Dĩ bất biến, ứng vạn biến bất biến là gì

Ngày 31-5-1946, trước khi lên đường sang nước Pháp cứu vãn hòa bình cho dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với cụ Huỳnh Thúc Kháng rằng:Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng với anh em giải quyết. Mong cụ dĩ bất biến ứng vạn biến”.

“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là cụm từ có nguồn gốc tiếng Hán, là một vế của một câu đối hoàn chỉnh mà vế thứ hai của nó là: “Dĩ chúng tâm, vi kỷ tâm” [tức là lấy tình cảm, ý chí của quần chúng làm tình cảm, ý chí của mình]. Đây là lần đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng vế đối này, ý tại ngôn ngoại, phù hợp khi nói với một nhà Hán học như cụ Huỳnh Thúc Kháng; câu nói cũng như một bí kíp được truyền lại để xử lý tình huống thay đổi liên tục ở thời điểm lúc bấy giờ.

Triết lý "Dĩ bất biến ứng vạn biến" có nghĩa là lấy cái bất biến [cái không thay đổi] ứng phó với cái vạn biến [cái thay đổi]; ứng phó với cái vạn biến nhưng không xa rời, vứt bỏ, đánh mất cái bất biến; tuyệt đối không thể đem cái bất biến ấy ra mua bán, đổi chác. Hoàn cảnh luôn thay đổi, cuộc sống cũng như sự nghiệp cách mạng luôn thay đổi, phát triển, bởi vậy, sách lược trong từng lĩnh vực cụ thể cũng phải mềm dẻo, uyển chuyển, thay đổi [cái vạn biến]. Nhưng dù có mềm dẻo, uyển chuyển, thay đổi như thế nào đi chăng nữa cũng không được quên mục đích cuối cùng [cái bất biến], bởi nếu không sẽ dễ bị lạc vào cái mê cung, rừng rậm của vạn biến, cái vụn vặt mà không biết đường ra. 

Cái “bất biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minhở đây được cho là có ba điều là: độc lập, tự do, hạnh phúc. Một số ý kiến lại cho rằng cái mục tiêu bất biến ở Hồ Chí Minh tập trung ở bốn yếu tố liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau, đó là độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ. Trong đó, đặt lên cao nhất là độc lập, bởi lẽ nếu không có độc lập, tức bị vong quốc, mất nước, đất nước trong cảnh nô lệ lầm than thì làm gì có tự do, lấy đâu ra tự do, hạnh phúc, dân chủ. Chính vì vậy, nước bị mất độc lập thì việc đầu tiên là phải giành cho bằng được độc lập, và trong hoàn cảnh như vậy, độc lập cho đất nước là cái bất biến số một hàng đầu. Theo nghĩa này, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: cái mà tôi cần nhất là Tổ quốc tôi được độc lập. Có độc lập rồi thì mới nói đến tự do, tự do gắn liền với độc lập, nước có được độc lập thì dân mới được tự do. Với lý do đó mà Bác luôn nhắc nhở: trước hết là phải giành cho kỳ được độc lập; tất cả cho độc lập; không có gì quý hơn độc lập, tự do. Mặt khác, độc lập còn gắn liền với dân chủ. Có độc lập rồi thì mới nói đến chuyện dân làm chủ; còn nếu không có độc lập thì cũng không thể có dân chủ. Có độc lập chúng ta phải lập tức xây dựng một nhà nước mà dân làm chủ, có nghĩa là bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Có như vậy mới đem lại được tự do, hạnh phúc cho dân.

Cái “vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh: Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, thông qua những hoạt động thực tiễn của Người, cái vạn biến có thể được hiểu là những tình huống cách mạng đã, đang và sắp xảy ra hàng ngày hàng giờ mà chúng ta phải đối phó, phải xử lý để đạt được mục tiêu cách mạng đặt ra.

Vận dụng phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong quan hệ quốc tế theo quan điểm của Đảng, Nhà nước ta thực chất là nắm vững mục tiêu chiến lược, bản lĩnh vững vàng, quyết đoán, khôn khéo, mau lẹ và kịp thời để ứng phó thích hợp với từng hoàn cảnh, từng tình thế, từng đối tượng trong từng trường hợp, từng vấn đề và trong không gian, thời gian cụ thể. Theo đó, vận dụng phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quan hệ quốc tế hiện nay, cần thấu suốt và thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh và là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đây là quan điểm cốt lõi chỉ đạo công tác đối ngoại và ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta trong quan hệ quốc tế.

