Cấu trúc nhà nước thời hùng vương theo hệ thống mấy cấp?
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Hồng bàng là tổ nước ta, nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang”, “Các vua Hùng đã có công dựng nước Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Quốc sơ Văn Lang tồn tại gần 2 thiên niên kỷ, đã có những nét sinh hoạt xã hội độc đáo, nền nghệ thuật kiến trúc đặc trưng của 1 quốc gia đang trong thời kỳ xây dựng, có cả chữ viết, thầy đồ dạy chữ, học nghề - trong Hoàng cung và xã hội bên ngoài. Dâng hương tại Đền thờ Đức Quốc Tổ (Phú Thọ) sáng 15-4. Ngay từ năm 1923 thời Pháp thuộc, tại hội nghị quốc tế về thời tiền sử ở Viễn Đông họp tại Hà Nội, nhà nghiên cứu Madelel Colani đã phát hiện và xác định “Văn hóa Hòa bình (Việt Nam) phát triển trước cả Lưỡng Hà 3000 năm, tức 10.000 năm (sau 7000 năm Lưỡng Hà là đến Trung Hoa, Ấn Độ) các dấu tích về đĩa gốm, xương động vật, đồ đá phát hiện tại Lamgan (Hòa Bình) còn khắc chữ Việt cổ, đo được tuổi đời (C.14) là l0.000 năm. Sau 1000 năm Bắc thuộc, kẻ thù phương Bắc đã thực hiện chính sách đồng hóa, hủy hoại tiêu diệt mọi giá trị văn hóa, tinh thần của dân tộc ta, tên Thái thú Sỹ Nhiếp đã ra lệnh triệt hạ chữ Việt cổ thay bằng chữ Hán, song chữ viết tinh hoa văn hóa dân tộc là bất diệt, các văn bản viết chữ Việt cổ, các dấu tích còn trên khắp nước, trong các hang động trong nhân dân, trong các Viện Bảo tàng, Thư viện ở Anh, Pháp, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản. Đây không chỉ là vấn đề thuộc văn từ, ngôn ngữ, mà còn là 1 di sản văn hóa đặc biệt, 1 bài học lịch sử dựng nước của các vua Hùng, lịch sử đấu tranh giữ nước của các thế hệ người Việt Nam chống phong kiến phương Bắc trong 10 thế kỷ. Hiện nay ở làng Hương Lan thuộc xã Trưng Vương thành phố Việt Trì (Phú Thọ) đang hiện diện 1 ngôi miếu cổ: “Thiên cổ miếu” (miếu có từ ngàn xưa) viết trên bức hoành phi, hai bên có đôi câu đối: “Hùng lĩnh Trung chi thắng tích, Tạm dịch là: “Di tích ở Hùng lĩnh (Đền Hùng) là Trung tâm của cả nước không đâu sánh nổi, chính miếu này là khí thiêng của trời Nam. Trên bệ thờ cao đặt 2 pho tượng sơn son thiếp vàng, là tượng thầy giáo Vũ Thế Lang và vợ là Nguyễn Thị Thục, dưới là 2 pho tượng nhỏ hơn, là công chúa Ngọc Hoa và Tiên Dung con gái vua Hùng thứ 18 (học trò của Thầy Lang) được tạc vào thời Lý, dưới nữa là pho tượng Tiên đồng, Ngọc Nữ theo hầu, có 3 bát hương cổ bằng đất nung, hoa văn đẹp giống hoa văn khắc trên trống đồng. Theo Ngọc Phả ghi rõ: Thân phụ của Vũ Thế Lang là Vũ Công, quê ở Mộ Trạch (Hải Dương) dòng dõi thi thư, nguyên văn là “Thi thư sử thế hiếu đễ trì gia, cầu dĩ giáo đồng vi hồ khẩu chi kế” , Vũ Công đã tìm đến Phong Châu kiếm kế sinh nhai, ông đến Hương Lan làm nghề dạy học - “Nhật đĩ giáo tiểu tập đồng vi nghiệp”, và đã sinh ra Vũ Thế Lang, lớn lên lấy Nguyễn Thị Thục quê ở Đông Ngàn (Bắc Kinh) làm vợ, 2 người vẫn ở lại Hương Lan để nối nghiệp cha. Chồng dạy học, vợ làm ruộng trồng dâu, nuôi tằm, sinh được ba