Chính sách tiền tệ có độ trễ vì
Show Không gian tiền tệ sẽ chịu tác động mạnh hơn bởi lãi suất đô la Mỹ có xu hướng tăng
Thận trọng chính sách tiền tệ, đề phòng lạm phát17:05 11/07/2022
Theo chuyên gia, cần thận trọng với chính sách tiền tệ trong thời gian này, dù tín dụng có vai trò nhất định đối với tăng trưởng kinh tế, nhưng ảnh hưởng của tín dụng đối với lạm phát còn lớn hơn.
Tín dụng tăng trưởng thúc đẩy phục hồi kinh tế
5 tác động lớn từ chính sách của Fed đến nền kinh tế Việt Nam
Các yếu tố đảm bảo ổn định lãi suất và hiệu quả chính sách năm 2022
Năm 2022: Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế
Tín dụng tăng nóng Thông tin từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, tính tới 30/6/2022, tín dụng toàn nền kinh tế đạt trên 11,4 triệu tỷ đồng, tăng 9,35% so với mức tăng 6,47% cuối năm 2021. Cơ cấu tín dụng tiếp tục tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất – kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên. Còn tín dụng với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát. Huy động vốn đạt trên 11,8 triệu tỷ đồng, tăng 4,51%, trong khi cùng kỳ năm 2021 tăng 4,09%. Do tăng trưởngtín dụng6 tháng đầu năm tăng nóng, dẫn đến nhiều ngân hàng gần như đã cạn “room” cho nửa cuối năm và đại diện nhiều nhà băng đã đề nghị NHNN nới hạn mức này một cách phù hợp, để các ngân hàng tham gia hỗ trợ khách hàng. Tuy nhiên, trái ngược với đề xuất này, ông Phạm Đức Ấn, Chủ tịch HĐTV Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank) lại cho rằng, cơ quan quản lý không nên nới mạnh “room” trong nửa cuối năm 2022. Mặc dù tăng trưởng tín dụng của Agribank là gần 6% tính tới ngày 30/6, trong khi hạn mức tín dụng cả năm là 7%. Như vậy, ngân hàng chỉ còn dư địa tăng trưởng tín dụng hơn 1% trong 6 tháng cuối năm. Song, Chủ tịch Agribank phân tích, tốc độ tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm cao hơn 2 lần so với tốc độ huy động vốn là dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro cho lãi suất. “Nguồn vốn trong dân chỉ có mức nhất định, tăng trưởng huy động vốn năm nay không tăng mấy so với năm trước trong khi tín dụng tăng quá mạnh thì các ngân hàng sẽ giành giật vốn lẫn nhau, châm ngòi cho cuộc đua lãi suất. Lãi suất đầu vào lên cao sẽ tạo áp lực lên lãi suất đầu ra, từ đó tạo gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp, gián tiếp tạo áp lựclạm phát. Nếu lạm phát tăng, mọi thành tựu thời gian qua sẽ trở về số 0”, ông Ấn lo ngại và mong muốn Chính phủ, NHNN có kế hoạch đảm bảo tăng trưởng phù hợp. Trao đổi với Diễn đàn Doanh nghiệp, một chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng giải thích, mức tín dụng đưa ra thị trường là yếu tố lạm phát lõi, lạm phát cơ bản do yếu tố tiền tệ. Mức độ tăng, giảm tín dụng cũng là sự biểu hiện chính sách tiền tệ nới lỏng hay thắt chặt. Trong đó, sự gia tăng tín dụng sẽ có tác động làm tăng cung tiền, qua đó tác động đến lạm phát. Nhưng ảnh hưởng của tín dụng đến lạm phát và tăng trưởng kinh tế sẽ không giống nhau giữa các quốc gia và trong mỗi giai đoạn phát triển của thị trường tiền tệ, thì mức tác động của tín dụng đến nền kinh tế trong cùng một quốc gia cũng không giống nhau. Ngoài ra, luôn có