Chủ động tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đảng và Nhà nước ta đã ra sức duy trì và củng cố quan hệ đoàn kết hữu nghị với các đảng phái chính trị, trước hết là các Đảng Cộng sản và công nhân, các tổ chức tiến bộ đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, từ đó tranh thủ sự hỗ trợ về chính trị có lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đường lối đối ngoại của Việt Nam luôn xuất phát trên cơ sở bất biến, đó là giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tích cực thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại đó của Đảng, Việt Nam đã chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác.

Nêu cao đường lối đối ngoại giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Đảng mà đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 180 nước, quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư với gần 170 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đảng ta có quan hệ ở các mức độ khác nhau với trên 200 chính đảng ở các nước trên khắp các châu lục. Các đoàn thể và tổ chức nhân dân ta có quan hệ với hàng trăm tổ chức nhân dân, tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế.

Hai là, Đảng Cộng sản Việt Nam phải kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại coi đó như là một quy luật thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Hiện nay, bối cảnh quốc tế, khu vực có những biến đổi to lớn và sâu sắc, với nhiều mối quan hệ đan xen, đa dạng, phức tạp; trong đó, các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc.

Trước tình hình đó đòi hỏi việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới phải có chiến lược, sách lược, hình thức và phương pháp xử lý đúng đắn, sáng tạo. Trước hết và quan trọng nhất là: kiên định ý chí độc lập, tự chủ, khơi dậy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, phát huy cao độ nội lực; đồng thời, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, tranh thủ và sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên ngoài cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trên cơ sở nâng cao nhận thức, nắm vững quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, cần vận dụng và xử lý một cách linh hoạt, sáng tạo việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng – an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Ba là, giữ vững độc lập tự chủ trong quan hệ quốc tế

Nhất quán đường lối đối ngoại nêu ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh” và đường lối ngoại giao độc lập, tự chủ. Trên cơ sở đó, trong quan hệ với các nước trong khu vực ASEAN, và các nước, tổ chức trên thế giới Việt Nam luôn giải quyết các vấn đề trên các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc của tất cả các quốc gia; giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình; không can thiệp các công việc nội bộ của nhau; tôn trọng quyền con người và các quyền tự do cơ bản; tuân thủ các nguyên tắc thương mại đa phương.

Phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh ẩn chứa sự uyên thâm, tinh tế của một nhà hiền triết. Quan điểm này không chỉ được vận dụng có hiệu quả trong thời kỳ của Hồ Chí Minh mà nó trở thành phương châm hành động, là phương pháp luận, là cẩm nang cho Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng và nhất là trong quan hệ quốc tế giai đoạn hiện nay./.

Phạm Thị Hoa Chi bộ Vụ Nga – Đông Âu – Trung Á Ban Đối ngoại Trung ương

Chủ tịch Hồ Chí Minh – người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà chính trị lỗi lạc , danh nhân văn hóa thế giới, đồng thời là nhà ngoại giao kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. Để chỉ đạo hoạt động ngoại giao – một lĩnh vực hết sức gian khó do những đặc thù của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đề ra tư tưởng “ Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Nguyên tắc này không chỉ là bí quyết nhận thức , hành động hiệu quả của riêng Hồ Chí Minh mà còn trở thành cẩm nang trong nhận thức, hành động của cách mạng Việt Nam.

Ý nghĩa trong tư tưởng “ DĨ BẤT BIẾN, ỨNG VẠN BIẾN ” của Hồ Chí Minh

“ Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào tháng 5 – 1946 – thời điểm “Vận mệnh dân tộc ngàn cân treo sợi tóc” mà Người sang Pháp để cứu vãn nền hòa bình . Trước khi đi, người giao quyền chủ tịch nước cho cụ Huỳnh Thúc Kháng với lời dặn dò: “Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ và anh em giải quyết cho. Mong cụ “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” [1] – lấy điều không đổi ứng phó với vạn điều thay đổi để thực hiện điều không đổi.

Theo nhà ngoại giao Vũ Dương Huân, “ Dĩ bất biến, ứng vạn biến ” không có nguyên trong sách cổ mà được suy ra từ Ngô Khởi binh pháp, thiên thứ 5 về ứng biến [2]. Bằng câu nói mang âm hưởng văn hóa phương Đông, Hồ Chí Minh thể hiện quan điểm phải kết hợp nhuần nhuyễn, chặt chẽ giữa Tính nguyên tắc, kiên định, vững chắc của mục tiêu chiến lượt với tính linh hoạt, uyển chuyển của sách lượt, giữa đường lối cách mạng và sách lượt cách mạng. Câu nói trên như một điển tích, điển cố giữa 2 người tri âm, tri kỷ trong một hoàn cảnh cụ thể đã vượt qua không gian và thời gian để trở thành nguyên tắc chỉ đạo tư tưởng, phương châm hành động và triết lý nhân sinh của dân tộc Việt Nam trên tinh thần Biện chứng.

