Đánh giá những thành tựu, hạn chế của giáo dục đại học việt nam hiện nay

Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối Nhờ tình hình kinh tế được cải thiện, ngân sách nhà nước dành cho giáo dục tăng, lại có thêm sự đóng góp sâu rộng của nhân dân, nên các dịch vụ giáo dục ngày càng đa dạng hóa, chất lượng dịch vụ giáo dục ngày càng được nâng cao. Từ khi có Nghị quyết Trung ương 2 [Khóa VIII], ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục - đào tạo đã tăng đáng kể, từ 5% tổng chi ngân sách năm 1985 lên 10% năm 1995, 15% năm 2000. Đến năm 2005, tỷ lệ chi cho giáo dục - đào tạo của ngân sách nhà nước lên tới 18% [tương đương 40 nghìn tỷ đồng], trong đó chi thường xuyên chiếm 80-85%, chi chương trình mục tiêu chiếm 4-6% và chi đầu tư xây dựng cơ bản chiếm 15-17%. Sự tăng chi cho chương trình mục tiêu từ 600 tỷ đồng/năm lên gần 1300 tỷ đồng năm 2004 và 2500 tỷ đồng năm 2005 đã góp phần giải quyết kinh phí thực hiện các mục tiêu ưu tiên của ngành giáo dục như: đổi mới chương trình giáo dục phổ thông và thay sách giáo khoa, hỗ trợ giáo dục miền núi và dân tộc, xây dựng cơ sở vật chất trường sư phạm và bồi dưỡng giáo viên, đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin và đưa công nghệ thông tin vào nhà trường, tăng cường cơ sở vật chất trường học và xây dựng một số trường đại học, trung học chuyên nghiệp trọng điểm, tăng cường năng lực đào tạo nghề Có thể thấy giáo dục là niềm hy vọng lớn cho đất nước, giáo dục giúp đào tạo ra những người hiền tài, là trụ cột chính cho công cuộc đổi mới, đất nước. Trong đó, chất lượng giáo dục luôn đi liền với các mối quan hệ, các vai trò nhất định, đó là:Vai trò của Nhà nước và cơ quan quản lý giáo dục Trước hết phải nói đến vai trò của Nhà nước. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn đóng vai trò là kim chỉ nam cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Đảng, Nhà nước xây dựng những chính sách về giáo dục phù hợp với mục tiêu chung xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Những quan điểm, chính sách về giáo dục - đào tạo đã được đưa vào Hiến pháp năm 1992 và Luật Giáo dục năm 1998. Biện pháp cơ bản thực thi các chính sách giáo dục - đào tạo ở Việt Nam trong thời gian qua là kế hoạch hóa công tác giáo dục - đào tạo trong phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương theo các kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng chiến lược các quy hoạch dài hạn 10-20 năm với các mục tiêu phát triển chủ yếu về quy mô giáo dục các bậc học, nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước và các chỉ tiêu chủ yếu khác. Trên cơ sở đó, Nhà nước xây dựng và tổ chức thực thi các mục tiêu phát triển giáo dục - đào tạo theo các chương trình quốc gia trong từng giai đoạn. Nhà nước cũng quyết định tỷ lệ ngân sách chi cho giáo dục đào tạo. Nhìn chung, ngân sách cho giáo dục ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi ngân sách Nhà nước, chứng tỏ giáo dục ngày càng được quan tâm, coi trọng.Bên cạnh đó Nhà nước còn có các chính sách ưu đãi dành cho sinh viên. Đó là các sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, sinh viên có thành tích học tập tốt..Vai trò của các trườngCác trường ĐH-CĐ là nơi trưc tiếp tiến hành đào tạo, giảng dạy. Để thu hút sinh viên, các trường đã liên tục đổi mới trang thiết bị, thay đổi phương pháp dạy và học, thuê giảng viên nước ngoài giỏi về giảng dạy, tuyển chọn đội ngũ giáo viên có năng lực...Đồng thời các trường cũng có các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài, liên kết với các doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện học hỏi tốt nhất cho sinh viên và đảm bảo đầu ra cho sinh viên.Chất lượng giáo dục ở các trường ĐH cũng là một vấn đề đáng được quan tâm. Để cải thiện và nâng cao chất lượng giáo dục, các trường đang tích cực tìm kiếm và xây dựng đội ngũ giáo viên giỏi, đưa đi bồi dưỡng...