu gọi nhân dân phiêu tán về quê sản xuất. Lập lại sổ hộ tịch, địa bạ, không bỏ hoang ruộng đất.
+Mở rộng phát triển công thương nghiệp.
+Tổ chức giáo dục thi cử.
+Quân đội được tổ chức quy củ và trang bị vũ khí đầy đủ.
+Đối ngoại: đặt quan hệ tốt đẹp với nhà Thanh, Lào, Chân Lạp.
- Nhận xét: những chính sách của Quang Trung mang tính chất tiến bộ. Nhưng những chính sách của ông
chưa có ảnh hưởng lớn trên phạm vi cả nước. Năm 1792, Quang Trung đột ngột qua đời, sự nghiệp thống
nhất đất nước, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng chưa thành
Tại sao nói nội chiến ở Mĩ là một cuộc cách mạng tư sản?
Cuộc nội chiến 1861 – 1865 có ý nghĩa như một cuộc cách mạng tư sản.
- Dựa vào lực lượng cách mạng của quần chúng, giai cấp tư sản miền Bắc đã xóa bỏ chế độ nô lệ ở
miền Nam, tạo điều kiện cho CNTB phát triển ở khu vực này.
Nhờ đó kinh tế Mĩ vươn lên mạnh mẽ vào cuối thế kỉ XIX.

Video liên quan

Chủ Đề