“ Dĩ bất biến, ứng vạn biến ” – tư tưởng, phương pháp và phong cách của Hồ Chí Minh.

Với Hồ Chí Minh, tư tưởng, phương pháp, phong cách thường chung đúc làm một nên “dĩ bất biến, ứng vạn biến là sự cô đúc tất cả tư tưởng, phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh” [3]. Để hiểu được sự sâu sắc của tư tưởng, sự linh hoạt của phương pháp cách mạng và sự thống nhất trong phong cách tư duy và hành động của Hồ Chí Minh, chúng ta phải xác định điều gì là bất biến, điều gì là vạn biến cũng như mối quan hệ giữa bất biến và vạn biến trong quan niệm của Hồ Chí Minh.

Thứ nhất, điều bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Từ hoàn cảnh đau thương của một dân tộc bị mất nước và khát vọng giải phóng dân tộc của một con người yêu nước, điều bất biến đầu tiên trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập, tự do của dân tộc. Nếu như mỗi con người sinh ra đều có “quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” thì “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” [4].

Từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã nâng thành quyền dân tộc và cuộc đấu tranh vì “những lẽ không phải ai có thể chối cãi được” ấy đã trở thành mục tiêu bất biến trong suốt cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Từ năm 1930, Nguyễn Ái Quốc soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng – cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo mà tư tưởng cốt lõi là độc lập – tự do . Tháng 8 -1945, trong những điều kiện thuận lợi của lịch sử, Hồ Chí Minh đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập dân tộc, tự do của nhân dân ta bằng câu nói bất hủ: Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành được độc lập. Cách mạng Tháng Tám thành công, Người thay mặt chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, trịnh trọng khẳng định trước thế giới: “ Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập đó [5].

Cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc Việt Nam diễn ra cũng vì mục tiêu bất biến mà Người đã khái quát thành chân lý “ Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Tuy nhiên, đối với Hồ Chí Minh độc lập dân tộc không phải là một khái niệm chung chung mà ngược lại, nó chứa đựng những nội hàm, tiêu chí cụ thể như độc lập dân tộc độc lập dân tộc phải gắn liền với Sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, với quyền dân tộc tự quyết, với sự ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân…Suy cho cùng, những tiêu chí đó chính là những khác vọng muôn đời của mọi dân tộc, mọi con người. Thấu hiểu khát vọng ấy, thực tiễn hóa những khác vọng ấy thành mục tiêu bất biến của cách mạng và của chính cuộc đời mình là điều chỉ có ở các vĩ nhân.

Điều bất biến thứ hai của Hồ Chí Minh là chủ nghĩa xã hội. Việc lựa chọn con đường cách mạng là điều rất quan trọng vì chính nó sẽ quyết định giai cấp lãnh đạo, lực lượng cách mạng và định hướng phát triển của dân tộc. Khi lựa chọn con đường Cách mạng vô sản để giải phóng dân tộc thì Hồ Chí Minh đã gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Đây là sự khác biệt lớn nhất giữa con đường cứu nước của Hồ Chí Minh với con đường cứu nước của các sĩ phu yêu nước trước đó. Hồ Chí Minh gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội bởi Người nhìn nhận chủ nghĩa xã hội không chỉ là kết quả tất yếu do sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, mà còn là con đường duy nhất để giải phóng dân tộc, để xây dựng một xã hội phát triển cao hơn và tốt đẹp hơn so với chủ nghĩa tư bản. Người viết: “ Dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” [6].

Góc nhìn này của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội cho phép giải thích sự ra đời của chủ nghĩa xã hội ở một nền kinh tế tiền tư bản chủ nghĩa như Việt Nam. Vì thế, chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam “Vừa có lý, vừa có tình. Lý ở đây là quy luật, là khoa học. Tình ở đây là chất nhân văn, nâng niu giá trị con người” [7]. Mặc dù cái gọi là chủ nghĩa xã hội từng hiện hữu trên trái đất này chưa đạt tới những giá trị tốt đẹp như trong quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – LêNin và Hồ Chí Minh, song không vì thế mà chủ nghĩa xã hội không còn là khác vọng và định hướng của những con người và những dân tộc đang trong thời kỳ quá độ đi đến đó.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, điều bất biến thứ nhất là độc lập dân tộc dẫn đến điều bất biến thứ hai là chủ nghĩa xã hội nên người yêu cầu “ Yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm” [8]. Với tư tưởng “Độc lập dân tộc kết hợp với chủ nghĩa xã hội”, Hồ Chí Minh đã tìm ra quy luật vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam – một quy luật “Thuận với chiều hướng tiến hóa của nhân loại” [9], phù hợp với yêu cầu giải phóng của xã hội Việt Nam nói chung và của mỗi con người nói riêng và vì vậy, Người đã mở ra thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử dân tộc.