con, lớn lên được vua Hùng Duệ Vương trọng dụng, phong làm Đô Sỹ, bảo vệ vua, vì đều văn võ song toàn. Năm 288 trước Công nguyên, vợ chồng thầy giáo quy tiên sau nhiều năm dạy học cho cả con vua và con dân. Bà Thục dạy 2 công chúa và dân làng biết nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa, chồng dạy chữ, vợ dạy nghề, làm điều nhân nghĩa: “Lực hành nhân nghĩa, gia tự phong hậu”, nêu gương sáng cho thiên hạ đương thời và hậu thế hôm nay. Thiên Cổ miếu ở làng Hương Lan thể hiện nền văn hiến thời Hùng Vương dựng nước đã có cả chữ viết, người dạy học, người đi học - 1 bằng chứng lịch sử của dân tộc ta từ 2 thiên niên kỷ trước đây. Thời các vua Hùng dựng nước cai quản đất Văn Lang còn có cả 1 nền nghệ thuật kiến trúc độc đáo. Con người đã tiến ra ở các miền đất rộng lớn từ đồi núi trung du ra ở các vùng đất rộng bằng làm nghề trồng lúa, đánh bắt cá, đã phải làm nhà để che nắng, che mưa, phòng chống thú dữ. Thủa ấy ở vùng ngã ba sông tại Việt Trì đã có bước phát triển nổi trội, so vùng khác, nơi đây không chỉ là kinh đô nước Văn Lang mà còn là Trung tâm của các nghề thủ công, đan lát, đúc đồng, chạm khắc, chế tác đồ trang sức, xây cất nhà cửa cho dân cư, cung thất cho các vua, các Lạc hầu, Lạc Tướng ở Lâu thượng, Lâu hạ. Cẩm đội là nơi đóng binh, Hồng Đà huyện Tam Nông chế tác đồ trang sức ngày càng tiến bộ, đông vui. Văn Lang thủa ấy nắng lắm, mưa nhiều, lũ lụt bất thường xảy ra, có nhiều thú dữ, nên nhà ở của cư dân phổ biến là nhà sàn... “Buổi đầu dựng nước, đồ ăn chưa đủ, lấy vỏ cây làm áo, lấy cuống cỏ bện chiếu, lấy nước cây làm rượu, dùng bột quang lang (cây báng) làm cơm, lấy thịt chim muông, cá tôm làm mắm, lấy gừng làm muối... đất cấy nhiều lúa nếp, lấy ống tre để thổi nấu cơm, gác gỗ làm nhà sàn để tránh khỏi hổ lang ăn thịt” (Sách Lĩnh Nam Chích Quái). Mỗi làng xóm thủa ấy thường có 1 ngôi nhà công cộng khá lớn, được trang trí, chạm khắc công phu, là nơi tụ hội sinh hoạt văn hóa, tiến hành các nghi lễ tín ngưỡng, làm tiền đề cho nền nghệ thuật kiến trúc là Thành cổ Loa do An Dương Vương - người kế nghiệp các vua Hùng (300 năm trước Công nguyên) là 1 công trình kiến trúc quân sự độc đáo, chứng tỏ tổ tiên ta đã có 1 trình độ thẩm mỹ, nghệ thuật kiến trúc khá cao từ thời dựng nước. Từ buổi đầu sơ khai dựng nước tồn tại và ngày càng phát triển, xã hội chưa có sự phân hóa sâu sắc. Qua nghiên cứu các cứ liệu lịch sử, các nhà khoa học đã phác họa được 1 cấu trúc Nhà nước thời Hùng Vương theo hệ thống ba cấp. Đứng đầu là vua Hùng có vai trò chỉ huy quân lính, chủ trì các nghi lễ tôn giáo, dưới đó là các Lạc hầu, Lạc Tướng, cai quản các bộ lạc là các Lạc Tướng. Dưới các bộ lạc là các công xã nông nghiệp do các “Bồ chính” đứng đầu quản lý theo quy định chung cho cả cộng đồng diễn ra vào thế kỷ 7 trước Công nguyên. Do thời điểm “quốc sơ” ấy chữ viết chưa phổ biến và đầy đủ nên chưa thể viết nên luật pháp thành văn, bởi thế pháp luật đương đại bấy giờ được hình thành trên cơ sở tập quán, tập tục có trước và