độ trễ nhất định từ tác động của chính sách tiền tệ đến lạm phát và tăng trưởng qua các kênh tín dụng, lãi suất, giá tài sản tài chính và tỷ giá. “Dựa trên cả lý thuyết và thực tiễn, chúng ta thấy rõ hơn vai trò của chính sách tiền tệ nói chung, tín dụng nói riêng đối với tăng trưởng kinh tế và lạm phát, để từ đó có những nhận định và giải pháp phù hợp hơn. Riêng đối với Việt Nam, trong ngắn hạn, tín dụng cũng có vai trò nhất định đối với tăng trưởng kinh tế, nhưng ảnh hưởng của tín dụng đối với lạm phát còn lớn hơn”, vị chuyên gia nhận định. Không thể coi nhẹ lạm phát Trong bối cảnh nhiều bất ổn từ bên trong kết hợp với bên ngoài tác động đến nền kinh tế Việt Nam, các chuyên gia đều khuyến nghị, năng lực điều hành, giám sát hiệu quả dòng tiền lúc này mới là quan trọng nhất. Năng lực đó phải được nhận thức đồng thời từ bộ ba: Ngân hàng - Doanh nghiệp - Nhà quản lý. Phương châm là không thắt chặt toàn diện, mở có trọng tâm, trọng điểm và đóng đúng lúc, đúng nơi, đúng liều lượng. Lạm phát và lãi suất phải chấp nhận nương theo thị trường, nhưng cần nằm trong tầm kiểm soát. Đánh giá về vấn đề này, ông Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc Trường Chính sách công và Quản lý, Đại học Fulbright bày tỏ, lạm phát thời điểm này ở Việt Nam chưa lo ngại nhưng tương lai thì rất cần quan tâm. Theo ông, xung đột giữa Nga – Ukraine không có tác động trực tiếp nhiều đến Việt Nam vì quan hệ thương mại đầu tư và tài chính khá nhỏ, nhưng tác động gián tiếp đến giá nhiên liệu, lương thực, gãy chuỗi cung ứng là rất nghiêm trọng. Lạm phát trong nước hiện chưa cao bởi độ trễ của nhập khẩu lạm phát, tăng trưởng GDP chưa cao và nhờ là nước xuất khẩu lương thực thực phẩm trong khi giá mặt hàng này leo thang. “Rõ ràng tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam đang không thấp, cho nên chính sách tiền tệ theo quan điểm của tôi là cần thận trọng, không nên bung tín dụng để tránh hệ lụy không tốt. Đặc biệt, lạm phát là một trong 3 áp lực với nền kinh tế bên cạnh nợ xấu và các yếu tố khác bao gồm dịch bệnh, chiến sự, lạm phát thế giới, xu hướng thắt chặt tiền tệ. Chúng ta phụ thuộc nhiều vào kinh tế bên ngoài nên bất kỳ sự suy thoái nào cũng ảnh hưởng đến Việt Nam", vị chuyên gia đánh giá. Theo PGS., TS. Tô Trung Thành, Đại học Kinh tế quốc dân, thực tế không gian tiền tệ sẽ chịu tác động mạnh hơn bởi lãi suất đô la Mỹ có xu hướng tăng khiến Ngân hàng trung ương các nước, bao gồm Việt Nam có xu hướng tăng lãi suất, hoặc chí ít cũng khó có thể giảm sâu lãi suất. Khi tỷ giá VND/USD có xu hướng tăng ảnh hưởng mạnh đến việc nhập khẩu lạm phát. Vì vậy, chính sách nới lỏng tiền tệ trong nước phải cẩn trọng hơn để ổn định vĩ mô, mà cần dựa chủ yếu vào chính sách tài khóa để hỗ trợ kinh tế trong nước hồi phục. “Quy mô và công cụ hỗ trợ tiền tệ trong thời gian tới cần tập trung vào một số vấn đề như vẫn phải kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng nóng ở các thị trường tài sản, hướng trọng tâm dòng vốn tín dụng đến các khu vực sản xuất thực. Đặc biệt, nên tập trung cải thiện về thể chế, giảm thiểu các thủ tục để gia tăng khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp thuận lợi hơn”, PGS.,TS. Tô Trung Thành nói. Theo Diễm Ngọc/diendandoanhnghiep.vn Chính sách tài khóa (fiscal policy) trong kinh tế học vĩ mô là chính sách thông qua chế độ thuế và đầu tư công để tác động tới nền kinh tế. Chính sách tài khóa cùng với chính sách tiền tệ là các chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng, nhằm ổn định và phát triển kinh tế. Định nghĩa Chính sách tài khóa Chính sách tài khóa là việc sử dụng chi tiêu của chính phủ và thu ngân sách để tác động đến nền kinh tế. Chính sách tiền tệ là quá trình mà cơ quan tiền tệ của một quốc gia kiểm soát việc cung cấp tiền, thường nhắm mục tiêu một tỷ lệ quan tâm để đạt được một tập hợp các mục tiêu hướng tới sự tăng trưởng và ổn định của nền kinh tế. Chính sách tài khóa ảnh hưởng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế để đạt được mục tiêu kinh tế ổn định giá cả, việc làm đầy đủ và tăng trưởng kinh tế. Chính sách tiền tệ ảnh hưởng cung tiền để ảnh hưởng đến kết quả như tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tỷ giá hối đoái với các đồng tiền khác và tỷ lệ thất nghiệp. Đối với chính sách tài khóa, chính phủ tạo chính sách (ví dụ: Quốc hội Hoa Kỳ, Thư ký ngân hàng) Đối với chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ương (ví dụ: Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ hoặc Ngân hàng trung ương châu Âu) Đối với chính sách tài khóa đó là thuế và số tiền chi tiêu của chính phủ Đối với chính sách tiền tệ đó là lãi suất; dự trữ bắt buộc; chính sách tỷ giá hối đoái; nới lỏng định lượng; nghiệp vụ thị trường mở… Chính sách tài khóa: Khi nền kinh tế đang ở tình trạng suy thoái, nhà nước có thể giảm thuế, tăng chi tiêu (đầu tư công) để chống lại. Chính sách tài chính như thế gọi là chính sách tài khóa mở rộng. Xem thêm >> Đầu tư công là gì ? Đầu tư công ảnh hưởng gì đến nền kinh tế tài chính và thị trường chứng khoán. Ngược lại, khi nền kinh tế ở tình trạng lạm phát và có hiện tượng nóng, thì nhà nước có thể tăng thuế và giảm chi tiêu của mình để ngăn cho nền kinh tế khỏi rơi vào tình trạng quá nóng dẫn tới đổ vỡ. Chính sách như thế này gọi là chính sách tài khóa thắt chặt. Trong nền kinh tế mở, hiệu quả của chính sách phụ thuộc vào chế độ tỷ giá hối đoái. Nếu là chế độ tỷ giá hối đoái cố định, chính sách tài chính sẽ phát huy hiệu quả. Còn nếu là chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, chính sách tài chính(chính sách tài khóa) sẽ không có hiệu lực do những thay đổi tỷ giá gây ra bởi chính sách tài chính sẽ triệt tiêu hiệu quả của chính sách. Ở nhiều nước, chính phủ muốn tiến hành đầu tư (chi tiêu chính phủ) thường phải xin quốc hội phê duyệt. Khả năng bị quốc hội bác bỏ không phải là không có. Vì thế, không phải cứ muốn thực hiện chính sách tài chính nới lỏng thông qua tăng chi tiêu chính phủ là luôn có thể làm được. Mặt khác khi đã chi và tiến hành đầu tư rồi, mà lại muốn thực hiện chính sách tài chính thắt chặt lại cũng khó khăn vì không thể bỏ dở các công trình đầu tư đang triển khai được. Thực hiện chính sách tài chính nới lỏng thông qua giảm thuế thì dễ. Nhưng khi muốn thực hiện chính sách tài chính thắt chặt thông qua tăng thuế lại rất dễ bị người dân phản đối. Chính phủ muốn thực hiện chính sách tài chính nới lỏng bằng