Chúng ta cần sử dụng nước sông hồng như thế nào

[HNM] - Mực nước lưu vực sông Hồng xuống thấp không chỉ tạo ra nguy cơ hạn hán trong sản xuất nông nghiệp vụ đông xuân 2019-2020 của 12 tỉnh, thành phố vùng trung du và Đồng bằng sông Hồng, mà còn là thách thức đối với nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội. Ứng phó với thực trạng này như thế nào để hướng tới mục tiêu phát triển bền vững là nội dung cuộc trao đổi giữa phóng viên Báo Hànộimới với Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Nguyễn Ngọc Sơn và Trưởng phòng Quy hoạch thủy lợi Bắc Bộ [Viện Quy hoạch thủy lợi - Bộ NN&PTNT] Lê Viết Sơn.

Nhiều nguy cơ hiện hữu

Trưởng phòng Quy hoạch thủy lợi Bắc Bộ [Viện Quy hoạch thủy lợi] Lê Viết Sơn.

- Nhiều năm nay, Viện Quy hoạch thủy lợi được Tổng cục Thủy lợi chọn làm đơn vị tư vấn xây dựng kế hoạch điều tiết hồ thủy điện bổ sung nguồn nước cho hạ du sông Hồng phục vụ sản xuất nông nghiệp vụ đông xuân. Thưa ông Lê Viết Sơn, nguồn nước các hồ thủy điện có mối liên hệ như thế nào đối với sông Hồng?

- Như chúng ta đã biết, sông Hồng được hình thành từ 3 sông nhánh lớn là sông Đà, sông Lô và sông Thao. Trong đó, sông Đà là dòng chảy lớn nhất, cấp khoảng 42% lưu lượng nước cho sông Hồng, sông Lô cấp khoảng 25% và sông Thao cấp khoảng 19%... Hiện nay, trên 3 dòng này có 7 hồ thủy điện lớn là: Lai Châu, Bản Chát, Nậm Chiến, Sơn La, Hòa Bình, Thác Bà và Tuyên Quang. Các hồ này không chỉ làm nhiệm vụ cấp nguồn cho các nhà máy thủy điện hoạt động mà còn làm nhiệm vụ điều tiết nước cho sông Hồng vào mùa cạn…

Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, mực nước các hồ đều thấp hơn nhiều so với dung tích được phép trữ trong mùa cạn. Điển hình như: Hồ Hòa Bình thấp hơn 4m, hồ Thác Bà thấp hơn khoảng 1,5m… Tổng dung tích hữu ích hiện có ở các hồ thủy điện thiếu hụt so với mực nước dâng bình thường khoảng gần 11 tỷ mét khối; trong đó tính riêng 3 hồ chứa lớn trên lưu vực sông Hồng là: Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình đã thiếu hụt gần 7,3 tỷ mét khối…

- Về nguồn nước các sông hiện nay như thế nào, thưa ông?

- Như tôi đã nói, hiện nay các hồ thủy điện đang trong thời gian được phép tích nước để phát điện trong mùa cạn. Do vậy, mực nước của các dòng sông: Hồng, Đà, Thao, Lô… đang ở mức thấp so với cùng kỳ năm 2018 do chịu ảnh hưởng của việc điều tiết của các hồ chứa thượng nguồn. Cụ thể, trên sông Hồng, đoạn qua địa phận thành phố Hà Nội, mực nước bình quân tại thị xã Sơn Tây đạt 2,87m, tại huyện Phúc Thọ 2,74m, tại huyện Mê Linh 2,07m, tại quận Long Biên 1,68m…

- Mực nước như hiện nay có ảnh hưởng như thế nào đối với ngành Nông nghiệp, thưa ông Lê Viết Sơn?

- Mực nước sông Hồng hạ thấp đã ảnh hưởng tới 6 phân lưu là các sông: Đáy, Đuống, Luộc, Trà Lý, Đào và sông Ninh Cơ. Do mực nước sông Hồng hiện nay hạ thấp nên nhiều công trình lấy nước của 12 tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng Bắc Bộ không thể lấy được nước. Nếu không có giải pháp ứng phó kịp thời thì hơn 600.000ha sản xuất nông nghiệp vụ đông xuân của vùng Đồng bằng Bắc Bộ sẽ bị hạn hán; chưa kể ảnh hưởng đến hoạt động giao thông đường thủy, gia tăng nguy cơ xâm nhập mặn…

- Cụ thể thành phố Hà Nội chịu ảnh hưởng như thế nào, thưa ông Nguyễn Ngọc Sơn?

- Với mực nước sông Hồng như hiện nay, chắc chắn các trạm bơm: Phù Sa, Thanh Điềm, cống Cẩm Đình, Liên Mạc… không thể hoạt động. Thực tế, hiện tượng này đã xảy ra trong vụ đông xuân 2018-2019. Điều này đồng nghĩa nhiều dòng sông trên địa bàn thành phố, như: Nhuệ, Đáy… tiếp tục bị cạn kiệt, ô nhiễm vì thiếu dòng chảy, 66.000ha sản xuất nông nghiệp vụ đông xuân có nguy cơ bị hạn hán. Ngoài ra, việc hạ thấp mực nước sông Hồng trong nhiều ngày sẽ làm giảm nguồn nước ngầm, gia tăng nguy cơ sụt lún đất…

- Như vậy, các nhà máy sản xuất nước sạch sinh hoạt của Hà Nội lấy nước mặt sông Đà, sông Đuống… có bị ảnh hưởng?

- Theo tôi thì ít có khả năng bị ảnh hưởng, nếu các đơn vị quản lý hồ thủy điện thực hiện đúng Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Hồng đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 17-6-2019. Và thực tế, hồ thủy điện Hòa Bình đang xả gia tăng phát điện với lưu lượng bảo đảm yêu cầu lấy nước tối thiểu của các nhà máy sản xuất nước sạch…   

- Dự báo trong thời gian tới nguồn nước có được cải thiện không, thưa ông Lê Viết Sơn?

- Thông tin mới nhất chúng tôi có được từ cơ quan khí tượng thủy văn quốc gia, từ nay cho đến tháng 5-2020, lượng mưa tại các tỉnh, thành phố khu vực Bắc Bộ tiếp tục ở mức thấp so với trung bình nhiều năm; nguồn nước trên các sông, suối tiếp tục bị thiếu hụt... Cụ thể, trên lưu vực sông Đà thiếu hụt 20-60%; lưu vực sông Thao thiếu hụt 20-50%; lưu vực sông Lô - Gâm - Chảy đến hồ chứa Thác Bà và Tuyên Quang thiếu hụt 10-30%... Và điều này cũng đồng nghĩa, lượng nước đổ về các hồ chứa thủy điện tiếp tục bị suy giảm; mực nước sông Hồng tiếp tục bị hạ thấp; gia tăng nguy cơ thiếu nước gieo cấy, tưới dưỡng cho vụ đông xuân 2019-2020…

Cần giải pháp tổng thể

- Có ý kiến cho rằng, ngoài thiếu hụt về lượng mưa, mực nước sông Hồng hạ thấp có phải là do các nhà máy thủy điện không gia tăng phát điện để bổ sung nguồn nước cho vùng hạ lưu, thưa ông Lê Viết Sơn?

- Theo tôi, ý kiến này là chưa chính xác. Bởi thực tế, các nhà máy thủy điện, dù rất muốn giữ nguồn nước để phát điện phục vụ trong mùa hè nhưng cũng không thể làm trái quy định Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Hồng do Thủ tướng Chính phủ ban hành. Đơn cử, để bảo đảm mực nước tối thiểu trên sông Hồng, bảo đảm cấp đủ nước mặt cho Nhà máy Nước sạch sông Đà hoạt động trong mùa cạn, hồ thủy điện Hòa Bình phải bảo đảm lưu lượng xả trung bình ngày không nhỏ hơn 300m3/giây trong tháng 10, 600m3/giây trong tháng 11, 700m3/giây trong tháng 12 và tháng 1...

Còn việc hạ thấp mức nước sông Hồng, theo tôi, nguyên nhân chính là do mất cân bằng bùn cát. Nói cách khác, quá trình xây dựng các hồ thủy điện trên thượng lưu sông Hồng đã giữ lại khối lượng lớn phù sa; kết hợp với việc khai thác cát quá mức đã khiến lòng dẫn sông Hồng ngày càng giảm… Biểu hiện cụ thể, nếu những năm 2009-2011, các hồ thủy điện chỉ phải xả gia tăng 3 tỷ mét khối, với lưu lượng 1.200m3/giây thì mực nước sông Hồng tại Trạm thủy văn Hà Nội đã đạt 2,2m [mực nước đủ cho các trạm bơm ven sông vận hành tiếp nguồn cho nội đồng]. Nhưng hiện nay, để mực nước sông Hồng dâng lên 2,2m cần khoảng 6 tỷ mét khối, lưu lượng khoảng 3.000m3/giây…

- Trong bối cảnh nguồn nước suy giảm như hiện nay, cần làm gì để vừa đủ nước phát điện vừa phục vụ sản xuất nông nghiệp?

- Để bảo đảm nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp vụ đông xuân 2019-2020, Viện Quy hoạch thủy lợi đang tham mưu với Tổng cục Thủy lợi xây dựng kế hoạch điều tiết nguồn nước hồ thủy điện. Dự kiến sẽ có 3 đợt xả nước tăng cường, với tổng thời gian khoảng 18 ngày; thời gian bắt đầu từ ngày 20-1 đến 24-2-2020… Khi đó, mực nước sông Hồng tại Trạm thủy văn Hà Nội đạt từ 1,4-2m. Lưu lượng xả từng đợt sẽ được điều chỉnh cho phù hợp nhu cầu lấy nước của từng vùng…

Hiện nay, phần lớn các tỉnh, thành phố mới chọn giải pháp xây dựng công trình lấy nước ở mực nước thấp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng... Theo tôi, ưu điểm của những giải pháp này là kinh phí đầu tư thấp, không tác động đến dòng chảy của sông… Tuy nhiên, nhược điểm của giải pháp này là chỉ giải quyết được khả năng lấy nước cục bộ cho từng công trình, chi phí vận hành lớn...

Để khắc phục triệt để việc hạ thấp mực nước sông Hồng, các cơ quan của Bộ NN&PTNT đang nghiên cứu giải pháp xây dựng các đập, xử lý tình trạng mất cân bằng bùn cát trên sông Hồng… Trong đó, chú trọng phương án quản lý chặt chẽ hoạt động khai thác cát trên sông…

Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Nguyễn Ngọc Sơn.

- Thưa ông Nguyễn Ngọc Sơn, thành phố Hà Nội đã và đang làm gì để ứng phó với tình trạng hạ thấp mực nước sông Hồng, bảo đảm đủ nước phục vụ sản xuất nông nghiệp vụ đông xuân?

- Những năm qua, thành phố Hà Nội đã cải tạo, xây dựng nhiều công trình lấy nước, để ít phụ thuộc nguồn điều tiết của hồ thủy điện, như: Trạm bơm dã chiến Phù Sa, Thụy Phú, Đan Hoài, Hồng Vân… Đồng thời đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng hệ thống dẫn nước từ sông Đà qua sông Tích cấp nguồn cho sông Đáy. Thành phố cũng đang chuẩn bị đầu tư xây dựng Trạm bơm Liên Mạc thay thế nhiệm vụ lấy nước của cống Liên Mạc cấp cho sông Nhuệ; xây dựng mới Trạm bơm Thanh Điềm… Ngoài ra, thành phố Hà Nội cũng đã giao các sở, ngành liên quan rà soát, đề xuất phương án đầu tư kinh phí nạo vét, nâng cấp các hồ thủy lợi trên địa bàn theo hướng tăng dung tích trữ, giảm diện tích phụ thuộc nguồn nước điều tiết…

Trước mắt, để bảo đảm nguồn nước sản xuất vụ đông xuân 2019-2020, Sở NN&PTNT Hà Nội đã xây dựng phương án chống hạn vụ đông xuân; trong đó, đặt ra các tình huống xấu nhất về nguồn nước để chủ động triển khai các giải pháp ứng phó bảo đảm cấp đủ nước gieo cấy đúng khung thời vụ… Thực hiện phương án trên, hiện nay các quận, huyện, thị xã đang tập trung vận động nhân dân làm thủy lợi nội đồng; thay đổi tập quán gieo cấy, ứng dụng khoa học công nghệ để sử dụng tiết kiệm nguồn nước… Các doanh nghiệp thủy lợi đang tập trung bảo dưỡng, sửa chữa máy bơm, chuẩn bị vật tư, phương tiện lắp đặt các trạm bơm dã chiến để có thể vận hành chủ động, không phụ thuộc hoặc ít phụ thuộc vào dòng chảy bổ sung từ các hồ chứa thủy điện…

- Trân trọng cảm ơn hai ông đã tham gia cuộc trao đổi!