để nâng cao chất lượng giảng dạy.Vai trò của gia đình và xã hộiGia đình và xã hội cũng là những tác nhân quan trọng đối với chất lượng giáo dục. Sự quan tâm hay không của gia đình và xã hội đên nền giáo dục sẽ là động lực để giáo dục đại học phát triển. Vai trò của sinh viênSinh viên chính là đối tượng chính của giáo dục đại học, và bản thân họ cũng chính là chủ thể của chính họ. Ý thức học tập, rèn luyện, mong mỏi đạt được tri thức là những động lực chính để tăng chất lượng giáo dục.Giáo dục Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn cải cách giáo dục, đặc biệt là sau cải cách kinh tế - xã hội toàn diện năm 1986, nền giáo dục nước nhà đã và đang dần được hoàn thiện. Trong đó, một trong những mục tiêu quan trọng của việc đổi mới giáo dục đại học tại Việt Nam là tăng cường khả năng cung ứng của các cơ sở giáo dục, mở rộng tố đa cơ hội tiếp cận cho người học. Để đạt những mục tiêu trên, rất nhiều biện páp đã được đưa ra, kết quả là số lượng các trường đại học-cao đẳng và lượng sinh viên đều tăng đột biến Các tiêu chí đánh giáĐể đánh giá về hệ thống giáo dục đại học, người ta có thể dựa trên một số tiêu chí sau:Tiêu chuẩn đầu vàoĐể vào học tại các trường ĐH-CĐ thì bắt buộc phải đạt được những tiêu chuẩn nhất định, như:Tốt nghiệp THPT, bổ túcTham gia kỳ thi tuyển sinh ĐH-CĐ đạt đủ điểm chuẩn đầu vào do các trường quy định. Trừ một số trường hợp khác như đạt giải cao học sinh giỏi quốc gia, quốc tế..Chuẩn điểm đầu vào đã được áp dụng trong các kỳ thi ĐH-CĐ từ trước đến nay. Nó cho ta biết trình độ đầu vào của các sinh viên tại các trường.Số lượng trường, số giảng viên, sinh viên của trườngChỉ tiêu này giúp đánh giá sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học về số lượng. Tuy nhiên, nó không giúp đánh giá về chất lượng nhiều lắm, và thường thì số lượng cao tỷ lệ nghịch với chất lượngChuẩn đầu ra của sinh viênMô hình này mới được áp dụng tại nước ta. Đó là quy định khối lượng kiến thức cần thiết nhất định sinh viên phải tích lũy đẻ có thể ra trường [tín chỉ]. Hình thức đào tạo theo tín chỉ đang được áp dụng tại nhiều trường ĐH-CĐ trên toàn quốc.Chất lượng giảng dạy của giảng viênSố lượng và chất lượng sinh viên nghiên cứu khoa học, tham gia olympic môn học...Tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làmCơ sở vật chất, hệ thống thông tin... của trường.Chương II. Thực trạng chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay2.1. Khái quát về tình hình giáo dục tại Việt NamNgay từ ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [02/09/1945], Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến giáo dục, luôn coi giáo dục là một công cụ quan trọng trong tiến trình bảo vệ và xây dựng đất nước. Kể từ năm 1945 đến nay, nền giáo dục mới ở nước ta đã trải ba cuộc cải cách giáo dục.2.1.1. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất - 1950Tháng 07/1950, bản đề án cải cách giáo dục đã được Hội đồng Chính phủ thông qua. Bản đề án đã nêu rõ: Nền giáo dục mới phải là nền giáo dục của dân, do dân và vì dân, được thiết kế trên nguyên tắc “Dân tộc, khoa học, đại chúng”. Mục tiêu của hệ thống giáo dục là giáo dục thế hệ trẻ thành những người công dân trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, có phẩm chất, nghị lực phục vụ kháng chiến, phục vụ đất nước. Cơ cấu nhà trường cải cách gồm hệ thống phổ thông 9 năm và hệ thống giáo dục bình dân, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục cao đẳng và đại học.2.1.2. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai - 1956Sau ngày giải phóng [1954], miền Bắc có hai hệ thống giáo dục phổ thông cùng tồn tại: hệ thống giáo dục 9 năm [ở vùng kháng chiến do ta xây dựng] và hệ thống giáo dục 12 năm [ở vùng mới giải phóng do Pháp để lại]. Vì vậy, tháng 03/1956, Chính phủ đã thông qua đề án cải cách giáo dục lần thứ hai. Mục tiêu của cải cách giáo dục lần này là: đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những người phát triển về mọi mặt, những công dân tốt, cán bộ tốt, trung thành vớ nước nhà. Về hệ thống giáo dục, hình thành hệ giáo dục phổ thông 10 năm [gồm ba cấp: cấp mộ...