được điều chỉnh dần theo đà phát triển của đất nước, song luật tục này vẫn có tác dụng chi phối cả cộng đồng. Theo Hậu Hán thư, thư tịch cổ nhất tuy có ghi chép sơ sài, nhưng đã nói rõ “Luật của người Việt hơn 10 điều so với nhà Hán”, có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội đương thời và đã được truyền miệng phản ánh lại. Qua chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh đã thấy hôn nhân gia đình khá tiến bộ - 1 vợ, 1 chồng, có sinh lễ dẫn cưới, tổ chức hôn lễ, quyền bình đẳng con người, sự tôn trọng phụ nữ cũng được xã hội thừa nhận qua câu chuyện Tiên Dung chủ động kết hôn với Chử Đồng Tử, hoặc cô gái họ Lưu chủ động chọn chồng giữa anh em Tân Lang trong chuyện Trầu cau. Cũng trong thời điểm này, chế độ “thế tập”, (cha truyền con nối) đã được áp dụng, nhưng quyền con người vẫn được đề cao, tôn trọng khi cần huy động người tài giỏi ra gánh việc nước (chuyện bánh chưng, bánh dày) hoặc chống lũ giặc xâm lăng (chuyện Thánh Gióng). Có thể nói, dù chưa có bộ luật hoàn chỉnh như các triều đại phong kiến ở thiên niên kỷ 2, nhưng các tập tục buổi sơ khai của Nhà nước Văn Lang cũng vẫn mang ý nghĩa to lớn trong việc hình thành thể chế xã hội, tạo nền tảng vững chắc cho sự sinh tồn và phát triển của đất nước được như hiện nay, xã hội Văn Lang xa xưa là xã hội của các công xã nông thôn, của văn minh lúa nước, xã hội chuyển “từ kinh tế chiếm đoạt của thiên nhiên” sang kinh tế sản xuất, khai thác thiên nhiên như Ăng-ghen từng phân tích về tiến trình lịch sử nhân loại. Đây là bước phát triển quan trọng của loài người. Một năm sau khi UNESCO công nhận “Hát Xoan” vùng quê đất Tổ là “di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp”, ngày 6-12-2012, Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) lại vừa công nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ” là “di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại”. GIÀNG A XÊNH Văn Lang thời Hùng Vương đã từng có chữ viết riêng?Minh Bùi Vừa qua, nhà giáo về hưu 71 tuổi Đỗ Văn Xuyền (sinh năm 1937), hiện đang sống tại Việt Trì, sau một thời gian để công nghiên cứu đã bước đầu công bố công trình hơn 50 năm trời nghiên cứu “Giải mã chữ Việt cổ” tại Trung tâm Văn hóa Người cao tuổi Việt Nam. Để phản biện kết quả nghiên cứu của ông - một người ngoài ngành chungta.com tin rằng cần có một hội đồng chuyên gia đa ngành đánh giá và kết luận. Sơ bộ, đó là một thành quả nghiên cứu công phu, nghiêm túc, phản ánh sự lao động kiên trì, giàu nghị lực của tác giả và thành quả là một đóng góp có giá trị giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cội nguồn lịch sử, văn hóa của dân tộc và có thể mở ra "cửa sổ mới" hết sức thú vị để chúng ta hiểu được các thư tịch cổ. Ông Xuyền đã từng làm hiệu trưởng trường cấp II đầu tiên của khu công nghiệp Việt Trì. Ngày ấy Việt Trì còn giữ được dáng vẻ nguyên sơ của một vùng đất cổ, kinh đô Văn Lang với những: Lầu Thượng, Lầu Hạ, Kẻ Lư, Thậm Thình, Mã Quàng... Khi học sinh trường đi lao động còn