Nguy cơ khủng hoảng nguồn nước của VN hiện được đánh giá là rất nghiêm trọng, đặc biệt trong bối cảnh 63% lượng nước mặt của VN đến từ ngoài lãnh thổ. Xin ông chia sẻ những thông tin liên quan đến vấn đề này?

VN có tổng trữ lượng nước mặt khoảng hơn là 800 tỉ m3, trong đó riêng Mê Kông [Cửu Long] là 520 tỉ m3, sông Hồng khoảng 120 tỉ m3. Điều có thể thấy là lượng nước được tạo ra từ bên ngoài đổ vào VN rất lớn. Hiện tại nguy cơ đối với nguồn nước của VN bao gồm hai vấn đề từ trong và ngoài quốc gia.

Trong nội địa, nhu cầu sử dụng ngày càng tăng cao, trong khi tình hình ô nhiễm ngày càng tồi tệ. Điều này có nghĩa là nếu tình hình ô nhiễm quá nghiêm trọng thì có nước cũng vô nghĩa vì nước đó không sử dụng được. Thứ hai, 63% lượng nước mặt của VN được sản sinh từ bên ngoài lãnh thổ. Việc các quốc gia ở thượng nguồn sử dụng nguồn nước như thế nào cũng tạo ra những ảnh hưởng rất lớn đối với chúng ta.

Chưa có số liệu về mùa cạn

Theo Thứ trưởng Bộ TN-MT Nguyễn Thái Lai, VN và Trung Quốc hiện chưa có thỏa thuận hợp tác về quản lý và khai thác sông Hồng và sông Mê Kông. Sông Mê Kông chảy qua 6 nước gồm: Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và VN. Hiện 4 nước đã tham gia Ủy hội sông Mê Kông, riêng Myanmar và Trung Quốc chưa tham gia. Trong đó, mới đây, thông qua sự thuyết phục của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Myanmar đã bày tỏ mong muốn gia nhập ủy hội. “Về sông Hồng, chúng ta đã nhiều lần đàm phán đề nghị phía bạn có cơ chế chia sẻ khai thác nguồn nước nhưng hiện Trung Quốc mới đồng ý cung cấp cho VN số liệu thủy văn mùa lũ, chưa cung cấp số liệu về mùa cạn”, ông Lai nói. [Quang Duẩn]

Chúng tôi có những thông tin không chính thức về việc Trung Quốc xây dựng những đập nước lớn ở thượng nguồn sông Hồng, có những đập thậm chí lên tới 20 tỉ m3. Chỉ cần 2-3 chiếc đập như vậy coi như sông Hồng không còn gì khi vào đến VN. Bên cạnh đó, cốt của sông Hồng rất thấp, nên khi nước ngọt tụt thì nước mặn sẽ tràn vào và tạo ra nguy cơ nhiễm mặn là rất lớn. Nếu như ở ĐBSCL khi nước mặn rút đi phải mất tới 6 tháng để rửa mặn thì ở sông Hồng khả năng nước mặn rút đi là rất thấp. Vấn đề thực sự là rất nghiêm trọng.

Thực tế hiện nay chúng ta không hề có được những thông tin chính thức về việc Trung Quốc sử dụng thượng nguồn sông Hồng như thế nào, các đập thủy điện, công trình thủy lợi, vấn đề ô nhiễm… Do không có hợp tác nên phía VN chỉ có thể tìm hiểu đơn phương, các thông tin có được chỉ mang tính đại thể và chưa hẳn có số liệu chính xác.

Vấn đề hợp tác chia sẻ các dòng sông quốc tế hiện đang được áp dụng ở sông Hồng như thế nào, thưa ông?