cách tăng chi tiêu chính phủ. Giả sử được quốc hội thông qua thì cũng đã mất thời gian chờ đợi quốc hội xem xét thảo luận. Sau đó, để triển khai còn phải tiến hành các hoạt động như lập kế hoạch dự án, khảo sát-thiết kế để triển khai đầu tư. Những việc này cũng mất không ít thời gian. Chính vì vậy, có một độ trễ để chính sách tài chính nới lỏng bắt đầu phát huy tác dụng. Trong kinh tế vĩ mô, chính sách tài khóa có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Xem bảng >> So sánh ưu điểm và nhược điểm của chính sách tài khóa so với chính sách tiền tệ ! Việt Nam đã kiểm soát tốt dịch COVID-19 những sự suy giảm của kinh tế toàn cầu, sự đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu vẫn gây tác động tiêu cực mạnh mẽ đến các hoạt động của nền kinh tế Tạo dư địa tài khóa để chống đỡ các “cú sốc” kinh tế. Cơ cấu lại nguồn thu, tiết kiệm chi ngân sách Nhà nước. Thâm hụt tài khóa (tiếng Anh là Fiscal Deficit) là sự thiếu hụt thu nhập của chính phủ so với chi tiêu của chính phủ đó. Chính phủ có thâm hụt tài khóa xảy ra khi chi tiêu vượt quá thu nhập. Thâm hụt tài khóa được tính bằng tỷ lệ phần trăm của tổng sản phẩm quốc nội (GDP), hoặc đơn giản là tổng số đô la chi tiêu vượt quá thu nhập. Trong cả hai trường hợp, con số thu nhập chỉ bao gồm thuế và các khoản thu khác và không bao gồm tiền đã vay để bù đắp sự thiếu hụt. Lưu ý: Thâm hụt tài khóa khác với nợ tài chính. Theo đó, nợ tài chính có thể hiểu là tổng số nợ tích lũy qua nhiều năm chi tiêu thâm hụt. Chính sách tài khóa mở rộng là chính sách tăng cường chi tiêu của chính phủ (Chi tiêu > Thuế) thông qua mở rộng chi tiêu và/hoặc giảm bớt nguồn thu thuế. Chính sách tài khóa thu hẹp là chính sách giảm bớt chi tiêu hoặc/và tăng nguồn thu của chính phủ. Kỷ luật tài khóa là tập hợp các quy tắc và quy định về việc dự thảo, phê duyệt, thực hiện ngân sách nhà nước. Hiểu một cách khác, kỷ luật tài khóa là các giới hạn về các chỉ tiêu tài khóa được chuẩn hóa trong pháp luật, tức là các mức về thu, chi tiêu công, cân bằng ngân sách và nợ công được đưa ra. Tuân thủ các chỉ tiêu này tức là đảm bảo kỷ luật về tài khóa. Kỷ luật tài khóa được xây dựng trong bối cảnh vĩ mô của nền kinh tế, có vai trò giúp chính quyền các cấp tránh được những tiêu cực do khó khăn về tài khóa và đóng góp tích cực đối với sự ổn định tài chính của quốc gia. Việt Nam những năm gần đây được đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế ổn định. Dù chịu nhiều sự tác động, tuy nhiên tình hình kinh tế của Việt Nam vẫn có nhiều chuyển biến nhất định, điều này đến từ sự phối hợp hiệu quả giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ của chính phủ và ngân hàng nhà nước. Liên quan đến các chính sách tài khóa và tiền tệ tại Việt Nam, năm 2020 trước những tác động tiêu cực do dịch bệnh Covid-19, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách tiền tệ nới lỏng và tài khóa mở rộng nhằm hỗ trợ người dân và doanh nghiệp vượt qua khó khăn.
Tại Việt Nam, Chính phủ đã có gói hỗ trợ với quy mô ở mức từ 1,5 – 6% GDP. Gói tài khóa của Việt Nam nhìn chung tập trung vào mục đích:
Gói an sinh xã hội: Việt Nam có gói hỗ trợ tài khóa 62 nghìn tỷ VND Theo YSedu Được tài trợ bởi Chứng khoán Yuanta |