Xem link download tại Blog Kết nối!

Những thuận lợi, khó khăn và giải pháp phát triển giáo dục Đại học của Việt Nam hiện nay.

Hầu như năm nào Bộ Giáo Dục cũng đều có những sửa đổi, bổ sung hệ thống giáo dục đại học từ việc thi cử cho đến nội dung giảng dạy nhưng đến nay thực sự vẫn chưa hoàn thiện, còn quá nhiều những vấn đề nảy sinh mà hàng ngày người ta phân tích đầy trên các mặt báo. Đây là vấn đề muôn thuở của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đã tồn tại cả chục năm về trước, nguyên nhân của vấn đề này là do thiếu sự liên kết chặt chẽ của nhà trường đối với doanh nghiệp, chưa nắm bắt được nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp thành ra nội dung đào tạo cứ lẩn quẩn bao nhiêu năm cũng chỉ có bấy nhiêu đó, dần dà trở nên lạc hậu vì thế không nắm bắt đúng nhu cầu của doanh nghiệp. Hệ lụy này dẫn đến nạn thất nghiệp tràn lan của sinh viên mới tốt nghiệp, thống kê năm 2013 cho thấy có tới 101.000 sinh viên thất nghiệp có bằng đại học. Từ đó, có thể thấy những thuận, lợi khó của giáo dục Đại học Việt Nam ở một số nội dung sau đây:

Khó khăn của giáo dục Đại học Việt Nam:

Một là, một nền giáo dục chú trọng trang bị kiến thức chuyên môn. Không khó nhận ra điều này. Các chương trình đào tạo từ phổ thông đến đại học, sau đại học đều dày đặc các kiến thức cụ thể. Với lượng tri thức mới được sản sinh ngày càng nhiều và liên tục được cập nhật vào chương trình thì tình trạng quá tải là không thể khắc phục, nếu không nói là sẽ ngày càng trầm trọng hơn. Việc nhớ những kiến thức ấy đã khó, vận dụng nó vào cuộc sống lại còn khó hơn. Tri thức cụ thể dù cho mới đến đâu vẫn là cái đã biết nên luôn lạc hậu so với thực tiễn.

Để phục vụ mục tiêu giáo dục trang bị kiến thức chuyên môn, hệ thống phân loại môn chính, môn phụ cũng được tiến hành một cách giản đơn như đương nhiên phải thế [trong khi đó phương châm của Đảng là giáo dục toàn diện]. Đặc biệt nghiêm trọng là hệ thống thi cử, đánh giá. Coi việc nhớ kiến thức chuyên môn là quan trọng nhất nên việc thi cử tuyển đầu vào, kiểm tra trong quá trình học tập và đánh giá đầu ra đều lấy việc hỏi kiến thức cụ thể làm mục tiêu chủ yếu. Phương thức thi cử nhằm đánh giá kiến thức chuyên môn [cụ thể] sinh ra hệ lụy nan giải và những căn bệnh trầm kha khó lòng cứu chữa. Đó là học vẹt, học tủ và quay cóp.