gánh về những Dao, Mác, Trống đồng, minh khí, nhặt được ông đã nghĩ nơi đây là một công trường chế tác đồ đá mới. Từ đó ông bắt đầu công việc tìm lại dấu vết của người Việt cổ. -- Xem thêm: Thời Hùng Vương là thời nào? Sau nhiều năm nghiên cứu các Ngọc phả tại các đền thờ khác nhau rải rác khắp vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ, ông đã tìm ra 18 nơi thờ các thầy giáo, học trò từ thời An Dương Vương, Hùng Vương. Từ đó ông đưa ra một giả thiết ban đầu của mình là trước năm 186 công nguyên là năm chữ Hán được đưa vào Việt Nam thì dân tộc ta đã có chữ viết riêng - chữ Việt cổ, chữ viết đó được các thầy giáo thời Hùng Vương sử dụng. Thiên cổ Miếu, thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, TP Việt Trì, nơi thờ hai vợ chồng thày giáo Vũ Thê Lang, thời vua Hùng. -- Xem thêm: Thầy giáo và học trò thời Hùng Vương Giả thiết này hoàn toàn khác với điều đa số người Việt hiện nay vẫn cho rằng là trước khi bị Tàu đô hộ, nước Văn Lang (tức nước Việt) không có chữ viết riêng mà chỉ đến khi người Tàu qua xâm chiếm thì người Việt mới bắt đầu dùng chữ Hán để viết. Qua nghiên cứu các thư viện và tìm đọc các thư tịch trong, ngoài nước của nhiều nhà nghiên cứu tiền bối đã đi sâu vào vấn đề này: Từ Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Ngọc Thêm... cho đến Vương Duy Trinh, Trương Vĩnh Ký, cả những nhà nghiên cứu nước ngoài như Anh, Tiệp Khắc, Mỹ, Pháp, nhất là Trung Quốc: Từ Lục Lưu, đến Hứa Thân, Trịnh Tiểu... ông đều gặp may bởi họ đã khẳng định: Việt Nam xưa đã có chữ viết riêng. -- Xem thêm: Giả thuyết chữ Việt cổ đầu tiên là khi nào và chữ Việt cổ còn lưu lại ở những đâu? Bản đồ ông Xuyền ghi dấu những đền thờ thầy giáo, học sinh thời vua Hùng đến Hai Bà Trưng
Về việc này, sách Thông Giám Cương Mục do Chu Hy đời Tống viết: “Năm Mậu Thân đời Đường Nghiêu thứ IV (2352 trước Công nguyên) có Nam Di Việt Thường thị đến chầu, hiến con rùa lớn”. Sách Thông Chí của Trịnh Tiểu cũng đời Tống nói rõ hơn: “Đời Đào Đường, Nam Di Việt Thường thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần. Rùa ước được ngàn tuổi, rộng hơn ba thước, trên lưng có chữ Khoa Đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy Lịch”. Một lần trên đường đi tìm kiếm ông đã dừng chân bên ngôi miếu nhỏ của một xóm núi, đọc được một bản Ngọc Phả thời Trần Thái Tông với những dòng chữ vang vọng tự hào: "Nghiêu thế, Việt thường Thị Kiến thiên tuế thần quy, Bối hữu khoa dấu". Như vậy thời Hùng Vương, dân tộc ta đã có chữ viết với tên gọi Khoa Đẩu, đó là điều có thể khẳng định chắc chắn. Chữ Việt cổ của cha ông Đây là loại chữ ông Xuyền cho là chữ Việt cổ Nhưng thứ chữ đó hình dạng ra sao? Cấu trúc thế nào? Ông luôn sẵn sàng lao vào tìm kiếm dù cho thiếu thốn, bệnh tật và đã có tuổi. Hơn một nghìn năm Bắc thuộc, cuộc tận thu trống đồng của Mã Viện năm 43, cuộc cướp phá sách vở của nhà Minh đầu thế kỷ 15, cuộc đốt phá hết thư khố quốc gia và thư khố của các bộ (sau cuộc tấn công vào đồn Mang Cá) của Pháp năm 