Chảy máu cam nguyên nhân

Epistaxis là chảy máu mũi. Chảy máu có thể từ chảy nhỏ giọt đến dòng chảy mạnh, và hậu quả có thể là từ khó chụi đến xuất huyết đe dọa mạng sống.

Sinh lý bệnh Chảy máu mũi

Hầu hết chảy máu mũi là chảy ra trước, có nguồn gốc từ một mạch máu của mạng lưới mạch máu ở phần trước vách ngăn mũi (điểm mạch Kiesselbach).

Ít gặp hơn nhưng nghiêm trọng hơn là các triệu chứng chảy máu ra sau, xuất phát từ vách ngăn sau nằm trên xương lá mía hoặc ở ngoài cuốn mũi giữa và cuốn mũi dưới. Chảy máu mũi sau có xu hướng xảy ra ở những bệnh nhân có tiền sử xơ vữa động mạch hoặc có rối loạn đông máu và phẫu thuật mũi hoặc xoang.

Nguyên nhân Chảy máu mũi

Các nguyên nhân phổ biến nhất của chảy máu mũi

  • Chấn thương tại chỗ (ví dụ như xì mũi mạnh và ngoáy mũi mạnh)

  • Khô niêm mạc mũi

Có một số nguyên nhân ít phổ biến hơn (xem bảng ). Tăng huyết áp Tăng huyết áp Tăng huyết áp là tình trạng tăng liên tục của huyết áp tâm thu lúc nghỉ (≥ 130 mmHg) hoặc huyết áp tâm trương lúc nghỉ (≥ 80 mm Hg), hoặc cả hai. Tăng huyết áp mà không có nguyên nhân rõ ràng... đọc thêm

Chảy máu cam nguyên nhân
có thể góp phần gây ra chảy máu cam dai dẳng nhưng không phải là nguyên nhân duy nhất.

Bảng

Chảy máu cam nguyên nhân

Đánh giá chảy máu mũi

Lịch sử

Tiền sử của các bệnh hiện nay nên cố gắng xác định máu lúc đầu bắt đầu chảy máu từ bên nào; mặc dù bệnh chảy máu mũi chủ yếu liên quan đến cả hai bên, hầu hết bệnh nhân có thể tự xác định được chảy máu mũi ban đầu từ bên nào, điều đó rất quan trọng để khám đánh giá bên chảy máu. Ngoài ra, cần đánh giá thời gian chảy máu, cũng như bất kỳ yếu tố kích thích nào (như hắt hơi, xì mũi, ngoáy mũi) và những nỗ lực của bệnh nhân để ngăn chặn chảy máu. Nôn máu đen có thể xảy ra, và nuốt máu là một chất kích thích dạ dày, do đó bệnh nhân cũng có thể mô tả bệnh nôn ra máu đen. Các triệu chứng quan trọng liên quan trước khi khởi phát bao gồm các triệu chứng nhiễm trùng đường hô hấp trên (URI), cảm giác nghẹt mũi và đau mũi hoặc mặt. Cần phải xác định thời gian và số lần chảy máu mũi trước đó và mức độ của chúng.

Khám toàn thân nên hỏi về các triệu chứng chảy máu quá mức, bao gồm dễ bị bầm tím; phân có máu hoặc phân đen; ho ra máu; máu trong nước tiểu; và chảy máu chân răng khi chải đánh răng, lấy máu, hoặc chấn thương nhẹ.

Tiền sử y khoa nên lưu ý hiện diện của rối loạn xuất huyết đã biết (bao gồm cả tiền sử gia đình) và các điều kiện liên quan đến khuyết tật tiểu cầu hoặc đông máu, đặc biệt là ung thư, xơ gan, HIV và mang thai. Tiền sử sử dụng thuốc cũng cần tìm hiểu cụ thể về việc sử dụng các loại thuốc có thể gây chảy máu, bao gồm aspirin và các thuốc kháng viêm không steroid (NSAID) khác, các thuốc chống ngưng tụ tiểu cầu khác (như clopidogrel), heparin và warfarin.

Khám thực thể

Các dấu hiệu quan trọng cần được xem xét để xác định suy giảm thể tích nội mạch (nhịp tim nhanh, hạ huyết áp) và tăng huyết áp. Nếu đang chảy máu, điều trị diễn ra đồng thời trong quá trình khám nội soi.

Nếu bệnh nhân đang chảy máu, việc kiểm tra rất khó, vì vậy đầu tiên cần phải kiểm soát chảy máu như mô tả dưới đây. Mũi được kiểm tra bằng cách sử dụng một van mở mũi và một đèn sáng hoặc gương gắn trên đầu, để một tay được tự do để thao tác hút hoặc sử dụng dụng cụ.