Hai là, do phải mất quá nhiều thời gian và công sức để “cung cấp và tích lũy kiến thức” cụ thể [luôn quá tải] nên từ chương trình, người dạy, người học đều không còn đủ thời gian và sự quan tâm đúng mức cho việc trau dồi phương pháp, kỹ năng, học để hiểu biết về cuộc sống, về thế giới, dung dưỡng tâm hồn và đạo đức, lối sống…Nói tóm lại là học cách tự học và học làm người. Điều đáng lo ngại là xu thế vị bằng cấp đang trở nên ngày càng phổ biến trong cộng đồng những người đi học. Đi học chỉ cốt để lấy bằng [và tệ hơn là nếu học ít, thậm chí không học mà vẫn có bằng thì càng hay]. Nhiều bậc trí giả lo lắng không phải không có cơ sở là xã hội ta ngày càng nhiều những người có học vị, bằng cấp cao, nhưng một đội ngũ trí thức với những nhân cách đáng kính của một tầng lớp dẫn dắt xã hội dường như ngày càng thưa vắng. Hiện tượng này có nhiều nguyên nhân, nhưng căn nguyên chính vẫn là từ chính những hạn chế và yếu kém của giáo dục đào tạo.

Ba là, một hạn chế lớn của giáo dục và đào tạo nước ta là việc dạy và học không gắn chặt với thực tiễn, nhất là các trường đại học. Đa phần các chương trình đào tạo hiện nay là những gì nhà trường và các thầy cô đem áp đặt cho người học, chứ chưa phải là những cái xã hội cần. Có một nguyên nhân quan trọng là ở nước ta trong một thời gian dài, cung và cầu của giáo dục đại học mất cân đối nghiêm trọng. Việt Nam là nước có truyền thống hiếu học và trọng học nên số người có nguyện vọng đi học [đúng ra là số gia đình mong muốn con vào đại học] thì đông mà số trường đại học [tốt] lại rất ít nên các cơ sở đào tạo đại học không có nhiều động lực để đổi mới. Chương trình cũ, phương pháp dạy không thay đổi, chất lượng đào tạo không nâng cao cũng vẫn có rất đông người tranh nhau vào học. Những tiêu chí đánh giá về chất lượng giáo dục quốc tế dường như ảnh hưởng không nhiều lắm đến các trường đại học nước ta.

Bốn là, cũng chính vì động lực đổi mới không cao và do một số nguyên nhân khác nữa, nền giáo dục của chúng ta tương đối khép kín. Mặc dù số lượng cán bộ của ngành giáo dục [bao gồm cả quả lý và tham gia giảng dạy] có cơ hội đi thăm quan nước ngoài rất nhiều, nhưng dường như việc học tập nước ngoài chưa có một chương trình thật bài bản với những mục tiêu xác định nên kết quả không như mong muốn. Địa điểm tham quan, vấn đề tìm hiểu trùng lặp, những kinh tiếp thu manh mún, thiếu đồng bộ…Do vậy về cơ bản, hệ thống giáo dục và các chương trình của các cơ sở đào tạo ở nước ta so với các nước tiên tiến trên thế giới còn có khoảng cách khá xa. Và đặc biệt điều đáng nói là tính liên thông quốc tế của hệ thống giáo dục nói chung và của các cơ sở đào tạo nước ta nói riêng còn rất hạn chế. Nếu như ở nước ngoài [kể cả các nước Đông Nam Á], các trường đại học có thể dễ dàng trao đổi sinh viên với nhau vì họ công nhận hệ thống tín chỉ của nhau, thì điều này còn rất khó khăn với các trường đại học nước ta.

Năm là, điều thấy rõ và thường được nói tới nhiều nhất khi đề cập đến những hạn chế của giáo dục Việt Nam là sự thiếu thốn, nghèo nàn về cơ sở vật chất, là chính sách đãi ngộ chưa thỏa đáng đối với đội ngũ những người làm giáo dục. Có thể nói trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có những cố gắng lớn trong đầu tư cho giáo dục. Riêng năm 2013, mặc dù nền kinh tế đất nước đang trong thời kỳ cực kỳ khó khăn, nhưng kinh phí cho lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề vẫn chiếm 20% tổng chi ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, tính ra số kinh phí thực thì so ngay với một trường đại học ở Đông Nam Á [như Singapore, Thái Lan, Malaysia…] cũng đã rất thấp. Nguồn kinh phí hạn hẹp lại được sử dụng chưa hợp lý, đầu tư manh mún, giàn trải và hiệu quả thấp [đó là chưa nói tới nguồn lực bị suy hao vì những dự án lãng phí lớn .