1875, liệu có còn sót lại những gì? Chữ Việt Cổ trên trống đồng Lũng Cú Trên bốn chiếc qua đồng Đông Sơn có chạm khắc 28 ký tự. Đó là những ký tự Việt cổ mà cho đến nay chưa giải mã được Ông đã tìm đến những nơi đồn là có chữ Việt cổ. Nhưng đôi khi thất vọng: Chữ khắc trên viên gạch ở Hoàng thành Thăng Long chỉ là chữ Chăm và những trang sách trên lá buông ở đỉnh Trường Sơn và ở Thư viện Nghệ An chỉ là chữ Lào cổ. Nhưng ông vẫn tin vào sự cất giấu lưu giữ của tổ tiên về chữ Việt cổ (như khi đi tìm dấu vết của các thầy giáo thời trước Hán). Ông Xuyền đến Sa Pa, trên tảng đá vùng Hầu Thảo, sau khi cạo lớp rêu phủ đã tìm được những chữ giống như chữ cái của Vương Duy Trinh, Hiệp biện Đại học sỹ, Tổng đốc Thanh Hóa. Trong cuốn Thanh Hóa quan phong viết năm 1903, Vương Duy Trinh đã giới thiệu một số chữ lạ sưu tập được, khẳng định đó là chữ Việt cổ từ thời Hùng Vương, và đưa ra nhận xét: “Vì Thập Châu là nơi biên viễn nên dân ta còn lưu giữ thứ chữ ấy. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp bắt bỏ hết để học chữ Trung Quốc”. Chữ cổ trên bãi đá cổ Sapa Phải chăng đây là chữ Việt cổ (trích Thanh hóa Quan Phong) Giáo sư Hà Văn Tấn đã công bố công trình nghiên cứu “Về một nền văn tự trước Hán và khác Hán”, Giáo sư Lê Trọng Khánh thì khẳng định “Nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa Đẩu thời tiền sử để ghi tiếng dân tộc mình”. Nhớ tới câu nói của Vương Duy Trinh: "Vì thập Châu là vùng biên viễn, nhân dân ta còn lưu giữ được thứ chữ ấy", ông hướng tìm tòi lên vùng Tây Bắc, Việt Bắc, vùng khu 4 cũ, rồi lăn lộn lên cả Đông và Tây dãy Trường Sơn để tìm theo dấu vết. Để đi được dài ngày và đi xa, với số tiền lương hưu ít ỏi, ông đã phải tính đến việc ăn ngủ giản tiện nhất, đó là: một chiếc võng bạt, một bi đông đựng nước, một ít bánh mì sấy khô và dăm gói mì tôm. Thế là ông "cầm cự" được hàng chục ngày để đi đến các vùng sâu vùng xa, quyết tìm cho ra chữ Việt cổ. Trong các tài liệu sưu tầm được, ông đặc biệt chú ý đến một bộ chữ lạ. Rất tiếc là những trang sách này đã bị nguỵ trang và khoá mã, mặc dù vậy nó đã tồn tại hàng mấy trăm năm mà không ai chú ý tới. Linh cảm mách bảo, ông đã thức nhiều đêm trắng để mày mò giải mã. Kiến thức tổng hợp và vốn ngoại ngữ đã giúp ông rất nhiều trong lĩnh vực nghiên cứu chữ Việt cổ. Kết quả, ông đã khu biệt được loại ký tự này với các loại văn tự xung quanh, tìm ra được hình dạng, chức năng của từng chữ cái và cách cấu trúc của một loại ký tự mà người ta đã nhầm là chữ Mường, chữ Thái... Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng kêu gọi cả nước khởi nghĩa giành độc lập, mùa xuân năm 40, được thầy Xuyền viết bằng chữ Việt cổ Câu thơ được thầy Xuyền viết bằng chữ Việt cổ ua công trình nghiên cứu về ngôn ngữ người Việt cổ HauĐricourt, ông khẳng định được bộ ký tự này có từ trước công nguyên (loại ký tự bắt nguồn từ chữ Khoa đầu tượng hình chuyển sang chữ cái có ghép vần). Căn cứ vào ý kiến của giáo sư Lê Trọng Khanh: "Các dân tộc Bách Việt dùng thứ chữ này". Khi đã đọc thông viết thạo chữ Việt cổ, ông lại tìm đến các vùng người Thái, người Mường. Loại văn tự này có thể ghi được tiếng Thái, tiếng Mường nhưng không đầy đủ. Ông lại tìm đến các vùng quê Thái Bình, Bắc Ninh, Sơn Tây, Thanh Nghệ Tĩnh... để lắng nghe những người già phát âm. Thứ ký tự này đã giúp ông ghi lại đầy đủ giọng nói, âm vực của họ, giúp ông giải thích được tiếng nói khác nhau của từng vùng - gần như nó đã ghi lại nguyên tiếng nói người Việt cổ. Nó đã giúp ông giải thích được nhiều vấn đề còn thắc mắc. Ví dụ: Vì sao trong tờ Le Paria và tờ L'Humanité từ những năm 20 của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Chữ Nguyễn Ái Quốc được viết là Nguyễn ái Quấc. Và trong cuốn sách sổ sáng của Filíp Bỉnh viết ở Bồ Đào Nha năm 1822, chữ huyên được viết là huên, chữ dòng được viết là dào. So sánh chữ Việt cổ với ngôn ngữ các nước quanh ta Một số bài thơ được thầy Xuyền viết bằng chữ Việt cổ -- Xem thêm: Ông Xuyền đã giải mã hình dạng chữ Việt cổ như thế nào? Cũng như vậy ông có thể chứng minh được một nền văn tự có trước Hán và khác Hán, của giáo sư Hà Văn Tấn qua việc giải thích sự tồn ghi trong cuộc khai quật của bà Cô La Ni ở Lam Giận Hoà Bình năm 1923. Tháng 9/2004, giáo sư Hà Văn Tấn đã mời ông về Hà Nội nghe ông kể lại quá trình đi tìm chữ Việt cổ và khi được ông tặng bản Hịch của Hai Bà Trưng đã chuyển sang chữ Việt cổ, giáo sư đã cảm động nghẹn ngào: "Vấn đề lớn lắm. Chúng ta phải sớm báo cáo lên nhà nước". Dịp hè năm nay, nghe tin tỉnh Sơn La tìm được hàng nghìn cuốn sách cổ có chữ lạ. Ông cầm vài tờ photo lên, đọc mà nước mắt ràn rụa. Như vậy điều dự đoán của các nhà khoa học trước đây đã được chứng minh: Thứ ký tự đặc biệt để ghi âm tiếng nói của người Việt cổ (thứ chữ dân tộc ta đã có từ thì đại Hùng Vương) đã được các dân tộc sử dụng chung và còn được lưu giữ bảo tồn ở vùng Tây Bắc cho đến ngày nay. Chữ Việt cổ có liên hệ gì với chữ Quốc Ngữ?! Chữ Quốc ngữ xuất hiện ở nước ta từ thế kỷ 17. Nhiều cuốn sách cổ được in từ buổi đầu chữ Quốc ngữ xuất hiện, đến nay hầu như không ai đọc được. Khi đem bộ chữ Việt cổ đã được giải mã thử đọc một số cuốn sách cổ, như cuốn “Từ điển Việt-Bồ-La” (1651) của Alexandre de Rhodes, hay cuốn “Sách sổ sang” của Philip Bỉnh (Giám mục người Việt, ở Thủ đô Bồ Đào Nha những năm 1790-1820), thầy giáo Xuyền đã rất thú vị khi dễ dàng đọc được những từ khó mà lâu nay nhiều người không đọc cũng không giải thích được. Chính từ việc này, thầy Xuyền đã đưa ra một giả thuyết: Chữ Quốc ngữ có lẽ không phải là một công trình hoàn toàn mới của Alexandre de Rhodes. Nhà truyền giáo người Bồ đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công La tinh hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ?! Giả thuyết của thầy Xuyền không phải không có căn cứ. Bởi chữ Quốc ngữ và chữ Việt cổ do ông giải mã có cùng cấu trúc ghép vần tương tự nhau, chỉ khác nhau về hình dạng mà thôi! Chính trong cuốn “Từ điển Việt-Bồ-La”, Alexandre de Rhodes đã viết: “Đối với