14 639 KB 0 40
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 14 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 5 TRIẾT LÝ GIÁO DỤC HIỆN SINH VÀ QUAN NIỆM “THÀNH NHÂN
TRƯỚC THÀNH DANH”
Võ Quốc Việt
Trường Đại học Văn Hiến
Ngày nhận bài: 29/08/2018, Ngày duyệt đăng: 23/07/2019
Tóm tắt
Thực tế cho thấy sự nhầm lẫn giữa triết lý giáo dục và định hướng giáo dục cục bộ
khá phổ biến. Từ việc phân biệt hai vấn đề này, chúng tôi xuất phát từ điểm nhìn của triết
lý giáo dục hiện sinh như một hệ quy chiếu để cứu xét triết lý giáo dục “thành nhân trước
thành danh”. Không chỉ dừng lại ở việc phác họa các vấn đề cơ bản của triết lý giáo dục
hiện sinh, bài viết còn trình bày các phương thức khả dụng cho thực tiễn đào tạo nói
chung. Ngoài ra, bài viết còn đề cập đến các vấn đề như chương trình đào tạo, phương
pháp giảng dạy và vai trò của người học. Chung quy, mục tiêu đặt ra là có thể gợi mở
thêm một vài vấn đề cần lưu ý trong bối cảnh giáo dục và đào tạo hiện nay.
Từ khóa: chủ nghĩa hiện sinh, chương trình đào tạo, hệ giá trị bản chất, thức tỉnh,
triết lý giáo dục.
Existentialist philosophy of education and the idea “awaken to self before
establishing a unique essential value system”
Abstract
The fact is that the confusion between philosophy of education and limited theory of
education is quite common. From the distinction between these two issues, the
fundamental ideas of existentialist philosophy of education as the frame of reference or
the coordinate system are formed and measurements are standardized for investigating
the philosophy of education “awaken to self before establishing a unique essential value
systems”. This article is not only about sketching out the foundation of existentialist
philosophy of education, but also about the possible manners that can be applied to
teaching and learning in general. Moreover, issues such as curriculum, teaching methods
and the role of learners are also mentioned. From this point of view, the purpose of article
aims at suggesting some of the problems regarded in the current context of education and
training.
Keywords: existentialism, curriculum, essential value systems, awaken, philosophy of
education. 112 VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE 1. Đặt vấn đề
Triết lý giáo dục ngày càng là vấn đề
sống còn của một nền giáo dục. Kỳ thực,
từ cổ Hy Lạp hay trong tư tưởng Khổng –
Mạnh, vấn đề triết lý giáo dục đã được đề
đặt một cách có hệ thống. Tuy nhiên, tư
duy phân tích thực chứng đẩy vấn đề này
ngày càng đi đến chỗ sai lạc. Đó là sự
nhầm lẫn giữa triết lý giáo dục tổng quát
và các định hướng giáo dục cục bộ. Định
hướng giáo dục mang tính đối phó, hạn
hẹp trong phạm vi không gian – thời gian
dành cho một vài đối tượng khu biệt hay
các hiện tượng bộc phát nhất thời trên
dòng lịch đại không phải là triết lý giáo
dục. Đặt ra vấn đề này, chúng tôi muốn
xem lại quan niệm: “Thành nhân trước
thành danh” đã thực sự là triết lý giáo dục
hay chỉ là định hướng giáo dục. Và thực tế,
mối liên hệ giữa triết lý giáo dục tổng quát
với định hướng giáo dục là như thế nào?
Tất nhiên, chúng tôi chưa vội vàng
đưa ra kết luận rằng “thành nhân trước
thành danh” là định hướng giáo dục cục bộ
hay là một triết lý giáo dục toàn diện. Tuy
nhiên, chúng tôi có thể nhấn mạnh rằng,
một triết lý giáo dục toàn diện là cần thiết,
thậm chí cấp bách đối với các trường đại
học ở Việt Nam, đặc biệt trong việc vươn
ra khỏi phạm vi quốc gia hòa nhập vào môi
trường giáo dục quốc tế. Bởi triết lý giáo
dục không chỉ định vị mà còn khẳng định
“thương hiệu” giáo dục cho một cơ sở đào
tạo gắn liền với truyền thống và định
hướng phát triển quốc gia.
Trong đó, định hướng giáo dục cục bộ
cũng có vai trò nhất định đối với sự vận
động của một cơ sở giáo dục nói riêng và
của nền giáo dục quốc gia nói chung. Bởi
vì, trong bối cảnh đầy biến động của nhu
cầu lao động xã hội, sự thích nghi nhạy VOLUME 6 NUMBER 5 bén của hoạt động đào tạo góp phần giúp
cho nền giáo dục chuyển mình nhanh
chóng cùng với sự thay đổi của vận hội
quốc gia và quốc tế. Dựa trên triết lý giáo
dục toàn diện, hoạt động giáo dục dù trên
phạm vi rộng hay hẹp đều cần có những
định hướng mang tính giai đoạn để kịp
thời hội nhập với guồng quay chung. Và ở
khía cạnh này, các cơ sở đào tạo tư thục có
điều kiện chuyển mình nhanh chóng hơn
các cơ sở công lập. Đây là thách thức
nhưng cũng là cơ hội lớn của những cơ sở
giáo dục tư thục.
Trở lại với câu chuyện “thành nhân
trước thành danh”, liệu đây có phải triết lý
giáo dục toàn diện hay chỉ là định hướng
đào tạo mang tính hợp thời? Và liệu,
“thành nhân trước thành danh” đã đủ kiện
toàn như là một triết lý giáo dục toàn diện
hay chỉ là kiểu triết lý giáo dục nửa vời.
Trong khi chúng ta đặt ra mục tiêu xây
dựng hình tượng con người thời đại nhưng
chúng ta chưa kiện toàn được ý hướng đó
như là một triết lý toàn diện từ gốc rễ đến
ngọn ngành thì kiểu triết lý mà chúng ta
đặt ra chỉ là kiểu “khua chiêng gióng
trống”. Kỳ thực, trong bối cảnh hiện nay,
đối tượng người học với các đặc thù phức
tạp và thay đổi nhanh chóng, rất khó để có
thể giữ vững xuyên suốt một triết lý giáo
dục. Tuy nhiên, vấn đề kiện toàn triết lý
giáo dục vẫn phải được đặt lên hàng đầu.
Song song đó là việc phản ứng cấp bách
trước các biến động bằng những định
hướng đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối
tượng. Do đó ở đây, chúng tôi muốn gợi ra
vấn đề kiện toàn triết lý “thành nhân trước
thành danh”. Chính ý hướng này đẩy
chúng tôi đến với chủ thuyết hiện sinh như
là nền tảng lý luận để soi chiếu vào lĩnh
vực giáo dục hầu mong khai mở thêm
113 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN những lối đi khác cho triết lý “thành nhân
trước thành danh”.
2. Chủ nghĩa hiện sinh được xem
như triết lý giáo dục
Để làm rõ vấn đề này, chúng tôi muốn
nhắc lại ý kiến của Moore [1982]:“Một
triết thuyết [giáo dục] toàn diện khác với
các học thuyết cục bộ [limited theory] ở
chỗ nó đưa ra một chương trình giáo dục
bao quát nhằm xây dựng một hình tượng
con người thời đại nào đó, chẳng hạn như
người trí thức, trong khi đó một học thuyết
cục bộ chỉ liên quan đến các vấn đề giáo
dục khu biệt, chẳng hạn như cách truyền
giảng một môn học hay sự ảnh hưởng của
lứa tuổi đến cách tiếp cận giáo dục đối
tượng”.
2.1. Quan điểm cơ bản của triết lý
giáo dục hiện sinh
Vấn đề chủ nghĩa hiện sinh đã được
rất nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến. Từ
hậu bán thế kỷ trước, giới trí thức ở đô
thành Sài Gòn đã bỏ ra nhiều công sức
nghiên cứu thuyết hiện sinh, nếu không nói
là hiện sinh thuyết đã trở thành trào lưu ở
miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954 –
1975. Bằng chứng là công trình Triết học
hiện sinh của Trần Thái Đỉnh trở thành
“best seller” năm 1967 chứ không phải là
tác phẩm truyện hay thơ ca. Điều này phần
nào cho thấy tâm thức của người Việt đã
có tiền đề cho sự tiếp nhận hiện sinh thuyết
và đưa hiện sinh thuyết đi vào lĩnh vực
giáo dục một cách toàn diện là vấn đề hoàn
toàn khả thi.
Từ đó, chúng tôi dựa vào các khái
niệm cốt lõi của thuyết hiện sinh và xem
xét như một triết lý giáo dục. Nhưng trước
hết, chúng tôi muốn quay lại với vấn đề
định danh như một tiền đề. Tồn hữu
[Existence] là gì? Trong gốc từ Latin: Ex114 TẬP 6 SỐ 5 nghĩa là vượt ra, thoát ra, đường dẫn đến;
-sistere nghĩa là nguyên do để chống chịu,
có đấy để hiện diện, có mặt để chống chịu
[Bunnin và Yu, 2004]. Trong quan niệm
Martin Heidegger [1889 – 1976], human
existence tương đương với Dasein [Bunnin
và Yu, 2004], trong đó, “Existence là sự
thức tỉnh của Hữu tại thế”. Bản thân từ
existence mang một hàm nghĩa nhất định
về giáo dục. Bởi vì, học là cách để con
người vượt thoát và dấn thân từ chỗ con
người tự nhiên trở thành con người xã hội.
Trong quá trình đào tạo hoặc quá trình dấn
thân giữa trường đời, người học cần thiết
phải thức tỉnh về chính mình, tỉnh ngộ về
cảnh đời hiện hữu và “ý nghĩa cuộc đời
con người họ phải nhìn thẳng và thông
hiểu được nguồn gốc và yếu tính thực tại
với tư cách một con người biết suy tư và
hành động một cách “tự do” không để
mình nô lệ vào một cái gì” [Jaspers, 2013].
Và đó là bước nhảy mang tính đột biến về
hiện hữu để người học có thể ý thức về
nhân vị và vấn đề ý nghĩa cũng như hệ giá
trị sinh tồn của bản thân. Do thế, chúng tôi
cho rằng trong căn bản quan niệm hiện
sinh đã bao hàm ý nghĩa giáo dục rất lớn.
Thuyết hiện sinh như là một nhân bản
thuyết với các vấn đề căn bản về ý nghĩa,
mục đích và giá trị của việc sống – tồn hữu
lưu hoạt. Thuyết hiện sinh khi đặt trong
môi trường giáo dục tức là đặt ra cho
người học những thách thức – những thách
thức dưới dạng những câu hỏi cơ bản:
1. Tại sao tôi tồn tại?; 2. Tại sao tôi ở
đây?; 3. Bản chất cuộc đời tôi là gì?; 4. Tôi
đến đây giữa đời để làm gì?...
Chủ nghĩa hiện sinh trong lĩnh vực
giáo dục hướng đến các giải pháp nhằm
xây dựng chuẩn giá trị thẩm mỹ, đạo đức
và cảm xúc tự ngã. Điều này có nghĩa là VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE hiện sinh thuyết như một triết lý giáo dục
không hướng đến mục đích đóng góp “chất
liệu” con người cho việc tái thiết xã hội,
thông qua đó ảnh hưởng đến các vận động
xã hội; mà mục tiêu hướng đến của triết lý
giáo dục hiện sinh thuộc về cấp độ vi mô.
Đó là sự tác động theo chiều sâu, đi vào
việc xây dựng khả năng tự vận động nội tại
nhân tính để từ đó người học tự hoàn thiện
tính toàn vẹn hiện hữu của bản thân. Trong
đó, triết lý này đặt [thậm chí buộc] người
học phải đối mặt trực diện với các trạng
huống đời sống, cho người học thấy rằng
cuộc hiện hoạt hữu tồn của bản thân là cái
gì đó không thể chối chạy. Để thực hiện
được điều đó, triết lý giáo dục hiện sinh
không né tránh khi đề cập đến các vấn nạn
và các bi kịch cơ bản của đời sống người.
Nhưng chính ở điều này, hiện sinh thuyết
giáo dục buộc người học phải sống và vượt
lên trên các vấn nạn và bi kịch đó [dù gì
cũng phải sống]. Vấn đề đặt ra là phải sống
như thế nào? Và hiện sinh thuyết giáo dục
cho người học các “khí cụ” đắc lực: Tự do/
Tự quyết/ Lựa chọn. Kèm theo đó, người
học phải ý thức rõ ràng về trách nhiệm của
các lựa chọn và hành động. Không thể là
một ai khác, mà phải chính họ tự chống
chịu cuộc đời mình. Và cuộc đời đó phải là
cuộc đời của chính họ, mang dấu ấn hiện
sinh của họ, không thể là một cuộc đời vay
mượn, một cuộc đời bắt chước, một cuộc
đời “của đám đông”, bằng cách tồn hoạt
như là chính mình một cách độc đáo và
siêu vượt, họ đặt “viên gạch” nhân vị của
mình trên giữa đường đời.
Các nhà giáo dục theo khuynh hướng
chủ nghĩa hiện sinh tin rằng giá trị tồn hữu
của con người được nâng cao khi nhận thức
của người học được cải thiện, mà cụ thể là
nhận thức về tự ngã và tha nhân. Đây là hai VOLUME 6 NUMBER 5 vấn đề cơ bản trong quan điểm triết lý giáo
dục hiện sinh. Từ chỗ đó, sự so sánh giữa tự
ngã và tha nhân được đề cập để làm nền
tảng cho người học lựa chọn, tự quyết và tự
chịu trách nhiệm để độc đáo và hiện hữu
một cách chân thực. Đó cũng là sự bừng vỡ
mà người học thoát được cảnh đời
“zombie” lầm lũi giữa sinh thế [die welt].
Và hẳn nhiên, sự bừng vỡ này phải kéo theo
việc xác lập “cương giới” của hệ giá trị cơ
bản như thiện – ác, đúng – sai… Ở đây, các
nhà hiện sinh cũng chú ý đến giai đoạn
trước và trong thời kỳ dậy thì. Tuy nhiên, ở
bậc đại học, giáo dục hiện sinh phải sử
dụng những “khí cụ” như thể những “cú
đấm tái sinh”. Nhưng đây lại là một vấn đề
cần nhiều thời gian hơn để bàn luận.
Sau cùng, để nói về quan điểm cơ bản
của triết lý giáo dục hiện sinh, chúng tôi
muốn nhắc đến ý kiến của Malik và Akhter
[2013]: “Đề xuất trung tâm của thuyết hiện
sinh chính là tồn tại có trước bản chất,
điều này có nghĩa là cuộc hiện tồn thực
hữu của nhân vị là cái vốn được cấu thành
[chứ không phải sẵn có] và có thể gọi nó là
“bản chất” của nhân vị thay vì có một căn
tính tiền định trước khi kẻ đó hiện diện. Do
thế, tồn tại người – thông qua ý thức của
chính họ – tạo ra hệ giá trị và định hướng
ý nghĩa cuộc đời của chính họ”.
Nói khác đi, không ai sinh ra với một
bản chất sẵn có [kiểu như “Nhân chi sơ tính
bản thiện”]. Kỳ thực, “bản thiện” ở đây chỉ
là tồn hữu cố nhiên về mặt vật chất. Và con
người lúc mới thoát thai cũng chẳng khác gì
cội cây gốc đá vô tri, vô niệm. Thế nhưng,
quá trình tồn hữu đặt đối tượng trong các
mối liên hệ muôn vàn mà từ đó nhân vị
hình thành với cái gọi là “bản chất”. Con
người là kết quả của cuộc đời. Chỉ có điều,
cái kết quả đó, nhân vị có thể tương tác
115 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN bằng chính sự lựa chọn, tự quyết, tự chịu
trách nhiệm. Và đấy chính là chỗ mà giáo
dục thể hiện vai trò xã hội của mình.
2.2. Định hướng của triết lý giáo dục
hiện sinh
Vấn đề đặt ra là: triết lý giáo dục hiện
sinh hướng đến xây dựng hình tượng con
người thời đại như thế nào? Để trả lời vấn
đề này, chúng ta cần trở lại ý kiến khá sáng
rõ của Gotak: “Tri kiến/ nhận thức tức là
người học cần phải nhận ra rằng cương vị
làm người của họ là ở chỗ lựa chọn một
cách kiên quyết, tự do, độc lập và sáng tạo
độc đáo ở mỗi chọn lựa và quyết định [trên
đường đời]” [Mozaffari và Jahanian, 2016].
Chung quy, đó là sự tỉnh thức. Giáo
dục không chỉ xoay quanh việc đào tạo
năng lực lao động thực tiễn và kỹ năng
mềm. Hơn thế, giáo dục toàn diện là việc
xây dựng hình tượng một con người ý thức
sâu sắc về giá trị của bản thân và người học
phải tự trả lời được câu hỏi: Vì sao tôi hiện
hữu và tôi phải hiện hữu như thế nào để
xứng đáng với cuộc hiện hữu này? Điều
này khiến chúng ta nghĩ lại: “thành nhân
trước thành danh” phải chẳng chỉ dừng lại ở
việc thiết lập chuẩn đầu ra về năng lực/ kỹ
năng nghề nghiệp trong khi cốt lõi tinh thần
của con người đã bị xao nhãng. Điều này là
kết quả của việc chạy theo các hệ quy chiếu
một cách sáo rỗng và thiếu suy xét.
Xuất phát từ những vấn đề cơ bản đã
nói, triết lý giáo dục hiện sinh hướng đến
việc giúp cho sinh viên hiểu và nhận thức
sâu sắc về tự ngã, về sự hình thành bản
chất của chính mình và tính chất tự quyết,
tự do trong việc lựa chọn và hình thành
bản chất của mình. Sự nhận thức đó phải là
nhận thức về tính toàn vẹn cá thể của bản
thân, là kẻ chấp nhận, chống chịu và có
trách nhiệm đối với cảm xúc và hành vi
116 TẬP 6 SỐ 5 của chính mình. Các nhà hiện sinh tin rằng
nếu mỗi học sinh nhận ra hoàn toàn trách
nhiệm về hành động của mình thì sẽ không
có hành vi chống lại xã hội kiểu như nổi
loạn [Malik và Akhter, 2013]. Có chăng,
đó là sự nổi loạn trong nhận thức. Nhưng
sự nổi loạn đó là cần thiết để con người
sắp xếp và định vị lại tự ngã, nghĩa là sự
vận động để thực hiện bước nhảy hiện hữu.
Từ đó, họ lựa chọn con đường siêu vượt
hiện hữu nhân vị để cải thiện xã hội. Trong
quan điểm triết lý giáo dục hiện sinh,
không có sự lựa chọn nào tốt hơn bất kỳ
loại nào bởi vì không có bất kỳ tiêu chuẩn
bên ngoài nào để đo lường giá trị và tính
hợp lệ của các chọn lựa của mỗi cá nhận.
Không ai có quyền áp đặt hệ giá trị của
mình để đánh giá về sự hiện hữu của bạn.
Bạn là thẩm phán cuộc đời bạn. Thậm chí
đám đông cũng không có quyền biểu quyết
về hiện tồn của bạn. Từ đó, chúng ta thấy
quan điểm tự do đồng thời trao cho người
học quyền dân chủ trong lớp học. Để sau
nữa, họ mang theo hành trang dân chủ để
cầm cương đời mình giữa đường đời.
Chung quy, giáo dục hiện sinh làm cho
người học trở thành tác giả cuộc đời của
chính họ, làm cho họ đối diện với chính cái
tôi chân thật, sống với cái chân thiện, rồi
vươn đến chân mỹ. Theo đó, triết lý này
hướng đến việc xây dựng con người toàn
vẹn trong ý nghĩa hoàn bị của nó. Hay nói
khác, đó là nhận thức về: Nhân tâm –
Nhân tính – Nhân chủ – Nhân quyền –
Nhân văn – Nhân bản.
3. “Thành nhân”, “thành danh” và
hiện sinh thuyết
3.1. “Thành nhân” và hiện sinh thuyết
Khi nói đến vấn đề “thành nhân” và
“thành danh” là chúng ta đã đụng chạm
đến các vấn đề cơ bản nhất của đạo đức VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE học Khổng - Mạnh trong bối cảnh tư tưởng
phương Đông hơn hai ngàn năm qua. Các
vấn đề như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín… cũng
như thuyết chính danh mà Khổng Tử khởi
xướng, xưa nay, đã được bàn đến rộng rãi
với nhiều cách hiểu và cách thế phát triển
khác nhau. Chúng tôi chỉ xác lập nội hàm
cơ bản của “nhân” và “danh” để từ đó
phóng chiếu vào phạm vi của triết lý giáo
dục hiện sinh.
Thêm vào đó, không chỉ đơn thuần
luận bàn về “nhân” và “danh” một cách
riêng lẽ, chúng tôi còn xác lập mối liên hệ
không thể tách rời giữa “nhân” và “danh”.
“Nhân” và “danh” nói khác đi chính là mối
tương liên nhân đạo và thiên đạo, là sự
tương ứng giữa người và đời. Nhân được
coi là phạm trù trung tâm của Thiên –
Nhân hợp nhất, đã thể hiện đặc trưng căn
bản của toàn bộ tư duy của hữu cơ luận lý
học… Nó không phải là chỉ coi giới tự
nhiên là đối tượng khách quan của vật lý
cơ giới, mà còn coi nó là quá trình vô cùng
của chỉnh thể hữu cơ quá độ lên sinh mệnh
[Mộng Bồi Nguyên [-]; Tạ Tú Chinh và
Nguyễn Văn Đức dịch, 1998]. Có thể nói,
chính sự quá độ đó là bước ngoặt hiện hữu
của nhân vị. Để tiến lên quá độ, tại vị trong
“nhân” thì mỗi người cần trải qua quá trình
tích lũy nhận thức. Đó chính là chỗ mà
giáo dục phải thể hiện vai trò của nó. Đánh
thức tư niệm để thực hiện bước nhảy và
quá độ về phía “nhân”, tại vị ở “nhân” để
có được sinh mệnh thực thụ. Chứ không
phải sinh mệnh thừa hay thứ sinh mệnh
vay mượn, ảo ảnh và ngụy tạo. Vậy nên,
nói nhân là bước đi đầu tiên cũng là nền
tảng căn bản cho tất cả mọi khởi đầu của
hiện hữu đích thực.
Theo Phùng Hữu Lan: “Nhân 仁 là
một trong những khái niệm quan trọng VOLUME 6 NUMBER 5 nhất trong tư tưởng Khổng Tử. Về mặt chữ,
nó gồm bộ thủ nhân 亻[biến thể của 人 ,
nghĩa là người] ghép với chữ nhị 二 [hai].
Tức là nó ngụ ý những phẩm chất đạo đức
trong quan hệ giữa người với người”
[Phùng Hữu Lan [-]; Lê Anh Minh dịch,
2013]. Cho nên, phàm nói đến nhân là nói
đến khía cạnh xã hội của con người. Bởi sự
“nhân” chỉ thành hình và bộc lộ trong mối
quan hệ giữa người với người. Mà ở cách
đối đãi ấy, lòng nhân – tính nhân bắt đầu
hiện hoạt. Điều này rất gần gũi với quan
niệm hiện hữu có trước bản chất của hiện
sinh thuyết. Bởi sự nhân như một bản chất
vốn dĩ chưa có khi con người tồn tại như
một vật thể ở đời. Chỉ khi con người được
đặt trong muôn vàn các mối quan hệ xã hội
thì sự nhân mới có thể thành lập như bản
chất. Và hơn nữa, nói như vậy thì nhân là
phạm trù cơ bản của tính người. Thế nên,
giáo dục không hướng đến thành tựu
“nhân” cho người học là một nền giáo dục
thiếu căn cơ. Cho nên, chúng tôi cho rằng
lấy “nhân” làm gốc là định hướng đúng đắn
và xác đáng của triết lý “thành nhân trước
thành danh” vậy.
Nói thêm về “nhân”, sách Luận ngữ
có đoạn: “Tử Cống viết: “Như hữu bác thí
ư dân, nhi năng tế chúng, hà như? Khả vị
nhân hồ?”. Tử viết: “Hà sự ư nhân? Tất
dã thánh hồ? Nghiêu Thuấn kỳ do bệnh
chư? Phù nhân giả, kỷ dục lập nhi lập
nhân; kỷ dục đạt nhi đạt nhân. Năng cận
thủ thí, khả vị nhân chi phương dã dĩ!” [Lê
Phục Thiện, 1962]. [子贡曰:"如有博施於
民而能济众,何如?可谓仁乎?".子曰:
何事於仁?必也圣乎!尧舜其犹病诸.夫
仁者,己欲立而立人, 己欲达而达人. 能近
取譬,可谓仁之方也已]. Từ đó, đủ thấy,
nhân đặt ra trong mối quan hệ giữa người
117 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN với người. Nhưng nhân muốn thành toàn
thì phải đạt đến danh. Nhân và danh là hai
vấn đề kết nối với nhau thành một quá
trình khăng khít. Hay nói khác đi, tự ngã
phải vươn đến tha nhân. Nhưng muốn
vươn đến tha nhân trước hết phải tự hiểu
được tự ngã của mình. Điều này đặt ra cho
kẻ học mà cũng như cho định hướng của
sự vụ giáo dục phải làm sao tự thức tỉnh.
Sự thức tỉnh phải khởi phát từ bên trong
“để nhận thức rõ năng lực của chính mình,
không bị thúc ép từ bên ngoài” [Jaspers,
2013]. Thế nên, người dạy không phải
người đánh thức người học mà người học
phải là kẻ tự đánh thức mình. Người dạy
chỉ nên giúp cho người học nhận ra rằng
họ chưa thức tỉnh. Kẻ dạy chỉ có thể gợi ra,
tạo dung môi và đóng vai trò xúc tác cho
sự thức tỉnh của kẻ học mà thôi.
Bấy giờ khi đã sửa mình rồi, dự phóng
“nhân” rồi, thì cái nhân đó phải hướng đến
tha nhân, bấy giờ, sự “nhân” đó mới thành
tựu. Ở ý kiến này, nếu ta liên hệ với các
phương pháp giáo dục hiện sinh có thể
thấy nhiều hé mở thú vị. Lời dạy trong
sách Luận ngữ không chỉ lý giải nhân mà
còn nói đến cách thực hành nhân. Nghĩa là
dạy cho nhân [mang cho khí cụ để tự thức
tỉnh] mà còn dạy người học giữ được cái
nhân – bảo toàn sự thức tỉnh về nhân vị
đó, bởi sự “nhân” mà chỉ trong ngày một
ngày hai thì sự “nhân” đó không có nghĩa
lý. Và để thực tập “nhân” cần dấn thân vào
tha nhân. Nghĩa là phải lao vào giông bão
đời sống. Trên con đường đó, người học
[thực tập nhân] hoàn toàn tự do - tự quyết tự lựa chọn và tự chịu trách nhiệm. Thế thì
ở đây, nhà trường và người dạy cần thực
hiện hai bước: 1. Trao khí cụ tự đánh thức;
2. Tạo điều kiện để người học dấn thân.
Mỗi bài giảng của người dạy phải là một
118 TẬP 6 SỐ 5 “tác động mạnh mẽ” khiến nhận thức của
người học bừng tỉnh [trước là bừng tỉnh về
chính mình và nhận ra sự buồn nôn phi lý
thê thảm của nhân vị mình, sau là bừng
tỉnh về nhân quầng xã hội để thiết lập hệ
giá trị và mục đích sống]. Thêm vào đó,
bài giảng không nhất thiết phải ở trên
giảng đường. Cần mở rộng phạm vi trường
học, nhà trường đích thực chính là đời
sống. Thế nên, cần khuyến khích các tiết
học thực tế, trải nghiệm, tăng tỷ lệ phần
trăm các giờ trải nghiệm trong tổng số tiết
học. Ngoài ra, có thể gợi mở để người học
tự lựa chọn phương thức phương cách trải
nghiệm dấn thân. Ví dụ như, các sinh viên
Do Thái muốn tốt nghiệp chuyên ngành
quản trị kinh doanh phải xây dựng được
hoạt động kinh doanh sinh lời cụ thể, chứ
không phải chỉ là các đồ án tẻ nhạt và vô
dụng. Hãy cho người học dân chủ, vì
người dạy không thể sống thay kẻ học.
Người dạy nên kích thích và đóng vai trò
như kíp nổ nên kẻ học tự bừng tỉnh và phát
ra tiếng nổ để thiết lập chính địa vị của họ
trong xã hội. Tuy nhiên, nói như vậy
không có nghĩa là người học hoàn toàn làm
chủ chương trình và hoạt động đào tạo.
Người học là trung tâm nhưng người dạy
là trọng yếu. Người học cần dân chủ nhưng
người dạy phải được đề cao.
3.2. “Thành danh” và hiện sinh thuyết
Danh ở đây vừa là công danh/ công
trạng, vừa là cái danh – trạng thái hữu hiện
ở đời. Cho nên, “thành danh” tự nó cũng
có hai ý nghĩa.
Khổng Tử đã đề xuất thuyết chính
danh. Bắt nguồn từ những băn khoăn về
cái gốc của loạn mà ông gọi là danh bất
chính. Phùng Hữu Lan [-] [Lê Anh Minh
dịch, 2013] khi bàn đến thuyết chính danh
của Khổng Khâu có lời bàn: “Mỗi cái VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE danh đều có định nghĩa của nó. Cái định
nghĩa đó nêu ra cái khiến cho một vật [mà
cái danh gán cho nó] là chính nó. Nói cách
khác, danh là yếu tố hay khái niệm của vật
đó”. Từ đó, danh và thực phải tương ứng
với nhau. “Danh chính ngôn thuận” là vậy.
Từ chỗ định danh, đạo đức học Khổng –
Mạnh chú trọng ở chỗ phân định tôn ti trật
tự nhân quần xã hội. Vua ra vua, quan ra
quan, dân ra dân. Nhưng ở đây, ta không
chú ý đến tính chất giai cấp mà cần phải
nhìn vào chỗ tương thích giữa bản chất và
hiện hữu. Nghĩa là trong ngoài như một.
Bản chất là thực mà hiện hữu là danh. Thế
nên, danh hữu ở đời phải thể hiện đúng
đắn bản chất. Cho nên, thành danh cũng là
nói đến chỗ chân thật. Người phải là người
người chân chính trong ý nghĩa toàn vẹn
của nó; tránh rơi vào tình trạng “xác người
cốt khỉ”. Ấy là hiện hữu dở dang, là thất
bại tồn sinh.
Vậy nên, “thành danh” tự nó là sự tựu
thành của bản tính người không lung lay
thay đổi, giữ lấy cá tính độc đáo và riêng
biệt của mình. Giữ được tự ngã tư niệm
trong mối quan hệ ở đời. Thành danh như
vậy cũng có thể nói là đã ở trong đạo trung
dung của thánh hiền. Nhưng thiết thực
hơn, thành danh như vậy cũng là xác lập
nhân vị của bản thân giữa dòng chảy hiện
hữu. Người học có thể không cần phải xuất
sắc nhất để nổi bật và gây chú ý nhưng
phải là chính mình trước đã. Không tìm ra
được mình, định vị và kiên quyết giữ lấy
mình thì không thể thành danh. Nói đến
đây cần nhắc lại rằng, nếu không thành
nhân thì không thể thành danh vậy. Đó
phải là một quá trình nhất quán và xuyên
suốt, thường trực.
Sách Đại học [Chu Hy chương cú] có
câu: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, VOLUME 6 NUMBER 5 tại thân/ tân dân, tại chỉ ư chí thiện” [大學
之道,在明明德,在親民,在止於至善]
[Phạm Ngọc Khuê dịch, 1970]. Điều này
gợi mở cho ta nghĩ về mối liên hệ giữa
thành nhân và thành danh. Bởi đường lối
sự học của bậc trượng phu trước là rõ cái
đức sáng của mình. Nghĩa là tu thân, lấy sự
tu thân làm gốc. Cái “minh đức” vốn là
bẩm thụ thiên tính, càng phải làm sáng rõ,
tu thân để minh đức càng thêm sáng đẹp ấy
là thành nhân, nhưng cùng cực của nhân là
“chí thiện”. Làm sao để đạt đến chỗ chí
thiện? Ấy là con đường phải trải qua “thân/
tân dân”: nghĩa là kết nối với tha nhân. Đó
là tiến trình vận động của hiện hữu. Từ chỗ
nhận thức về mình đến nhận thức về tha
nhân. Từ nhận thức về tha nhân mà xác lập
cương vị, tư thế trung dung giữa đời. Đó là
thành danh. Thành danh không hẳn là công
trạng lẫy lừng, mà sự thành danh ở đây là
ở chỗ thành toàn trọn vẹn cuộc hiện sinh
của mình, để xứng đáng có một lần hữu
hiện giữa đời sống. Đứng giữa cõi trời đất
mênh mông, người có thể lớn tiếng xác lập
tiếng nói riêng biệt độc đáo, ấy là thành
danh. Cho nên, thành danh ở đây ngoài ý
nghĩa lập công trạng, ghi danh tiếng, còn là
xác lập hệ giá trị hiện hữu của tự ngã.
Tự ngã đến với tha nhân hay “minh
minh đức” đến chỗ “tân dân” là quá trình
dấn thân. Dấn thân là một phạm trù cơ bản
của thuyết hiện sinh. Một thái độ sống mà
hiện sinh thuyết giáo dục áp dụng để thiết
đặt cách thế cho người học. Và do thế, học
là một hình thức dấn thân. Học không chỉ
là hình thức tiếp cận lý thuyết về một thế
giới hư ngụy tồn hữu trên chữ nghĩa. Hơn
thế, người học phải trực diện đối ứng với
thế giới. Để thế giới hiện hữu ra cho người
học, thế giới của người học; và ngược lại,
thế giới tương tác đến người học để người
119 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN học mang đặc thù của thế giới. Khi đó,
cuộc tương tác hay có thể nói là quá trình
dấn thân sẽ tác thành cho người học hệ giá
trị riêng biệt của tự ngã. Chung quy, tự ngã
đến với tha thể, nên tự ngã trở thành hữu
tại thế [Dasein] hay quá trình dấn thân.
Học là sự dấn thân như thế.
4. Chương trình đào tạo và phương
pháp giảng dạy từ những gợi mở của
Triết lý giáo dục hiện sinh
4.1. Chương trình đào tạo
Chương trình giảng dạy có thể nói là
sự thể hiện tập trung của triết lý giáo dục
với mục đích xây dựng con người thời đại
mà ở đây là con người hiện sinh thức tỉnh
về hiện hữu của mình. Thế nên, có thể nói
chương trình đào tạo là bộ phận trọng yếu
của triết lý giáo dục.
Chương trình đào tạo của triết lý giáo
dục hiện sinh hướng đến việc đánh thức tri
kiến về tự ngã. Do đó, nó bao gồm các kỹ
năng và các môn thể hiện các khía cạnh
chân thực của thực tế xã hội; không phải là
những môn học “phải lẽ”. Chương trình
đào tạo theo triết lý hiện sinh không nhằm
mục đích đáp ứng định hướng của chính
thể. Ngược lại, nội dung các học phần còn
giúp cho người học đủ năng lực nhận thức
ngược lại chính thể. Phạm trù giáo dục và
chính thể là hai vấn đề tương hỗ nhưng
không có ý nghĩa quyết định lẫn nhau. Nếu
giữ được sự độc lập, tự chủ cho chương
trình đào tạo, tách biệt khỏi sự ảnh hưởng
của chính thể thì triết lý giáo dục hiện sinh
mới thực chất và đúng nghĩa.
Các nhà hiện sinh thuyết giáo dục xây
dựng chương trình đào tạo bao gồm các
môn khoa học nền tảng về con người nhằm
xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan và
hệ thẩm mỹ giá trị cho người học. Người
học không chỉ là người như một con người
120 TẬP 6 SỐ 5 hiện hữu thực mà còn là một con người
biết đẹp và vươn đến các giá trị sống siêu
vượt. Thực tế với định hướng “thành nhân
trước thành danh”, chương trình đào tạo
thường đặt nặng ở việc rèn luyện và hình
thành chuẩn kỹ năng. Dường như mục tiêu
trọng yếu của quá trình học là việc giúp
người học có thể tiếp cận nhanh chóng với
công việc sau khi tốt nghiệp. Đó là lấy
ngọn làm gốc, là đuôi làm đầu. Điều này
có thể sẽ gây ra những hệ lụy khôn lường.
Thế nên, ngoài việc chú trọng xây dựng kỹ
năng, cần đề cao các môn học kích thích
người học thức tỉnh về thế giới quan, nhân
sinh quan và hệ giá trị thẩm mỹ.
Yêu cầu đối với môn học cần nêu rõ
sự lựa chọn của con người. Có những chủ
đề như lịch sử, văn học, ngôn ngữ, toán
học, khoa học, v.v… là những môn học bắt
buộc thuộc về kiến thức phổ thông thì triết
học là môn học cần thiết hơn cả trong việc
xây dựng tri kiến nhằm tích lũy nhận thức
giúp người học thực hiện bước nhảy về
hiện sinh. Tuy nhiên, triết học phải bứt phá
ra khỏi sự ảnh hưởng của chính thể và thể
hiện một cách đúng đắn vai trò của nó đối
với việc xây dựng tri kiến về thới giới và
hiện hữu. Triết học phải đúng là triết học.
Hơn thế, triết học còn phải cập nhật và bắt
kịp với thực tế tiếp nhận của người học,
đừng để triết học sa vào đường lối kinh
viện. Bởi triết học thực chất và toàn vẹn
phải là môn học về chính cuộc đời và làm
sao cho người học nhận thấy được triết học
là một phần của đời mình. Đó phải là môn
học của sự dấn thân.
Từ đặc điểm tiếp nhận của người học
trong thời đại mới, chúng ta cần chú tâm
đến việc xây dựng nội dung của chương
trình đào tạo. Tất cả các môn học của
chương trình đào tạo phải dựa trên giáo VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE trình và tài liệu học tập nhưng phải vượt
thoát khỏi giáo trình và tài liệu học tập.
Chương trình đào tạo phải gắn liền với
thực tế tiếp nhận. Tư duy người học là thực
hữu luôn vận động. Trong khi đó, giáo
trình và tài liệu học tập sau khi định hình
trên sách vở đã trở thành những tri kiến bất
động. Giáo trình và tài liệu học tập chỉ là
nguồn tư liệu để họ tìm kiếm tri thức cho
chính mình. Nhưng đó phải là nguồn tri
thức động, song hành với sự vận động hiện
hữu của chính người học.
Theo đó, xuất phát từ chương trình
đào tạo nền tảng và linh hoạt, người dạy
theo triết lý giáo dục hiện sinh có thể kết
hợp nhiều phương pháp giảng dạy nhưng
không được phương hại đến sợi dây liên
kết đồng đẳng giữa người học và người
dạy. Điều này không có nghĩa là mối quan
hệ “thầy – trò” truyền thống bị phá vỡ vì
khi vận dụng bất cứ thuyết lý nào cũng cần
tôn trọng văn hóa và truyền thống dân tộc.
Do đó, trật tự “thầy – trò” vẫn phải được
xác lập nhưng trên nền tảng của sự tôn
trọng và dân chủ [Gotak, 2011].
Như đã nói, hiện hữu được xác lập
trong mối quan hệ giữa người với người.
Do đó, giáo trình và tập bài giảng được
xây dựng theo định hướng hiện sinh thuyết
giáo dục tập trung vào việc xây dựng tri
kiến trong việc thiết lập các mối quan hệ
giữa người học và người dạy, giữa người
học và người học; cũng như mối quan hệ
giữa người học với chính mình. Chung
quy, toàn bộ chương trình đào tạo phải là
chương trình tương tác. Mà nền tảng hơn
cả là kế hoạch cho người học tự tương tác
với chính mình. Bởi vì, mục đích chính
của chương trình đào tạo mà cụ thể là giáo
trình môn học chính ở chỗ giúp cho người
học tự phát triển các giá trị của họ, hiểu VOLUME 6 NUMBER 5 được chính mình trong bối cảnh văn hóa
mà họ đang sống. Thay vì một chương
trình dày đặc lý thuyết và kiến thức tại sao
không xây dựng chương trình đào tạo như
một loạt các hoạt động. Chương trình đào
tạo theo triết lý giáo dục hiện sinh hướng
đến việc kích thích người học hành động
hơn là tạo ra một bầu không kín bưng bế tù
đọng. Bởi nhận thức xuất phát từ những
hành động tuong tác. Do đó, bằng một
chương trình đào tạo như là kế hoạch hoạt
động, người học có thể khám phá và thể
hiện giá trị bản sắc của chính họ. Học là
từng bước tiến về cái tôi của chính mình,
học là trực diện nhắm đến việc tìm kiếm
cái tôi của chính mình.
Người học được mang lại nhiều
phương thức và môn học khác nhau để lựa
chọn. Tất nhiên, giới hạn cho phạm vi lựa
chọn ấy được đặt trong định hướng chuẩn
đầu ra đáp ứng với thực tiễn xã hội. Sự tự
quyết trở thành mình của người học ở đây
là tự do lựa chọn trong chiều hướng hình
thành trên mối tương quan giữa nhu cầu
thực tiễn xã hội và định hướng phát triển
về lâu dài của đất nước trong bối cảnh khu
vực và quốc tế.
Người học có quyền tác động ngược
trở lại chương trình đào tạo. Người học
được khuyến khích tìm hiểu các giá trị
nhân bản và từ đó kích thích sự sáng tạo
nhắm đến các giá trị tốt đẹp cho xã hội. Sự
tự do sáng tạo của họ phải có ích cho xã
hội, nghĩa là vừa để phát huy toàn vẹn
năng lực, hoàn thiện bản chất người học
vừa đóng góp cho xã hội.
Theo đó, nhà trường nên khuyến khích
tham gia các lĩnh vực âm nhạc, kịch nghệ,
những môn biểu diễn sáng tạo, văn chương
và triết học. Trong đó, văn chương và triết
học có ý nghĩa quan trọng trong việc hình
121 This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
Video liên quan