Tuy nhiên, điều đáng nói hơn cả là vấn đề đầu tư cho nguồn lực con người. Nếu như đây là nhân tố quan trọng hàng đầu trong tất cả mọi lĩnh vực, thì trong giáo dục đào tạo con người là nhân tố quyết định sự thành bại. Con người ở đây là nói tới cả đội ngũ quản lý các cấp và những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giảng dạy ở các cơ sở. Chất lượng chưa cao ở cả hai lực lượng này dường như không khó khăn lắm để nhận ra. Tuy nhiên điều quan trọng là phải tìm ra nguyên nhân dẫn tới tình trạng đó. Theo tôi, gốc gác của vấn đề chính là trên thực tế, giáo dục và đào tạo chưa được coi là quốc sách hàng đầu như được nêu trong các văn kiện chính thức. Việc tuyển chọn cán bộ quản lý giáo dục cũng như chính sách đãi ngộ khuyên khích người giỏi làm công tác giáo dục còn nhiều bất cập và chưa được chú ý đúng mức.

Ngoài ra, đất nước còn thiều về cơ sở, vật chất, trang thiết bị dạy học hiện đại tiên tiến, ứng dụng khoa học công nghệ vào trong tác giáo dục …

Những điểm khó khăn nêu trên chưa phải là tất cả, đã và đang kim hãm cả nền giáo dục Việt Nam nói riêng và giáo dục Đại học nói riêng. Nhưng nên giáo dục Đại học Việt Nam cũng có nhiều ưu điểm, nếu như đổi mới giáo dục và đào tạo ngay lập tức để khắc phục những điểm khó khăn, hạn chế nêu trên.

Các điểm thuận lợi của nên giáo dục Việt Nam:

Một là, Việt Nam đặt chính sách giáo dục lên hang đầu, có sự đầu tư lớn cho nền giáo dục, trong đó có giáo dục Đại học.

Hai là, xét về mặt lịch sử, nền giáo dục đại học đã xuất hiện ở nước ta cách đây trên cả nghìn năm. Cho đến nay, lịch sử giáo dục đại học Việt Nam đã trải qua các nền giáo dục khác nhau: phong kiến, thuộc địa và chủ nghĩa thực dân mới [ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975]. Sự nghiệp giáo dục đại học từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã trải qua gần 70 năm qua và đạt được những thành tựu to lớn, trong đó quan trọng nhất là đã góp phần tạo ra các thế hệ nguồn lực con người Việt Nam, nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Ba là, ở nước ta hiện nay, mặc dù chưa có định nghĩa chính thức về giáo dục đại học, nhưng qua các văn bản không chính thức, có thể hiểu giáo dục đại học là hình thức tổ chức giáo dục cho các bậc học sau giai đoạn bậc phổ thông với các trình độ đào tạo: gồm trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ. Nhưng chúng ta có các văn bản pháp luật quy định cụ thể cho nền giáo dục nói chung và chủ trương, chính sách giáo dục Đại học nói riêng.

Bốn là, dân tộc Việt Nam có truyền thống hiếu học, ham học hỏi, biết áp dụng khoa học công nghệ, tiếp thu cái mới, tiến bộ trên thế giới để có thể ứng dụng tốt trong quá trình đào tạo, giáo dục …

Từ những phân tích về các khó khăn và thuận lợi của nền giáo dục Đại học Việt Nam, một nhu cầu tất yếu trong ngành giáo dục là chúng ta cần đổi mới giáo dục, cần thực hiện các  giải pháp phát triển giáo dục Đại học nói chung và giáo dục Đại học công lập nói riêng.