tôi, người dạy tài tình nhất là một thiếu niên bản xứ. Trong vòng 3 tuần, nó đã hướng dẫn cho tôi tất cả các thanh của ngôn ngữ ấy và cách đọc các từ”. Theo ông Xuyền thì “cách đọc các từ” đó nhiều khả năng là thứ chữ Việt cổ! . . .Những trang viết trong cuốn “song ngữ” La Tinh- Việt cổ do ông Xuyền biên soạn. Thời Hùng Vương là thời nào? Cách đây 5.000-6.000 năm, cộng đồng các cư dân Việt cổ đã sinh tụ và phát triển trên một lãnh thổ rộng lớn. Sử sách nước ta và nước ngoài từ xưa và hiện nay đều xác định rõ niên đại của triều đại Hồng Bàng, với Quốc hiệu Văn Lang là từ năm 2.879 đến 258 trước CN, được gọi là Kỷ Hồng Bàng, thời đại các Vua Hùng. Thời kỳ này, nền kinh tế sản xuất nông nghiệp, lúa nước đã khá phát triển với kỹ thuật đồ đồng, những trống đồng nổi tiếng mà hơn trăm năm qua đã tìm thấy ở nhiều nơi trên đất nước ta hiện nay và lãnh thổ nước Văn Lang xa xưa. Theo Khảo cổ học, ở Việt Nam lúa nước đã có từ 10.000 năm về trước và đồ đồng đã phát triển khoảng cách đây 5.000 năm.Thành tựu khảo cổ học, chủng tộc học, v.v…về cư dân Việt cổ và vùng Đông Nam Á, tuy đến nay vẫn còn là bước đầu, mới mẻ nhưng cũng đã chứng minh được phần nào những điều trên. Thầy giáo và học trò thời Hùng Vương Qua quá trình nghiên cứu của nhà giáo về hưu Đỗ Văn Xuyền, các thư tịch cổ ở nhiều nơi trong cả nước đã ghi lại danh sách các thầy giáo và học trò thời Hùng Vương. Bước đầu chúng ta biết từ Hùng Huy Vương – Hùng Vương thứ 6 đến An Dương Vương có 19 thầy giáo dạy 18 trường ở kinh đô và địa phương, với số học trò được biết là 23 người. Học trò học ở các trường mà trong thần tích, thần phả không nêu tên thầy giáo là 17 trường với số học trò là 35 người. Như vậy có 19 thầy giáo và 35 trường học rải khắp các địa bàn trong cả nước và 58 học trò tiêu biểu. Ta khiêm tốn gọi đó là những dấu tích của nền giáo dục thời Hùng Vương. Cũng trong quá trình nghiên cứu đó, ông Xuyền còn tìm thấy thời Bắc thuộc lần thứ I từ năm 111TRCN đến năm 39 – thời Bà Trưng có 10 thầy giáo, 68 học trò và 36 trường ở các địa phương. Tượng thầy trò Vũ Thê Lang được thờ trong Thiên Cổ Miếu Sau đây là danh sách các thầy giáo và học sinh thời Hùng Vương của nhà giáo Đỗ Văn Xuyền tìm ra: 1. Danh sách 18 thầy giáo
2. Danh sách 23 học trò
Giả thuyết chữ Việt cổ đầu tiên là khi nào và chữ Việt cổ còn lưu lại ở những đâu? Trong tập: Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ, do Viện Văn hoá in năm 1986, tác giả Lê Trọng Khánh đã dẫn chứng nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa đẩu thời Phục Hy- Thần Nông để ghi tiếng dân tộc mình. Vào năm 1903 Tổng đốc Thanh Hóa lúc ấy là Vương Duy Trinh công bố việc tìm ra một văn bản viết bằng thứ chữ lạ, trông như những ngọn lửa vờn cháy mà Ông gọi là chữ Hỏa tự. Dựa vào những chữ Hán ghi chú bên cạnh ông dịch được nội dung, thì ra đây là một bài thơ có tựa đề "Mời trầu" có nội dung ca ngợi tình yêu. Vương Duy Trinh cho rằng, đây chắc chắn là chữ của tổ tiên ta từ thời các vua Hùng. Do âm mưu đồng hóa của kẻ thù, chúng tìm cách triệt phá, không để lại dấu tích của thứ văn tự cũ, nay vẫn còn truyền lại và lưu hành trong một bộ phận nhỏ xã hội. Theo nghiên cứu của Ông thì:" Thập châu là vùng biên viễn, nhân dân ta còn lưu giữ được thư chữ này" Văn bản chữ Việt cổ còn lại những gì? Đúng là tài liệu của ta vừa bị giặc nước huỷ diệt, vừa bị ta không biết cách bảo tồn, thí dụ đã từng có một tài liệu về chữ Việt cổ của gia đình cụ Lê Huy Nghiệm sau cách mạng Tháng Tám đã bị mất. Dù giặc ngoại xâm đã tước đoạt, đã thiêu huỷ những tài liệu quý báu của tổ tiên chúng ta như Mã Viện đã tịch thu tất cả những trống đồng có khắc chữ trên đó để đúc ngựa dâng cho Hán Quang Vũ và đúc cột đồng trụ. Năm 207 sau công nguyên, Sỹ Nhiếp du nhập sang nước ta chữ Hán đồng thời ra lệnh thiêu huỷ sách vở và cấm nhân dân không được dùng thứ chữ viết của tổ tiên ta. Nhưng chữ Việt Cổ càng ngày càng phát lộ nhiều: Trên trống đồng, trên qua đồng, trên vách các hang động, bãi đá cổ ở Sapa, ở Pá Màng xã Liệp Tè Thuận Châu Sơn La, chữ Việt Cổ còn tồn tai vùng biên viễn Thập Châu. Thư viện Sơn La đã sưu tầm được gần 1500 cuốn sách, Bảo Tàng Sơn La cũng sưu tầm được gần 1000 cuốn sách trong đó là chữ Thái hay chữ Việt Cổ mà chưa nghiên cứu vấn đề này. Nhất định chúng ta tìm thấy và giải mã được chữ Việt Cổ, chữ của tổ tiên để lại. Ông Xuyền đã giải mã hình dạng chữ Việt cổ như thế nào? Cách đây hơn một thế kỷ, Phạm Thận Duật, một nhà văn hóa lớn của dân tộc, trong thời gian làm Tri châu ở Tây bắc (khoảng năm 1855) đã phát hiện nhiều bộ chữ mà Ông cho là chữ Thái thổ tự , trong đó có một bộ chữ cái có kèm ghi chú chữ Hán. Theo mô tả của Ông, thứ chữ này được viết theo chiều ngang, bộ chữ gồm 18 thể chữ cái theo vần bằng, 18 thể chữ cái theo vần chắc. Còn ở Châu Mai Sơn, Châu Minh Biên có bộ chữ gồm 17 thể chữ cái theo vần bằng, 15 thể chữ cái theo vần chắc. Ngoài ra còn 11 chữ và nét phụ ở 04 bên mà Ông gọi là "tứ bàng phụ họa, sử dụng 03 thể chữ cái đảo lên, lộn xuống, ghép lại với nhau thành từ, thì đều có thể thông với văn tự Trung châu" (tức là có thể chuyển ngữ cho chữ Hán). Theo nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền: Bộ chữ do Phạm Thận Duật mô tả là bộ chữ không có dấu, trong đó 17 chữ vần bằng là phụ âm, đi với thanh không. 16 thể chữ theo vần trắc là phụ âm đi với thanh huyền. 11 nét phụ (tứ bàng phụ họa) cho những từ vần bằng chính là nguyên âm. Sau nhiều năm khảo sát ở nhiều miền trong cả nước, Đỗ Văn Xuyền sưu tầm được một khối lượng lớn tư liệu về chữ Việt cổ, và khu biệt được một bộ chữ gồm 47 chữ cái mà Ông tin chắc là chữ Việt cổ, vì bộ chữ này thỏa mãn được 03 tiêu chuẩn kiểm tra ký tự của một dân tộc, được các nhà khoa học đề ra, đó là: - Có ghi lại được đầy đủ tiếng nói của dân tộc đó không ? Nhóm nghiên cứu rất cần sự ủng hộ của các nhà khoa học và các cơ quan nghiên cứu khoa học của nhà nước để hoàn thiện công trình khoa học này. Nguồn:Tổng hợp (2008) giáo dụclịch sửthầy giáohọc tròVua Hùngngôn ngữchữ Việt |