Các vị trí chảy máu trước đây thường là rõ ràng khi khám trực tiếp. Nếu không có vị trí rõ ràng và chỉ có 1 hoặc 2 lần bị chảy máu mũi ít, cần kiểm tra thêm. Nếu chảy máu trầm trọng hoặc tái phát và không thấy chỗ nào, có thể cần nội soi ống cứng.

Khám tổng quát nên tìm kiếm các dấu hiệu rối loạn chảy máu, bao gồm lưỡi đỏ, tím, và giãn mao mạch dưới da và miệng cũng như bất kỳ khối u trong dạ dày.

Các dấu hiệu cảnh báo

Những phát hiện sau đây cần được quan tâm đặc biệt:

  • Dấu hiệu giảm thể tích máu hay sốc do xuất huyết

  • Sử dụng thuốc chống đông

  • Dấu hiệu lâm sàng của rối loạn chảy máu

  • Chảy máu không ngưng khi đã nhét meches để ép trực tiếp hoặc dùng thuốc co mạch

  • Nhiều lần tái phát chảy máu, đặc biệt là không có nguyên nhân rõ ràng

Giải thích các dấu hiệu

Nhiều trường hợp chảy máu mũi có yếu tố khởi phát là vết đứt rõ ràng (đặc biệt là xì mũi hoặc ngoáy mũi) khi khám (xem bảng ).

Xét nghiệm

Không bắt buộc phải kiểm tra định kỳ. Bệnh nhân có triệu chứng hoặc dấu hiệu rối loạn chảy máu và những người bị chảy máu cam nặng hoặc tái phát nên làm xét nghiệm công thức máu toàn phần (CBC), thời gian prothrombin (PT) và thời gian thromboplastin một phần (PTT)

CT có thể được thực hiện nếu nghi ngờ dị vật mũi xoang, khối u, hoặc viêm xoang.

Điều trị Chảy máu mũi

Chữa trị tạm thời cho bệnh nhân đang chảy máu là cho chảy máu mũi trước. Nhu cầu truyền máu được xác định bởi mức hemoglobin, các triệu chứng thiếu máu và các dấu hiệu sinh tồn. Bất kỳ rối loạn chảy máu nào được xác định đều được điều trị.

Chảy máu mũi trước

Chảy máu thường có thể được kiểm soát bằng cách bóp chặt hai cánh mũi với nhau trong 10 phút trong khi bệnh nhân ngồi thẳng đứng (nếu có thể). Nếu thao tác này không thành công, một đoạn meches ngâm tẩm thuốc co mạch (ví dụ phenylephrine 0,25%) và gây tê tại chỗ (ví dụ lidocaine 2%) và nhét vào mũi ép trong 10 phút nữa. Điểm chảy máu sau đó có thể được đốt bằng điện cực bipolar hoặc que tăm bông tẩm bạc nitrate. Đốt 4 góc quanh chỗ chảy máu là hiệu quả nhất. Phải cẩn thận để tránh làm cháy niêm mạc quá sâu; do đó, bạc nitrate là phương pháp được ưa thích.

Thêm vào đó, có thể chèn thêm một miếng gelaspon vào chỗ chảy máu. Bôi thuốc vào que tăm bông bôi tại chỗ vào mũi, ví dụ như bacitracin hoặc mupirocin, có thể giúp ích, cả hai đều là dạng bôi trơn và phòng nhiễm trùng. Nếu những phương pháp này không có hiệu quả, có thể dùng cách ép chỗ chảy máu bằng bóng, như sonde Folley có thể được sử dụng để ép các vị trí chảy máu.

Một lựa chọn khác, nhét miếng bịt mũi trước bao gồm gạc tẩm petrolatum 1 cm (½ inch); lên đến 175 cm (72 inch) nếu cần thiết. Nhét meches sẽ đau, và thuốc giảm đau thường là cần thiết; nó chỉ nên được sử dụng khi các phương pháp khác thất bại hoặc không có sẵn.

Chảy máu mũi sau

Chảy máu mũi sau có thể khó kiểm soát. Bóng ép mũi như sonde Folley nhanh và thuận tiện; nhét meches mũi sau có hiệu quả nhưng khó thực hiện đòi hỏi phải có kỹ năng. Cả hai đều rất khó chịu; Có thể cần đến an thần và giảm đau, và phải nằm viện.

Nhét sonde folley được lắp vào theo hướng dẫn kèm theo sản phẩm.

Nhét miếng gạc mũi sau bao gồm miếng gạc vuông 10 cm gấp, cuộn lại, được buộc chặt thành một bó chặt với 2 sợi chỉ tơ, được tẩm thuốc mỡ kháng sinh. Đầu tận của một sợi chỉ được gắn với một ống sonde đã được đưa vào qua khoang mũi ở bên mũi không chảy máu và đưa xuống qua miệng. Khi ống thông rút ra từ mũi, gói sau được đưa vào vị trí trên vòm họng sau khẩu cái mềm và chặn lại ở của mũi sau. Đường khâu thứ 2, được để dài, thòng xuống phía sau cổ họng và được cắt dưới mức của vòm miệng mềm để có thể sử dụng nó để lấy túi ra. Hốc mũi trước này được nhét meches chặt chẽ với meches dầu ½ inch, và sợi chỉ thứ nhất được buộc trên một cuộn gạc ở miếng đệm trước cửa mũi để đảm bảo cuộn meches mũi sau. Meches được giữ ở mũi từ 4 đến 5 ngày. Kháng sinh (ví dụ, amoxicillin/clavulanate 875 mg uống ngày 2 lần/ngày từ 7 đến 10 ngày) được dùng để ngăn ngừa viêm xoang và viêm tai giữa. Nhét meche mũi sau làm giảm PO2 động mạch, O2 bổ sung được cung cấp trong khi nhét meche được thực hiện. Thủ thuật này gây khó chụi và nên tránh nếu có thể.

Đôi khi, động mạch hàm trong và nhánh của nó được thắt hoặc đốt để cầm máu. Các động mạch có thể được thắt bằng kẹp sử dụng hướng dẫn nội soi hoặc kính hiển vi và phương pháp phẫu thuật mở xuyên qua xoang hàm trên (hàm trên bên trong) hoặc phương pháp nội soi qua đường mũi (sphenopalatine). Nếu không cầm được máu, nút mạch có thể được thực hiện bởi một bác sĩ X quang có kinh nghiệm. Nếu được thực hiện các thuật này một cách kịp thời, có thể rút ngắn thời gian nằm viện.

Rối loạn chảy máu

Trong hội chứng Rendu-Osler-Weber, ghép da dày toàn bộ giảm số lượng chảy máu mũi và cho phép điều chỉnh thiếu máu. Chiếu tia laser (Nd: YAG) có thể được thực hiện trong phòng mổ. Tắc mạch chọn lọc cũng rất hiệu quả, đặc biệt ở những bệnh nhân không thể chịu được gây tê nói chung hoặc những người can thiệp phẫu thuật đã không thành công. Nội soi mũi xoang đã làm cho phẫu thuật nội soi cầm máu mũi hiệu quả hơn.

Máu có thể bị nuốt với lượng lớn, và ở bệnh nhân bị bệnh gan cần được loại bỏ ngay bằng thụt trực tràng và thuốc xổ để ngăn ngừa bệnh não gan. Đường tiêu hoá cần được khử trùng bằng kháng sinh không hấp thu được (ví dụ, neomycin 1 g uống 4 lần ngày) để ngăn ngừa sự phân hủy máu và sự hấp thụ amoniac.

Làm sao bị chảy máu cam?

Khí hậu khô hoặc không khí khô, nóng khiến mũi bạn khô làm mạch máu trở nên nhạy cảm và có thể bị vỡ.
Ngoáy mũi..
Day mũi hoặc chà xát quá mạnh..
Các chất kích thích hóa học như amoniac..
Sử dụng cocaine..
Sử dụng aspirin..
Cảm lạnh..
Xì mũi liên tục và quá mạnh..

Chảy máu mũi là biểu hiện của bệnh gì?

Chảy máu mũi là triệu chứng của 1 bệnh hay nhiều bệnh kết hợp, hay gặp nhất là chảy máu mũi do tăng huyết áp. - Bệnh lý tim mạch: Tăng huyết áp, dị dạng mạch máu… - Bệnh lý về máu: Suy tủy, rối loạn chức năng đông cầm máu, suy tủy… - Viêm nhiễm: Viêm mũi xoang cấp, viêm mũi xoang dị ứng đợt bội nhiễm

Tại sao lại bị chảy máu cam ở người lớn?

Nguyên nhân là khi huyết áp tăng đột biến gây tổn thương, vỡ mạch máu mũi. Đặc biệt nếu huyết áp cao kết hợp xơ cứng động mạch sẽ có thể khiến bệnh nhân cao tuổi chảy máu cao với khối lượng lớn và thường xuyên.

Chảy máu mũi khi nào nguy hiểm?

Đối với những trường hợp chảy máu mũi nhẹ có thể tiến hành sơ cứu tại chỗ mà không cần đến can thiệp y tế. Tuy nhiên, nếu thấy máu chảy không có dấu hiệu thuyên giảm kèm các biểu hiện như toát mồ hôi, xanh nhợt, thở khó, trụy mạch,... thì bệnh nhân nên được đưa ngay đến bác sĩ để được cấp cứu kịp thời.