Thứ nhât, phải thay đổi triết lý để chuyển một nền giáo dục lấy trang bị kiến thức chuyên môn làm mục tiêu chủ yếu sang một nền giáo dục chỉ dạy những kiến thức chuyên môn căn bản ở mức tối thiểu. Dành nhiều thời gian dạy người học về phương pháp, kỹ năng, cách tự học, dạy cách sử dụng, khai thác các thiết bị… và dạy làm người với mục đích người được đào tạo có khả năng thích ứng nhanh với hoàn cảnh, có khả năng học tập suốt đời và có trách nhiệm cao với gia đình, xã hội và Tổ quốc. Đi theo sự đổi mới này sẽ là hàng loạt những thay đổi căn bản. Từ chương trình, giáo trình, sách giáo khoa, người thày và cách thức giảng dạy. Theo triết lý mới này cách dạy và học sẽ chuyển từ học để nhớ sang chuyển sang học để hiểu. Cho đến nay hiện tượng quá tải như một căn bệnh không thể chữa và thay đổi sách giáo khoa diễn ra liên năm chính là do triết lý lấy dạy chuyên môn là mục tiêu quan trọng đẻ ra. 

Thứ hai, phải thay đổi một cách căn bản hệ thống đánh giá từ kiểm tra kiến thức sang đánh giá năng lực. Đầu vào thì đánh giá năng lực có học được [cấp học, chương trình học ấy] không. Trong quá trình thì đánh giá năng lực hiểu và tiếp thu sáng tạo những điều đã học. Đầu ra thì đánh giá năng lực vận dụng những điều đã học tập, rèn luyện vào môi trường sắp tới… Tóm lại phải thay đổi căn bản những gì đang làm hiện nay trong việc thi cử, đánh giá. Sự thay đổi này sẽ mở đường cho một giai đoạn mới, người thi sẽ được sử dụng các thiết bị CNTT [như máy tính chẳng hạn], sử dụng mạng internet…Việc tổ chức thi sẽ nhẹ nhàng, đơn giản và chắc chắn sẽ chấm dứt việc phải nhờ cậy đến lực lượng công an để bảo vệ đề, phải nhốt thầy ra đề trong khách sạn vừa tốn kém, vừa bức xúc…và nhất là sẽ không còn hiện tượng học vẹt, học tủ và quay cóp nữa.

Thứ ba, việc xây dựng các chương trình giảng dạy phải có chuẩn đầu ra. Chuẩn đầu ra ở đây là phải lấy thực tế khách quan và yêu cầu của xã hội làm   căn cứ, chứ không không phải là “chuẩn” nhưng do nhà trường tự quy định như nhiều cơ sở đào tạo đang làm. Như vậy chuẩn đầu ra phải hiểu là đáp ứng nhu cầu rất đa dạng cả về chủng loại và chất lượng. Giáo dục đại học và chuyên nghiệp là nơi đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực các loại cho xã hội. Sự đa dạng yêu cầu về chủng loại và chất lượng lao động sẽ quy định chủng loại và sự phân tầng của các cơ sở đào tạo. Bên cạnh những yêu cầu chất lượng rất cao của các cơ sở hàng đầu, có yêu cầu vừa phải của các cơ sở không có nhu cầu đến mức ấy. Chẳng hạn, một doanh nghiệp gia đình nhỏ muốn có một kế toán đạt trình độ đại học thì chắc chắn không cần đến những kỹ sư tốt nghiệp những trường đại hàng đầu về kinh tế. Vậy phải có những trường đại học vừa tầm để đào tạo loại nhân lực này. Đây chính là luận lý căn bản để phải có cách nhìn phân tầng đối với giáo dục đại học. Trong ý nghĩa này nhất loạt hô khẩu hiệu “chất lượng cao” là duy ý chí, không thực tế và cũng không phù hợp với thực tiễn.

Thứ tư, đổi mới mạnh mẽ nội dung chương trình và phương pháp dạy học theo hướng hội nhập quốc tế. Nội dung chương trình và giáo trình cần được tổ chức xây dựng và triển khai theo hướng mở [cho phép cập nhật thường xuyên về kiến thức trong và ngoài nước, sử dụng giáo trình, học liệu trong nước hoặc ngoài nước một cách linh hoạt để giảng dạy cho người học], nội dung giảng dạy phải gắn chặt và phù hợp với yêu cầu thực tiễn của ngành nghề mà người học đang theo đuổi. Về phương pháp, cho phép sử dụng đa dạng các phương pháp dạy học theo nguyên tắc “lấy người học là trung tâm”, giảm tải tối đa giờ giảng trên lớp để người học có thời gian tự học và tự nghiên cứu. Tất nhiên, các cơ sở đào tạo cần thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, đánh giá khách quan, chặt chẽ để bảo đảm tính hiệu quả của việc dạy và học. 