Thứ hai, điều vạn biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chúng ta nhận thấy rằng, mục tiêu cao nhất của cuộc cách mạng cũng như của một đời người thường kết tụ trong một vài nội dung cốt tử nhưng con đường, biện pháp, sách lượt để đi đến nó lại vô cùng phong phú và đòi hỏi sự sáng tạo không ngừng, vì “Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo”. Đối với Hồ Chí Minh, trừ hai điều bất biến kể trên thì tất cả là vạn biến được thể hiện, thực hiện trong thời điểm và trên mọi lĩnh vực của cuộc đấu tranh cách mạng. Với sự thông tuệ và trải nghiệm sâu sắc, Hồ Chí Minh từng xác định: “Mục đích bất di, bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lượt của ta thì linh hoạt” [10]

Người đã xử lí một cách hoàn hảo mối quan hệ giữa hai vấn đề tưởng chừng đối lập: Tính kiên định về nguyên tắc, lý tưởng, niềm tin và tính linh hoạt , uyển chuyển trong phương pháp tư duy và hành động. Điều đó làm nên phong cách Hồ Chí Minh: Vô cùng linh hoạt, quyền biến nhưng không xa rời nguyên tắc; Vô cùng cương nghị, cứng rắn về những vấn đề nguyên tắc, nhưng không sơ cứng, sáo mòn……Ví dụ: Mặc dù xác định chủ nghĩa xã hội là điều bất biến của cách mạng Việt Nam nhưng Hồ Chí Minh cũng thấu hiểu rằng, do đặc điểm lịch sử của mỗi nước khác nhau nên con đường và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước sẽ khác nhau. Người mạnh dạn tuyên bố: Trong cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội, “ Làm khác Liên xô, Trung quốc cũng là Mác xít”, “Dĩ bất biến ứng vạn biến” chính là thế.

Cùng mục tiêu bất biến là chủ nghĩa xã hội nhưng mỗi dân tộc sẽ đi đến đó bằng những cách khác nhau. Tuy nhiên, muốn giữ vững và nhất quán với bất biến, con người phải có sự nhạy cảm và năng lực sáng tạo để thực hành cái khả biến trong mọi hoàn cảnh và tình huống. Phải nhạy cảm mới nhận ra sự thay đổi của hoàn cảnh lịch sử, phải sáng tạo mới tìm ra thượng sách để giải quyết những bài toán không có trong tiền lệ… Bằng sự linh hoạt kỳ lạ của mình, Hồ Chí Minh đã chứng minh chân lý. Làm cách mạng không chỉ cần “đúng” mà còn phải “khéo”; không chỉ là lập trường, quan điểm mà còn là nghệ thuật, mưu lượt.

Đúng như một nhà báo Pháp đã nhận xét: Chính sự kết hợp mà không ai bắt chước nổi với tính cương nghị, giữa tính linh hoạt về chính trị với tính cứng rắn về nguyên tắc, giữa việc vận dụng truyền thống yêu nước và việc phân tích Mácxít đã tạo nên tính chất độc đáo của ông Hồ Chí Minh” [11]. Không chỉ là đặc điểm, là điều độc đáo, “ Dĩ bất biến, ứng vạn biến” còn là sức manh của chính trị gia thiên tài Hồ Chí Minh.

Tham khảo

Bài đăng trên tạp chí Triết học số 10

[1] Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, t.3. Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr216[2] Vũ Dương Huân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao. Hà Nội, 2005, tr87[3] Hoàng Chí Bảo, văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh – giá trị và ý nghĩa. Tạp chí Cộng sản, Số tháng 5 – 2005[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.555[5] Hồ Chí Minh, Sđd, t4, tr. 496[6] Hồ Chí Minh, Sđd, t.10, tr. 128[7] Hoàng Chí Bảo, Minh Triết Hồ Chí Minh, Tạp chí văn hóa học, số 1 – 2012, tr.9[8] Hồ Chí Minh, Sđd, t.9, tr. 173[9] Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh – tinh hoa và khí phách dân tộc. Nxb Chính trị Quốc gia, 2012, tr.36[10] Hồ Chí Minh, Sđd, t.7, tr 319

[11] Dẫn theo Song Thành. Hồ Chí Minh – nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2009, tr336

Video liên quan

Chủ Đề