Một trong những vấn đề đáng lưu ý nhất hiện nay đối với vấn đề nguồn nước sông Hồng đó là hiện tại chưa có một cơ chế quốc tế nào để kiểm soát cả. Ở đây chúng ta cần phải nhắc tới những kinh nghiệm về vấn đề sông Mê Kông. Mặc dù không phải toàn bộ các quốc gia có chia sẻ chung dòng sông này đều tham gia Ủy hội sông Mê Kông [MRC - hiện gồm 4 thành viên Campuchia, Lào, Thái Lan và VN] nhưng với tư cách là một tổ chức, MRC cũng tạo được những sức ép và tiếng nói nhất định.

\n

Sông Hồng, trên thực tế đang trong tình trạng không có sự phối hợp kiểm soát, quản lý, không có cơ chế chính thức để xử lý. Nguy cơ của sông Hồng ngày càng đậm nét và thậm chí còn nghiêm trọng hơn cả Mê Kông. Xin nhấn mạnh rằng một con sông là một cơ thể sống, nó cần một lưu lượng nhất định để sinh tồn, để duy trì hệ sinh thái của mình. Chỉ mất đi một lượng nước nhất định cũng có nghĩa là con sông đó sẽ suy thoái và chết dần. Điều khẩn thiết hiện nay là phải có một hình thức để quản lý sông Hồng.

Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề chủ quyền trên các sông quốc tế. Xin ông cho biết một số thông tin liên quan đến vấn đề này?

Những năm đầu thế kỷ XXI vẫn có các quốc gia ở thượng lưu áp dụng quan điểm chủ quyền tuyệt đối với nguồn nước quốc tế. Tuy nhiên quan điểm này chắc chắn sẽ bị loại bỏ do những nguy hại to lớn mà nó có thể gây ra. Quan điểm được cộng đồng quốc tế ủng hộ là quan điểm về việc sử dụng công bằng nguồn nước quốc tế. Theo đó các quốc gia có chia sẻ nguồn nước quốc tế đều phải tôn trọng quyền sử dụng và khai thác của các nước có liên quan, đồng thời có nghĩa vụ không tiến hành hoặc cho phép tiến hành những hoạt động có thể gây ra tác động bất lợi cho các quốc gia khác và cho bản thân nguồn nước quốc tế chảy qua lãnh thổ mình.

Điều đã được cộng đồng quốc tế đồng thuận đó là mỗi dòng sông quốc tế là một thể thống nhất từ thượng nguồn đến hạ nguồn, các quốc gia chia sẻ nguồn nước quốc tế đó đều có quyền sử dụng và bảo vệ nguồn nước cho sự sinh tồn của mình cũng như tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác.

Vấn đề thực tế là khá phức tạp do hiện tại chưa có các cơ chế khu vực và song phương. Song điều đó không có nghĩa là VN không có gì để bảo vệ nguồn nước của mình. Vũ khí cơ bản của VN trong vấn đề bảo vệ nguồn nước sông Hồng là những nguyên tắc căn bản nhất của luật pháp quốc tế, những trật tự pháp lý trong bảo vệ nguồn nước mà không ai có thể bác bỏ.

Suy giảm lượng nước từ Trung Quốc

Cục Quản lý tài nguyên nước khẳng định, chế độ vận hành các nhà máy thủy điện ở thượng nguồn phía Trung Quốc đã làm căng thẳng thêm tình trạng cạn kiệt, thiếu nước trên các sông của VN, trong đó có sông Hồng. Các kết quả quan trắc tại các trạm thủy văn trên sông Đà, sông Lô và sông Thao cho thấy đã có hiện tượng suy giảm lượng nước từ Trung Quốc chảy vào nước ta. Cụ thể, trên sông Đà, tại trạm thủy văn Lai Châu trong các năm 2007 - 2009 đã xuất hiện các giá trị lưu lượng nhỏ nhất trong lịch sử từ năm 1957 đến nay. Lưu lượng nhỏ nhất trong tháng 1.2007 là 181 m3/giây và năm 2008 là 151 m3/giây, trong khi lưu lượng trung bình là 318 m3/giây. Lưu lượng nhỏ nhất trong tháng 3 năm 2007 là 133 m3/giây và tháng 3 năm 2008 là 103 m3/giây trong khi lưu lượng trung bình là 198 m3/giây...

Nguyên Phong [thực hiện]

Video liên quan

Chủ Đề