Đổi mới vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước trong tổ chức giáo dục đại học trong điều kiện hội nhập quốc tế. Theo đó, về mặt pháp lý, cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các quy định về pháp luật đối với các hoạt động giáo dục đại học trong điều kiện hội nhập quốc tế. Các cơ quan quản lý nhà nước, trực tiếp là Bộ Giáo dục và Đào tạo cần thay đổi cách tư duy về quản lý đối với các hoạt động giáo dục đại học trong điều kiện hội nhập quốc tế. Thay vì trực tiếp quản lý toàn diện đối với các cơ sở giáo dục đại học, các cơ quan quản lý nhà nước chỉ nên đóng vai trò là cơ quan “tài phán”, định hướng các hoạt động theo luật pháp, đồng thời tạo điều kiện để các cơ sở giáo dục đại học được độc lập, tự chủ hơn trong các hoạt động. Cần tránh tư duy quản lý theo cách áp đặt, hoặc “bao cấp” đối với các hoạt động giáo dục đại học trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay. 

Tăng cường các hoạt động nghiên cứu và công bố quốc tế, tiến tới quốc tế hóa các tiêu chuẩn đánh giá khoa học và các hoạt động về chuyên môn tại các cơ sở giáo dục đại học. Trước mắt, Nhà nước và các cơ sở giáo dục đại học cần có các cơ chế chính sách động viên, khuyến khích các nhà khoa học nghiên cứu và tích cực công bố kết quả nghiên cứu trên các ấn phẩm khoa học quốc tế. Về lâu dài, cần đặt ra lộ trình [đối với mỗi cơ sở giáo dục đại học khác nhau cần có những lộ trình khác nhau] tiến tới quốc tế hóa các tiêu chuẩn đánh giá các hoạt động khoa học và các hoạt động về chuyên môn trong tất cả các cơ sở giáo dục đại học, đồng thời cần coi đây là giải pháp quan trọng để đưa giáo dục đại học Việt Nam hội nhập sâu hơn vào môi trường quốc tế./.

Thứ năm, để có thể tiến hành đổi mới một cách căn bản thì giải pháp phải đồng bộ và toàn diện. Trước hết là những đổi mới về cơ chế, chính sách. Trong hoàn cảnh khóa khăn hiện nay của đất nước, không nên đặt vấn đề tăng thêm ngân sách cho giáo dục và đào tạo mà có chính sách phân phối nguồn lực cho hợp lý. Trong quá trình này, đầu tư tập trung và đầu tư hiệu quả được coi là ưu tiên. Cần chấm dứt việc đầu tư giàn trải và kém hiệu quả như hiện nay. Ngoài những cơ chế chính sách về tài chính, phải đổi mới hàng loạt các cơ chế chính sách khác có liên quan đến giáo dục, đào tạo, sao cho thực sự là quốc sách hàng đầu.

Thứ sáu, việc đổi mới tư duy giáo dục hiện nay cần “gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; hệ thống giáo dục được chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và mang đậm bản sắc dân tộc.

Thực hiện đầy đủ các giải pháp nêu trên thì nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến ở trong khu vực, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI của Đảng khẳng định. Các cấp, các ngành, trước hết là Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có sự thay đổi một cách mạnh mẽ về tư duy trong tổ chức giáo dục đại học, như thay đổi cách tuyển sinh, lựa chọn “đầu vào” theo hướng thoáng hơn, cho phép các cơ sở giáo dục đại học tự đặt ra các tiêu chuẩn tuyển sinh và chịu trách nhiệm với người học bằng chính “uy tín” đào tạo của mình, cho phép hình thành nhiều mô hình đào tạo đại học khác nhau, kiểm soát chặt chẽ “đầu ra” của mỗi cơ sở đào tạo để bảo đảm chất lượng chung… 

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề