Em hiểu thế nào là công danh nam tử công danh trái

Phân tích hai câu cuối bài Tỏ lòng

Xuất bản ngày 06/12/2019 - Tác giả: Giangdh

[Văn mẫu 10] Phân tích hai câu thơ cuối bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão để thấy được khát vọng, hoài bão của bậc anh hùng và nỗi thẹn của người quân tử

Phân tích hai câu cuối bài Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lãođể thấy đượcnỗi thẹn của người anh hùng không hề bình thường chút nào mà đó là nỗi thẹn của một nhân cách lớn. Băn khoăn ấy không dành riêng cho bản thân mà toàn tâm toàn ý hướng về sự nghiệp lớn muôn trời, vì sự bình yên của sơn hà, xã tắc.

>>> Hướng dẫn Soạn bài Tỏ lòng ngắn gọn nhất

Nội dung khái quát 2 câu thơ cuối bài thơ Tỏ lòng

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

[Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu]

- Chí "nam nhi": "Công danh trái" Món nợ công danh. Công danh và sự nghiệp được coi là món nợ đời phải trả
của kẻ làm trai; nghĩa là phải lập công, lập danh, để lại sự nghiệp và tiếng thơm cho đời, cho dân cho nước.
Trong hoàn cảnh XH phong kiến, chí làm trai trở thành lí tưởng tích cực có tác dụng to lớn đối với con người
và xã hội.

- "Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu": Tác giả tự thấy hổ thẹn trước tấm gương tài – đức lớn lao của Khổng
Minh vì chưa trả được nợ công danh cho nước, cho đời. =>Đó là cái tâm chân thành và trong sáng của người
anh hùng. Đó là nỗi hổ thẹn đầy khiêm tốn và cao cả, giống như nỗi thẹn của Nguyễn Khuyến sau này trong
Thu Vịnh: Nhân hứng cũng vừa toan cất bút Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

------

Bài văn phân tích hai câu cuối bài thơ Tỏ lòng của học sinh giỏi văn

Phạm Ngũ Lão được biết đến là võ tướng có nhiều công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Bên cạnh đó ông còn rất ham đọc sách, làm thơ và được xem là người văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông hiện chỉ còn hai bài thơ là "Tỏ lòng" [Thuật hoài] và "Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương". Đặc biệt, "Tỏ lòng" đã thể hiện vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng hiên ngang với lí tưởng và nhân cách lớn lao, đồng thời phản ánh hào khí của thời đại Đông A với sức mạnh và khí thế hào hùng.

Bài thơ "Tỏ lòng" [Thuật hoài] được làm bằng chữ Hán, sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.

Nếu như ở hai câu thơ đầu, tác giả trú trọng ca ngợi vẻ đẹp hào hùng của con người, quân đội thời Trần qua việc khắc họa hình tượng người anh hùng hiên ngang lẫm liệt thì ở hai câu thơ cuối như một lời bộc bạch của kẻ làm trai, công danh, sự nghiệp như một món nợ đời

Nam nhi vị liễu công danh trải,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

[Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hâu]

Là một thành viên ưu tú của quân đội hào hùng ấy, Phạm Ngũ Lão ý thức rất rõ về trách nhiệm của bản thân.

Xưa nay viết về chí làm trai, người đọc đã bắt gặp những vần thơ rất đỗi quen thuộc của Nguyễn Công Trứ: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông. Cũng đồng điệu tâm hồn với bao kẻ sĩ đương thời, Phạm Ngũ Lão vô cùng đề cao lí tưởng trung quân, ái quốc. Bởi vậy, ông cho rằng đã là nam nhi thì phải trả nợ công danh, mà nợ công danh ở đây chính là làm điều có công với đất nước: "Nam nhi vị liễu công danh trái". Lí tưởng công danh ấy thể hiện cái nhìn tiến bộ và nhân cách cao đẹp của một vị tướng hết lòng muốn giúp nước, giúp đời. Nghĩ thấy bản thân chưa trả trọn nợ công danh, tác giả trăn trở, băn khoăn: "Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu".

Vũ Hầu chính là Khổng Minh Gia Cát Lượng, một người tài đức vẹn toàn đời Hán, có công lớn giúp Lưu Bị khôi phục vương triều.Ông cảm thấy "thẹn" khi đối sánh mình với cha ông, tự thấy bản thân chưa thể sánh được với họ. Khát vọng mong muốn lập nhiều công danh hơn nữa được diễn tả hết sức khiêm nhường khi đặt bản thân mình bên cạnh mưu thần Gia Cát Lượng. Âm hưởng câu thơ trầm lắng thể hiện khát vọng lập công và chí làm
trai hết sức tiến bộ của Phạm Ngũ Lão.

Với hệ thống ngôn từ hàm súc, cô đọng cùng những hình ảnh giàu sức biểu cảm, "Tỏ lòng" đã khắc họa vẻ đẹp của con người thời nhà Trần có sức mạnh, lí tưởng, nhân cách cao cả, đồng thời phản ánh khí thế hào hùng của thời đại. Âm hưởng mạnh mẽ ấy để lại dư ba trong lòng người đọc, nhắc nhở thế hệ trẻ chúng ta sống không bao giờ quên đề ra lí tưởng sống cao cả để sống đẹp, sống có ích hơn.

Tham khảo thêm: Bài văn mẫuphân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

Văn mẫu 10 - Phân tích 2 câu thơ cuối bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

Nhận xét về Phạm Ngũ Lão, sách Đại việt sử ký toàn thư viết: “Ngũ Lão xuất thân trong hàng quân ngũ nhưng rất thích đọc sách, là người phóng khoáng, có chí lớn, thích ngâm thơ, tựa như không để ý đến việc võ binh. Nhưng quân ông chỉ huy, thực là đội quân phụ tử, hễ đánh là thắng”. Dường như trong những vần thơ của ông cũng mang theo lý tưởng, khát vọng được lập công danh với đời, điều đó đã được thể hiện thông qua tác phẩm “Tỏ lòng”.

Bài thơ Tỏ lòng khắc họa vẻ đẹp của con người có sức mạnh, có lí tưởng, khát vọng, nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng trong hào khí Đông A.

Chúng ta có thể thấy được hình ảnh trữ tình trong tư cách một trang nam nhi dày dạn trận mạc. Không có một từ ngữ nào có thể tả hết được chí khí hùng mạnh của quân đội nhà Trần. Tuy nhiên mạnh mẽ là vậy nhưng trong lòng quân tướng vẫn luôn canh cánh một nỗi niềm:

Nam nhi vị liễu công danh trải,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

[Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hâu]

Vào thời trung đại, trả nợ công danh là khát vọng, hoài bão, lẽ sống của hầu hết trang nam tử. Có hai con đường trả nợ công danh: dùi mài kinh sử để đỗ đạt làm quan hoặc xông pha trận mạc chiến đấu, lập công báo quốc. Điều này là do chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia. Với Phạm Ngũ Lão, ý thức được thời buổi loạn lạc, ông chọn cho mình con đường xông pha nơi chiến trường. Ông xem công danh là cái nợ mình còn vương. Chưa trả không có nghĩa là bất lực, bất tài không lập được chiến công mà chỉ là thời cơ chưa tới. Cái “nợ công danh” ấy, chỉ cần cơ hội đến, ông sẽ sẵn sàng chặt đứt. Thông qua ý thức trả nợ công danh hiện lên khát vọng cháy bỏng, mãnh liệt của đáng nam nhi một lòng muốn báo đền nợ nước.

“Vũ hầu” ở đây ý chỉ Khổng Minh Gia Cát Lượng, người giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán. Đây là con người tận trung đã cống hiến cả cuộc đời cho nhà Thục và là một biểu tượng về chí làm trai. Phạm Ngũ Lão xấu hổ khi nghe chuyện Vũ hầu vì trước hết, ông thấy mình chưa lập được công danh, chưa trả xong nợ cho quê hương, đất nước. Mặt khác, ông thấy “thẹn” khi đứng trước tấm gương sáng cả về nhân cách lẫn tài năng của Gia Cát Lượng. Cái “thẹn” ấy là sự kính trọng đối với Vũ hầu đồng thời cũng là khát vọng của trang nam tử muốn noi bước người xưa tận trung báo quốc, trả nợ công danh. Nếu chưa lập được công danh thì nói thẹn là điều dễ hiểu. Nhưng khi đã dốc hết lòng cho giang sơn gấm vóc mà vẫn nói thẹn thì phải thấy khát vọng của nhân vật trữ tình lớn đến độ nào. Hai câu thơ sau đã cho ta thấy được khát vọng, hoài bão của bậc anh hùng và nỗi “thẹn” của người quân tử. Cách hành xử đầy tinh thần nhân văn ta còn bắt gặp trong thơ Cao Bá Quát:

“Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”

[Cả đời chỉ biết cúi đầu bái lạy hoa mai].

Hay trong thơ Nguyễn Khuyến:

“Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”

hay:

“Ơn vua chưa chút đáp đền

Cúi trông thẹn đất, ngửa trông thẹn trời”

Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có trái tim vô cùng nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng khí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại. Thuật hoài đã vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão đến muôn đời sau.

Có thể bạn quan tâm: Cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

--------

Trên đây là bài văn mẫu phân tích hai câu thơ cuối trong bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão mà Đọc tài liệu đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích cho các em trong quá trình học bài và làm bài. Chúc các em học tốt môn văn mẫu 10

Phân tích 2 câu cuối bài Tỏ lòng hay nhất

  • Dàn ý phân tích 2 câu cuối bài Tỏ lòng
  • Phân tích 2 câu thơ cuối bài Tỏ lòng - Mẫu 1
  • Phân tích 2 câu cuối bài Tỏ lòng - Mẫu 2
  • Phân tích 2 câu cuối bài thơ Tỏ lòng - Mẫu 3
  • Phân tích 2 câu cuối Tỏ lòng - Mẫu 4

Dàn ý phân tích 2 câu cuối bài Tỏ lòng

I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Phạm Ngũ Lão [1255 - 1320], người làng Phù ủng, huyện Đường Hào [Nay là huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên], làcon rể [lấy con gái nuôi] của Trần Hưng Đạo.

- Dẫn dắt 2 câu thơ cuối cần phân tích

II. Thân bài: Phân tích nội dung 2 câu thơ đầu bài Tỏ lòng

Hai câu cuối:

Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

[Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu]

- Chí "nam nhi": "Công danh trái" Món nợ công danh. Công danh và sự nghiệp được coi là món nợ đời phải trả của kẻ làm trai; nghĩa là phải lập công, lập danh, để lại sự nghiệp và tiếng thơm cho đời, cho dân cho nước.

Trong hoàn cảnh XH phong kiến, chí làm trai trở thành lí tưởng tích cực có tác dụng to lớn đối với con người
và xã hội.

- "Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu": Tác giả tự thấy hổ thẹn trước tấm gương tài – đức lớn lao của Khổng Minh vì chưa trả được nợ công danh cho nước, cho đời. =>Đó là cái tâm chân thành và trong sáng của người anh hùng. Đó là nỗi hổ thẹn đầy khiêm tốn và cao cả, giống như nỗi thẹn của Nguyễn Khuyến sau này trong Thu Vịnh: Nhân hứng cũng vừa toan cất bút Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

III. Kết bài:

Phân tích 2 câu thơ cuối để thấy được nỗi thẹn của người anh hùng không hề bình thường chút nào mà đó là nỗi thẹn của một nhân cách lớn.

Tiết 43: Tỏ lòng [Phạm Ngũ Lão]

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [167.84 KB, 11 trang ]

Tiết 37
Đọc văn:
TỎ LÒNG
- Phạm Ngũ Lão
Ngày soạn:
Ngày giảng:
A. MỤC TIÊU BÀI HỌC
Giúp học sinh:
1. Kiến thức:
- Vẻ đẹp con người thời Trần với tầm vóc, tư thế, lí tưởng cao cả, vẻ đẹp của thời
đại với khí thế hào hùng, tinh thần quyết chiến quyết thắng.
-Hình ảnh kì vĩ, ngôn ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm
2. Kỹ năng:
Kỹ năng đọc - hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại
3. Thái độ, tình cảm: Bồi đắp tình yêu văn học, tình yêu, trách nhiệm với đất nước,
ý thức tu dưỡng, phấn đấu của bản thân.
B. PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN
- Giáo án, TLTK, Tranh ảnh minh họa về vẻ đẹp con người, kháng chiến thời Trần, về
bài thơ, máy chiếu,..
C. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Ổn định tổ chức:
- Kiểm diện học sinh.
2. Kiểm tra bài cũ:
Câu hỏi: được thể hiện như thế nào trong văn học trung đại?
Đáp án:
- Là nội dung lớn và xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của văn học trung đại.
[1đ]
- Biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước
+ Gắn liền với tư tưởng trung quân ái quốc. [1đ]
+ Tinh thần quyết chiến, quyết thắng chống ngoại xâm, ý thức độc lập tự
do, tự cường, tự hào dân tộc. [1đ]


+ Xót xa bi tráng trước cảnh nhà tan, nước mất.[1đ]
+ Thái độ, trách nhiệm khi xây dựng đất nước trong thời bình.[1đ]
+ Biết ơn ca ngợi những con người hy sinh vì đất nước.[1đ]
+ Tình yêu thiên nhiên đất nước.[1đ]


+ Tự hào truyền thống.[1đ]
Học sinh nêu được hết các ý: 8 điểm
Trả lời được câu hỏi thêm: 1 điểm
Soạn bài và có tinh thần xung phong: 1 điểm
3. Bài mới:
Người ta kể lại rằng giặc Nguyên Mông kéo quân sang xâm lược nước ta. Thế của chúng
rất mạnh, vua Trần phái quan lại trong triều đình đi tìm người tài giỏi đánh giặc cứu
nước. Trên đường đi tới làng Phù Ủng, huyện Đường Hào nay là huyện Ân Thi, tỉnh
Hưng yên, quan quân nhà vua gặp một người thanh niên đan sọt giữa đường. Quân lính
quát, người yấy không nói gì cũng không chạy chỗ, khi quân lính đâm giáo vào đùi,
người ấy không hề kêu, không hề nhúc nhích. Mọi người biết đó là người có chí khí. Khi
đuợc hỏi tại sao không tránh và bị đâm không phản ứng gì người ấy thưa vìa đang mải
nghĩ cách đánh giặc Nguyên. Theo các em người đó là ai?
GV dẫn : người ấy chính là Phạm Ngũ Lão một trong những vị tướng lĩnh rất tài ba của
quân đội nhà Trần và hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu bài thơ Tỏ lòng của PNL để
hiểu hơn lí tưởng cao cả và khí phách anh hùng của tác giả - một vị tướng giỏi thời Trần.
Hoạt động của Giáo viên và Học sinh
Hoạt động 1: Tìm hiểu chung về tác giả,
bài thơ
[Phương pháp: Thảo luận chung cả lớp]
Thao tác1: Em hãy nêu những nét khái
quát nhất về tác giả PNL.
- 1,2 HS nêu tóm tắt. GV chốt lại nội dung
cơ bản



Thao tác 2: HD HS tìm hiểu những nét
khái quát nhất về bài thơ

Nội dung cần đạt

I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả.
Phạm Ngũ Lão [1255-1320]
- Người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào
nay là Ân Thi, Hưng Yên.
- Là môn khách sau là con rể của Hưng
Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.
- Có nhiều công lao trong cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên – Mông.
- Là người văn võ toàn tài.
- Tác phẩm còn lại hai bài thơ: Tỏ long và
Viếng thượng quốc công Hưng Đạo đại
vương.
2. Bài thơ


Thảo luận chung cả lớp
- GV: Nêu yêu cầu đọc và gọi học sinh
đọc diễn cảm bài thơ :
+ Đọc với giọng hùng tráng, chậm rãi,
theo cách ngắt nhịp 4/3.
+ Đọc cả bản phiên âm, dịch nghĩa và
dịch thơ.
- HS: Đọc diễn cảm.


- GV: Nhận xét cách đọc của học sinh.
- GV hướng dẫn học sinh tìm hiểu nhan đề
chữ Hán của bài thơ: Theo em hiểu “Thuật
hoài” ở đây có nghĩa là gì?
- HS: Trả lời.
- GV chốt lại:
+ Thuật: Bày tỏ ra.
+ Hoài: Nỗi lòng, tấm lòng.
 “Thuật hoài”: Bày tỏ nỗi lòng của
mình.
- GV HD HS tìm hiểu h/c sáng tác bài thơ

a. Hoàn cảnh sáng tác
PNL viết bài thơ này vào khoảng 1284 khi
cuộc k/c chông quân Nguyên – Mông lần 2
đến rất gần.

b.Thể thơ và bố cục:
- GV hướng dẫn học sinh tìm hiểu thể thơ
và bố cục của bài thơ:
- Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật
- GV: Bài thơ được viết theo thể loại gì?
chữ Hán.
- HS: Trả lời.
- GV nói thêm: Bản dịch của bài thơ này
cũng theo thể thơ ấy.
- Bố cục:
- GV: Em thử nêu bố cục của bài thơ?
+ Hai câu đầu: Vẻ đẹp hào hùng của
- HS: Trả lời.


con người thời Trần.
- GV khẳng định đây là cách phân chia
+ Hai câu sau: Vẻ đẹp tâm hồn, nhân
theo bố cục tiền giải – hậu giải.
cách, lí tưởng của tác giả.

* HOẠT ĐỘNG 2: Hướng dẫn học sinh
tìm hiểu văn bản bài thơ.

II. ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN:


[Phương pháp: Thảo luận chung cả lớp
cũng có thể chia nhóm thảo luận theo bố
1. Hình tượng con người thời Trần:
cục văn bản]
- Thao tác 1: Hướng dẫn học sinh tìm
hiểu Hình tượng con người thời Trần
- GV: Gọi học sinh đọc lại hai câu thơ đầu
cả phần phiên âm và dịch nghĩa, dịch thơ?
- HS: Đọc diễn cảm.
- GV Định hướng cho học sinh tìm hiểu
câu thơ thứ nhất.
- GV: Em hiểu như thế nào về nghĩa của từ
“Hoành sóc” trong câu thơ đầu tiên?
- HS: Phát biểu.
- GV: So với phần nguyên tác, người dịch
thơ đã dịch như thế nào về nghĩa của từ
“Hoành sóc”?
- HS: Phát biểu.


- GV: Chốt lại:
 Cách dịch thơ chưa hoàn toàn chuẩn
xác: “Hoành sóc” không phải là múa giáo
mà là cầm ngang ngọn giáo, cắp ngang
ngọn giáo.
- GV: Từ “Hoành sóc” này gợi cho ta
hình dung được hình ảnh của người tráng
sĩ với tư thế như thế nào?
- HS: Phát biểu.
- GV nói thêm: Tư thế này đã bị giảm đi
khi dịch sang thơ là “múa giáo”.
- GV: Còn từ “giang san” có nghĩa là gì?
Cụm từ này gợi cho người đọc hình dung
ra một không gian như thế nào?
- HS: Phát biểu.
- GV: Còn cụm từ “kháp kỉ thu” có nghĩa
là gì? Cụm từ này cho ta biết được điều gì?
- HS: Trả lời.

- “Hoành sóc giang san kháp kỉ thu”
[Múa giáo non sông trải mấy thu]
+ Hoành sóc: cầm ngang ngọn giáo
trấn giữ biên cương.

 vẽ lên tư thế hiên ngang,lẫm liệt của
người tráng sĩ.

+ Giang san: đất nước, non sông
 không gian rộng lớn, kì vĩ, có tầm vóc
vũ trụ.


+ Kháp kỉ thu: đã trải qua mấy mùa thu,
mấy năm rồi
 là thời gian chiến đấu bảo vệ đất nước,
bất chấp mọi hiểm nguy.

- GV: Như vậy, trong một không gian và
 Tư thế, tầm vóc hiên ngang – hào hùng
thời gian kì vĩ như thế, hình ảnh của người
và có hành động lớn lao, kì vĩ.
tráng sĩ hiện lên với tư thế và hành động
như thế nào?


- HS: Phát biểu.
- GV: Trình bày dụng cụ trực quan:
Hình ảnh người tráng sĩ thời Trần.
- HS: Xem tranh.
- GV nói thêm:
+ Không gian và thời gian ở đây rất rộng
lớn. Lồng vào không gian và thời gian này
là hình ảnh của một con người dũng mãnh
đang xông xáo, luôn ở tư thế sẵn sàng, bất
chấp mọi hiểm nguy gian nan để chiến đấu
bảo vệ non sông đất nước.
+ Đó chính là một tư thế hiên ngang,
hào hùng, mang tầm vóc của vũ trụ.
- GV chuyển ý:
+ Nhưng điều mà câu thơ muốn nói
không dừng lại ở đó. Câu thơ còn ẩn chứa
một niềm tự hào của tác giả về trọng trách


mà mình được đảm nhiệm; tự hào về tư thế
hiên ngang, lẫm liệt của những tướng lĩnh
và quân lính thời Trần.
+ Niềm tự hào đó còn được thể hiện ở
câu thơ thứ hai.
- GV: “Tam quân” ở đây có nghĩa là gì?
- HS: Trả lời.
- GV: Chốt lại:

- “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu.”
[Ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu]
+ Tam quân:
 nghĩa hẹp: ba đạo quân [tiền
quân, trung quân, hậu quân]
- GV: Theo em, hình ảnh này còn mang ý
 nghĩa rộng: chỉ toàn thể quân dân
nghĩa tượng trưng nào khác?
thời Trần.
- HS: Trả lời.
 tượng trưng cho sức mạnh của dân tộc.
+ Thủ pháp so sánh, ẩn dụ – “tì hổ”:
- GV: Sức mạnh này đã được tác giả cụ thể sức mạnh như hổ báo
hóa bằng biện pháp nghệ thuật gì?
- HS: Trả lời.
 làm nổi bật khí thế dũng mãnh, hào


- GV: Thủ pháp so sánh này có hiệu quả
gì?
- HS: Trả lời.


- GV: Khí thế đó còn được thể hiện như
thế nào? Qua thủ pháp nghệ thuật gì?
- HS: Trả lời.
- GV: Ngoài cách hiểu này ta còn có cách
hiểu nào khác?
- HS: Còn có cách hiểu – khí thế hùng
dũng nuốt trôi cả trâu.
- GV: Theo em, trong hai cách hiểu trên,
cách hiểu nào là hay hơn, có tính thẩm mĩ
hơn?
- HS: Cách hiểu thứ hai là hay hơn và có
tính thẩm mĩ hơn.
- GV nói thêm:
+ Hiểu như lời dịch thơ cũng không sai.
Ba quân có sức mạnh tựa như hổ báo, nuốt
trôi cả trâu. Song cách hiểu này không tạo
ra được tính thẩm mĩ của thơ.
+ Ở đây ta nên hiểu: Ba quân có sức
mạnh tựa như hổ báo, sức mạnh xung
thiên, bốc lên tận trời, làm mờ cả sao
Ngưu. Hiểu như thế vừa mạnh mẽ vừa giàu
yếu tố thẩm mĩ cho thơ.
- GV: Từ cách hiểu đó, em hãy nêu nhận
xét của mình về khí thế và sức mạnh của
quân đội nhà Trần?
- HS: Nhận xét.
- GV: Tiểu kết.
- GV khẳng định thêm:
Tóm lại, chính những con người với tư
thế hào hùng, hiên ngang, có tinh thần


quyết chiến, quyết thắng [mà câu thơ
đầu đã thể hiện] đã làm nổi bật được sức
mạnh vật chất và cả tinh thần của dân
tộc ta. Đó cũng chính là niềm tự hào của
cả dân tộc chúng ta.

hùng của quân đội nhà Trần.
+ Thủ pháp phóng đại – “khí thôn Ngưu”:
khí thế hùng dũng át cả sao Ngưu.

 khí thế, sức mạnh làm lay chuyển cả đất
trời.
 Câu thơ làm nổi bật được sức mạnh,
“Hào khí Đông A” của dân tộc và niềm tự
hào của tác giả.


- GV chuyển ý:
Nếu như ở hai câu thơ đầu, Phạm Ngũ
Lão bày tỏ niềm tự hào về hình ảnh hào
hùng của dân tộc, thì đến hai câu thơ cuối,
ông bày tỏ trực tiếp những điều trăn trở sâu
kín trong lòng mình.
- Thao tác 2: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu
nỗi lòng của tác giả.
- GV: Gọi học sinh đọc diễn cảm hai câu
thơ cuối?
- HS: Đọc diễn cảm.
- GV định hướng cho học sinh tìm hiểu
câu thơ thứ ba.


- GV: Em hiểu thế nào về hai cụm từ
“công danh nam tử” và “công danh trái”?
GD Kỹ năng giao tiếp: trình bày suy nghĩ, 2. Vẻ đẹp nhân cách của tác giả:
ý tưởng lí tưởng, chí hướng, khát vọng
lập công vì đất nước của bậc quân tử xưa
và của tác giả
- “Nam nhi vị liễu công danh trái”
- HS: Nêu lên cách hiểu của mình:
[Công danh nam tử còn vương nợ]
+ “công danh nam tử”: sự nghiệp và
+ “công danh trái”: món nợ công
công danh của kẻ làm trai.
danh, sự nghiệp của kẻ làm trai [công
+ “công danh trái”: món nợ công danh danh nam tử].
sự nghiệp.
"Công danh trái " Trái : Nghĩa là nợ ,
nhưng đồng thời là từ chữ Trách mà ra
-> Câu thơ còn thể hiện tinh thần gánh
vác trọng trách , ý thức trách nhiệm to
lớn của PNL với giang sơn xã tắc
 công danh và sự nghiệp được coi là món
nợ đời cần phải trả của kẻ làm trai
- GV: Chốt lại ý thứ hai.
+ Nam nhi vị liễu: chưa trả xong món nợ
- GV: Như vậy, theo em, ở đây Phạm Ngũ công danh của kẻ làm trai.
Lão có quan niệm như thế nào về hai chữ
“công danh”?
 khát vọng lập công, lập danh để giúp
- HS: Trả lời.
nước, giúp đời.


 Tác giả cho rằng mình chưa trả xong
món nợ công danh nên trăn trở và băn


- GV giải thích thêm:
khoăn.
+ Đây cũng là quan niệm của kẻ nam nhi
trong xã hội trung đại. Người ta quan niệm
rằng: Người đàn ông sinh ra là có món nợ
tang bồng [tang: dâu, bồng: cỏ bồng; tang
hồ bồng thỉ: cung bằng cành cây dâu, tên
bằng cỏ bồng].
Ngày xưa, hễ sinh ra con trai, người ta
dùng cung tên ấy bắn ra sáu phương, ngụ ý
là sau này đứa con trai đó sẽ tung hoành
giữa trời cao đất rộng, lập được công
danh.
+ Chỉ ai trả được món nợ ấy mới xứng
đáng là “nam tử”.
Ở đây, Phạm Ngũ Lão cũng đang bày tỏ
cái chí đó của mình.
- GV: Quan niệm này cũng được một nhà
thơ khác nhắc đến. Đó là nhà thơ nào? Hai
câu thơ đó là gì?
- HS: trả lời:
Đó là nhà thơ Nguyễn Công Trứ - trong
bài thơ “Chí nam nhi”:
“Làm trai đứng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông”
- GV: Theo em hiểu, cụm từ “nam nhi vị


liễu” ở đây cho ta biết điều gì?
- HS: Trả lời.
- GV: Cụm từ này cũng đã bày tỏ khát
vọng gì của Phạm Ngũ Lão?
- HS: Phát biểu.
- GV tiểu kết.
- GV giải thích thêm :
+ Như vậy, món nợ công danh hay là chí
làm trai theo quan niệm của Phạm Ngũ
Lão ở đây có tác dụng tích cực.
+ Nó thôi thúc, cổ vũ cho con người từ
bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ để sẵng sàng
hi sinh, chiến đấu cho sự nghiệp chung của
dân tộc.


- GV chuyển ý:
Từ suy nghĩ về cái nợ đó, trong tâm trạng
của Phạm Ngũ Lão nảy sinh một nỗi
“thẹn”.
- GV: Vũ Hầu ở đây là ai mà tác giả lại
cảm thấy thẹn khi nghe dân gian nhắc đến?
- HS: Trả lời theo chú thích của sách giáo
khoa.
- GV: Trình bày dụng cụ trực quan:
Hình ảnh của Khổng Minh.
- GV giải thớch thờm về Khổng Minh: [PN
Lão được TQ Tuấn tin dùng một lòng tận
trung báo quốc giống GCL được Lưu Hữu
Đức Mới ra giúp đời


- “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”
[Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu]
+ Vũ Hầu: Khổng Minh Gia Cát Lượng
+ Gia Cát Lượng là người tài năng xuất
chúng và trung thành.Ông đã lập những đời Hán, nổi tiếng tài đức, có công lớn
mưu kế tài giỏi để giúp cho Lưu Bị lập nên giúp Lưu Bị lập nên giang sơn.
nhà Thục, đánh bại tên tướng gian hùng là
Tào Tháo.
+ Một trong các mưu kế của Khổng
Minh còn lưu truyền lại cho đến ngày nay
là chuyện ông dùng “kế hỏa công”. Tức là
cho quân lính bắn từ xa những mũi tên có
tẩm dầu để đốt cháy những chiến thuyền
lớn của Tào Tháo, khiến cho Tào Tháo tổn
thất nặng nề mà phải lui quân.
+ Ngoài ra, ông cũng có những cách để
tập luyện cho quân lính bắn những mũi tên
đi rất xa.
- GV: Như vậy, khi so sánh mình với
Khổng Minh, tại sao Phạm Ngũ Lão cảm
thấy hổ thẹn?
- HS: Trả lời.

+ Nỗi thẹn :
 vì chưa có tài mưu lược lớn như Vũ
- GV: Nỗi thẹn này cho ta thấy được nhân
Hầu Gia Cát Lượng để cống hiến cho đất
cách gì của Phạm Ngũ Lão?
nước.
- HS: Phát biểu.


 mang nhân cách cao cả: có khát vọng
- GV: Như vậy, qua hai thơ này, Phạm
và có ý thức trách nhiệm đối với đất nước.
Ngũ lão bày tỏ khát vọng gì của mình?


- HS: Trả lời.
- GV khẳng định lại:
 Khát vọng phụng sự đất nước và lập
Đây cũng là cái chí, cái tâm của người công báo quốc.
anh hùng mà Phạm Ngũ Lão luôn luôn đeo
đuổi và quyết tâm thực hiện bằng được.
- GV: Tổng kết lại nội dung bốn câu thơ:
Như vậy ta thấy nếu như ở hai câu thơ
đầu, Phạm Ngũ Lão “tỏ lòng” một cách
gián tiếp về sự tự hào và tin tưởng của nình
vào sức mạnh của dân tộc, thì ở hai câu thơ
sau, ông “tỏ lòng” một cách trực tiếp về ý
thức phụng đất nước, ý thức trách nhiệm
trước tổ quốc và nỗi thẹn rất cao cả của
mình.
HOẠT ĐỘNG 3 : HD HS tổng kết bài học

- GV: Bài thơ có đặc điểm nổi bật gì về III. TỔNG KẾT:
mặt nghệ thuật?
1. Nghệ thuật:
- HS: Trả lời.
- Ngôn ngữ hàm súc, cô đọng;
- GV khẳng định thêm:
- Hình ảnh hoành tráng, giàu sức biểu


+ Bài thơ đạt tới độ súc tích cao: chỉ có 4 cảm, có tính sử thi.
câu, mỗi câu 7 chữ nhưng diễn tả rất đầy
đủ và ấn tượng về cái chí, cái tâm của một
người anh hùng.
+ Ngoài ra, bài thơ còn có những hình
ảnh mang đậm chất sử thi:
 Con người xuất hiện với tư thế kì vĩ;
 Không gian kì vĩ, bao la;
 Thời gian cũng kì vĩ, bao la;
- Thao tác 2:
- GV: Còn về mặt nội dung, bài thơ thể
hiện điều gì?
- HS: Dựa vào phần ghi nhớ của sách giáo
khoa để trả lời.
- Nghệ thuật diễn tả cảm xúc của tác giả
trong bài thơ có những đặc điểm gì? Vì sao

2. Nội dung:


nói bài thơ có vẻ đẹp của một tâm hồn
mang lý tưởng
- HS: Phát biểu tự do.
Giao tiếp, trình bày suy nghĩ/ý tưởng về lí
tưởng, chí hướng, khát vọng lập công vì
đất nước của bậc quân tử xưa, từ đó liên
hệ với bản thân để xác định con đường
lập thân, lập nghiệp của mỗi người.
3. Luyện tập
+ Học xong bài thơ này, em có ấn tượng gì về vẻ đẹp của con người thời Trần?


+ ?Tìm hiểu lí tưởng của người xưa qua bài "Tỏ lòng" và bài "Nợ nam nhi" của Nguyễn
Công Trứ? [thảo luận nhúm]
Tỏ lòng
Nợ nam nhi
Múa giáo non sông trải mấy
Tang bồng hổ thỉ nam nhi trái
thâu
Cái công danh là cái nợ nần
Ba quân khí mạnh nuốt trôi
Nặng nề thay đôi chữ quân thân
trâu
Đạo vi tử vi thần đâu có nhẹ
Công danh nam tử còn vơng
Cũng rắp điền viên vui thú vị
nợ
Trót đem thân thế hẹn tang bồng
Luống thẹn tai nghe chuyện
Xếp bút nghiên theo việc kiếm cung
Vũ Hầu
Hết hai chữ trung chinh báo quốc
Một mình để vì dân vì nớc
Túi kinh luân từ trớc để nghìn sau
Hơn nhau một tiếng công hầu.
Cả hai bài thơ đều nói về lí tưởng của kẻ làm trai.
- Ở bài thơ “Tỏ lòng”, Phạm Ngũ Lão thể hiện.
+ Chí nam nhi xông xáo tung hoành, đánh đông dẹp bắc góp phần bảo vệ đất nước.
+ Tự hào về sức mạnh và tin tưởng ở ba quân.
+ Khát vọng vơn lên hơn nữa để trả nợ cho đất nước.
+ Nghĩ mà hổ thẹn vì cha làm được như Vũ Hầu [Gia Cát Lượng].
- Ở bài thơ “Nợ nam nhi”, Nguyễn Công Trứ thể hiện:


+ Chí nam nhi tung hoành giữa trời cao đất rộng
+ Có trách nhiệm với vua và cha mẹ
+ Hoàn thành xứ mạng của đạo làm con, làm bề tôi.
+ Xếp bút nghiên theo việc kiếm cung thực hiện lí tưởng.
+ Trọn vẹn trung thành với Tổ quốc để được phong tước hầu.
Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Công Trứ đều là những người đạt được công danh, đáng hâm
mộ
4. Vận dụng
- Thế hệ trẻ học được điều gì về lí tưởng sống, ý thức trách nhiệm với cộng đồng, dân
tộc qua bài thơ này [Tại lớp]?
- Từ bài thơ Tỏ lòng hãy viết bài văn trình bày nhận thức của mình về vấn đề lí tưởng
của thanh niên hiện nay [về nhà].



Phân tích hai câu cuối bài Tỏ lòng

THPT Sóc Trăng Send an email

0 7 phút

Phân tích hai câu cuối bài Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lãođể thấy đượcnỗi thẹn của người anh hùng không hề bình thường chút nào mà đó là nỗi thẹn của một nhân cách lớn. Băn khoăn ấy không dành riêng cho bản thân mà toàn tâm toàn ý hướng về sự nghiệp lớn muôn trời, vì sự bình yên của sơn hà, xã tắc.

>>> Hướng dẫn Soạn bài Tỏ lòng ngắn gọn nhất

Bài viết gần đây

  • Thuyết minh về Nguyễn Trãi: Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi

  • Cảm nhận về đoạn trích Chí khí anh hùng

  • Phân tích bài Bạch Đằng giang phú [Phú sông Bạch Đằng] – Trương Hán Siêu

  • Phân tích bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí – Nguyễn Du

Nội dung

  • 1 Nội dung khái quát 2 câu thơ cuối bài thơ Tỏ lòng
  • 2 Bài văn phân tích hai câu cuối bài thơ Tỏ lòng của học sinh giỏi văn
  • 3 Văn mẫu 10 – Phân tích 2 câu thơ cuối bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

Nội dung khái quát 2 câu thơ cuối bài thơ Tỏ lòng

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Bạn đang xem: Phân tích hai câu cuối bài Tỏ lòng

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

[Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu]

– Chí “nam nhi”: “Công danh trái” Món nợ công danh. Công danh và sự nghiệp được coi là món nợ đời phải trả
của kẻ làm trai; nghĩa là phải lập công, lập danh, để lại sự nghiệp và tiếng thơm cho đời, cho dân cho nước.
Trong hoàn cảnh XH phong kiến, chí làm trai trở thành lí tưởng tích cực có tác dụng to lớn đối với con người
và xã hội.

– “Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”: Tác giả tự thấy hổ thẹn trước tấm gương tài – đức lớn lao của Khổng
Minh vì chưa trả được nợ công danh cho nước, cho đời. =>Đó là cái tâm chân thành và trong sáng của người
anh hùng. Đó là nỗi hổ thẹn đầy khiêm tốn và cao cả, giống như nỗi thẹn của Nguyễn Khuyến sau này trong
Thu Vịnh: Nhân hứng cũng vừa toan cất bút Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

——

Bài văn phân tích hai câu cuối bài thơ Tỏ lòng của học sinh giỏi văn

Phạm Ngũ Lão được biết đến là võ tướng có nhiều công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Bên cạnh đó ông còn rất ham đọc sách, làm thơ và được xem là người văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông hiện chỉ còn hai bài thơ là “Tỏ lòng” [Thuật hoài] và “Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương”. Đặc biệt, “Tỏ lòng” đã thể hiện vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng hiên ngang với lí tưởng và nhân cách lớn lao, đồng thời phản ánh hào khí của thời đại Đông A với sức mạnh và khí thế hào hùng.

Bài thơ “Tỏ lòng” [Thuật hoài] được làm bằng chữ Hán, sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.

Nếu như ở hai câu thơ đầu, tác giả trú trọng ca ngợi vẻ đẹp hào hùng của con người, quân đội thời Trần qua việc khắc họa hình tượng người anh hùng hiên ngang lẫm liệt thì ở hai câu thơ cuối như một lời bộc bạch của kẻ làm trai, công danh, sự nghiệp như một món nợ đời

Nam nhi vị liễu công danh trải,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

[Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hâu]

Là một thành viên ưu tú của quân đội hào hùng ấy, Phạm Ngũ Lão ý thức rất rõ về trách nhiệm của bản thân.

Xưa nay viết về chí làm trai, người đọc đã bắt gặp những vần thơ rất đỗi quen thuộc của Nguyễn Công Trứ: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông. Cũng đồng điệu tâm hồn với bao kẻ sĩ đương thời, Phạm Ngũ Lão vô cùng đề cao lí tưởng trung quân, ái quốc. Bởi vậy, ông cho rằng đã là nam nhi thì phải trả nợ công danh, mà nợ công danh ở đây chính là làm điều có công với đất nước: “Nam nhi vị liễu công danh trái”. Lí tưởng công danh ấy thể hiện cái nhìn tiến bộ và nhân cách cao đẹp của một vị tướng hết lòng muốn giúp nước, giúp đời. Nghĩ thấy bản thân chưa trả trọn nợ công danh, tác giả trăn trở, băn khoăn: “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”.

Vũ Hầu chính là Khổng Minh Gia Cát Lượng, một người tài đức vẹn toàn đời Hán, có công lớn giúp Lưu Bị khôi phục vương triều.Ông cảm thấy “thẹn” khi đối sánh mình với cha ông, tự thấy bản thân chưa thể sánh được với họ. Khát vọng mong muốn lập nhiều công danh hơn nữa được diễn tả hết sức khiêm nhường khi đặt bản thân mình bên cạnh mưu thần Gia Cát Lượng. Âm hưởng câu thơ trầm lắng thể hiện khát vọng lập công và chí làm
trai hết sức tiến bộ của Phạm Ngũ Lão.

Với hệ thống ngôn từ hàm súc, cô đọng cùng những hình ảnh giàu sức biểu cảm, “Tỏ lòng” đã khắc họa vẻ đẹp của con người thời nhà Trần có sức mạnh, lí tưởng, nhân cách cao cả, đồng thời phản ánh khí thế hào hùng của thời đại. Âm hưởng mạnh mẽ ấy để lại dư ba trong lòng người đọc, nhắc nhở thế hệ trẻ chúng ta sống không bao giờ quên đề ra lí tưởng sống cao cả để sống đẹp, sống có ích hơn.

Tham khảo thêm: Bài văn mẫuphân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

Văn mẫu 10 – Phân tích 2 câu thơ cuối bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

Nhận xét về Phạm Ngũ Lão, sách Đại việt sử ký toàn thư viết: “Ngũ Lão xuất thân trong hàng quân ngũ nhưng rất thích đọc sách, là người phóng khoáng, có chí lớn, thích ngâm thơ, tựa như không để ý đến việc võ binh. Nhưng quân ông chỉ huy, thực là đội quân phụ tử, hễ đánh là thắng”. Dường như trong những vần thơ của ông cũng mang theo lý tưởng, khát vọng được lập công danh với đời, điều đó đã được thể hiện thông qua tác phẩm “Tỏ lòng”.

Bài thơ Tỏ lòng khắc họa vẻ đẹp của con người có sức mạnh, có lí tưởng, khát vọng, nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng trong hào khí Đông A.

Chúng ta có thể thấy được hình ảnh trữ tình trong tư cách một trang nam nhi dày dạn trận mạc. Không có một từ ngữ nào có thể tả hết được chí khí hùng mạnh của quân đội nhà Trần. Tuy nhiên mạnh mẽ là vậy nhưng trong lòng quân tướng vẫn luôn canh cánh một nỗi niềm:

Nam nhi vị liễu công danh trải,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

[Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hâu]

Vào thời trung đại, trả nợ công danh là khát vọng, hoài bão, lẽ sống của hầu hết trang nam tử. Có hai con đường trả nợ công danh: dùi mài kinh sử để đỗ đạt làm quan hoặc xông pha trận mạc chiến đấu, lập công báo quốc. Điều này là do chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia. Với Phạm Ngũ Lão, ý thức được thời buổi loạn lạc, ông chọn cho mình con đường xông pha nơi chiến trường. Ông xem công danh là cái nợ mình còn vương. Chưa trả không có nghĩa là bất lực, bất tài không lập được chiến công mà chỉ là thời cơ chưa tới. Cái “nợ công danh” ấy, chỉ cần cơ hội đến, ông sẽ sẵn sàng chặt đứt. Thông qua ý thức trả nợ công danh hiện lên khát vọng cháy bỏng, mãnh liệt của đáng nam nhi một lòng muốn báo đền nợ nước.

“Vũ hầu” ở đây ý chỉ Khổng Minh Gia Cát Lượng, người giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán. Đây là con người tận trung đã cống hiến cả cuộc đời cho nhà Thục và là một biểu tượng về chí làm trai. Phạm Ngũ Lão xấu hổ khi nghe chuyện Vũ hầu vì trước hết, ông thấy mình chưa lập được công danh, chưa trả xong nợ cho quê hương, đất nước. Mặt khác, ông thấy “thẹn” khi đứng trước tấm gương sáng cả về nhân cách lẫn tài năng của Gia Cát Lượng. Cái “thẹn” ấy là sự kính trọng đối với Vũ hầu đồng thời cũng là khát vọng của trang nam tử muốn noi bước người xưa tận trung báo quốc, trả nợ công danh. Nếu chưa lập được công danh thì nói thẹn là điều dễ hiểu. Nhưng khi đã dốc hết lòng cho giang sơn gấm vóc mà vẫn nói thẹn thì phải thấy khát vọng của nhân vật trữ tình lớn đến độ nào. Hai câu thơ sau đã cho ta thấy được khát vọng, hoài bão của bậc anh hùng và nỗi “thẹn” của người quân tử. Cách hành xử đầy tinh thần nhân văn ta còn bắt gặp trong thơ Cao Bá Quát:

“Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”

[Cả đời chỉ biết cúi đầu bái lạy hoa mai].

Hay trong thơ Nguyễn Khuyến:

“Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”

hay:

“Ơn vua chưa chút đáp đền

Cúi trông thẹn đất, ngửa trông thẹn trời”

Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có trái tim vô cùng nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng khí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại. Thuật hoài đã vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão đến muôn đời sau.

Có thể bạn quan tâm: Cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

——–

Trên đây là bài văn mẫu phân tích hai câu thơ cuối trong bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão mà THPT Sóc Trăng đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích cho các em trong quá trình học bài và làm bài. Chúc các em học tốt môn văn mẫu 10

[Văn mẫu 10] Phân tích hai câu thơ cuối bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão để thấy được khát vọng, hoài bão của bậc anh hùng và nỗi thẹn của người quân tử

Đăng bởi: THPT Sóc Trăng

Chuyên mục: Giáo dục

Tags

Ngữ Văn lớp 10 Văn mẫu lớp 10

THPT Sóc Trăng Send an email

0 7 phút

“Nợ” công danh mà tác giả nói tới trong bài thơ có thể hiểu theo nghĩa nào

Phần tích bài thơ Thuật hoài

Quảng cáo

Xem thêm:

  • Soạn bài Tỏ lòng - Phạm Ngũ Lão siêu ngắn
  • Soạn bài Tỏ lòng [Thuật hoài] - Ngắn gọn nhất
  • Tỏ lòng - Phạm Ngũ Lão

Phạm Ngũ Lão [1255-1320] trước là môn khách, sau là con rể của Trần Hưng Đạo, quê làng Phù ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Ông là vị tướng đã lập nhiều chiến công trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên, trong việc mở mang biên giới phía Nam, được phong chức Điện súy, được phong tước Quan nội hầu. Ông là người văn võ toàn tài đã để lại một số thơ văn, trong đó có bài Thuật hoài viết bằng chữ Hán.

Mở đầu bài thơ ông vẽ ra một tư thế hiên ngang, kiêu dũng.

“Múa giáo non sông trải mấy thu”

Đây là câu thơ dịch từ câu thơ “Hoành sóc giang sơn khắp kỉ thu”. Hai chữ “múa giáo” không hay bằng “Cầm ngang ngọn giáo” bởi cầm ngang ngọn giáo là một tư thế hiên ngang, vững chãi như một bức tượng. Còn “múa giáo” gợi một động tác múa may rộn ràng. “Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông” gợi một hình ảnh khổng lồ của con người mang tầm cỡ vũ trụ, nổi lên trên giang sơn, sông núi và hình ảnh đó kéo dài mới mấy năm, chỉ một câu đã phác họa được bức tượng đài bất hủ về vị tướng anh hùng bảo vệ Tổ quốc. Vừa mấy thu ý nói thời gian chưa bao nhiêu.

“Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”.

Nguyên văn ‘‘Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Ba quân là hình ảnh chung chung cho quân đội, binh sĩ. Tì hổ là những loài thú dũng mãnh, đem ví với quân đội rất hợp. Mấy chữ “khí thôn ngu” lâu nay dịch chưa ổn. Có người dịch “hùng khí nuốt trôi trâu” thì cụ thể quá. Thực ra ở đây tác giả sử dụng thành ngữ “khí thôn Ngưu Đẩu” là chỉ khí thế chực nuốt cả sao Khiêu Ngưu và sao Bắc Đẩu, tức chỉ chung cái khí thế nuốt cả sao trời, bầu trời ở trên cao, chứ không riêng gì sao Ngưu. Chúng tôi nghĩ rằng chuyển thành “khí mạnh nuốt trôi trâu” thì thích hợp và thi vị hơn là “nuốt sao Ngưu” như bản dịch hiện hành.

Nếu hai câu trên nặng về miêu tả vị tướng và quân đội thì hai câu dưới là câu luận:

“Công danh nam tử còn vương nợ.

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu”.

Câu thơ nói lên ý thức nghĩa vụ phụng sự đất nước cao cả của tác giả. Công danh đây là công lao và danh vọng, xưa thường chỉ việc đỗ đạt, làm quan, lập công, tên tuổi được ghi vào bia đá bảng vàng. Nhưng chế độ khoa cử ở Trung Quốc mới có từ đời nhà Đường, đời nhà Hán tất nhiên chưa có. Do đó công danh đây thuần túy do công lao mà nổi tiếng. Ở đây Phạm Ngũ Lảo nói tới công danh gắn với danh tiếng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời Hán thì không dính dáng tới khoa cử đỗ đạt.

Chữ “nợ công danh” ở đây, nợ là dịch từ chữ “trái”, mà “trái” thì từ chữ “trách” mà ra, nghĩa là “người có trách nhiệm, trọng trách”. Người xưa cho rằng người đàn ông sinh ra là có nợ tang bồng, lập công báo quốc, chỉ ai trả được cái nợ ấy thì mới xứng với danh hiệu “nam tử” - tức đàn ông.

Gia Cát Lượng là người nổi tiếng, ai cũng biết qua lịch sử và Tam quốc diễn nghĩa. Ông là người tài năng xuất chúng và trung thành với nhà Thục Hán. Chính Gia Cát Lượng giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán. Và ông làm Thừa tướng. Khi sắp chết Lưu Bị đem nước giao phó cho Gia Cát Lượng, vì cảm cái ơn ấy mà ông sáu lần đem quân đánh Ngụy để báo đáp tiên chúa, cuối cùng ông chết trong khi chỉ huy đánh Ngụy. Trong bài Biểu ra quân [Xuất sư biểu] lần sau ông viết những lời cảm động chân thành: “Cúc cung tận tụy, chết thì mới thôi”. Và trận đó ông chết lúc 54 tuổi.

Rõ ràng là Phạm Ngũ Lão lấy Gia Cát Lượng làm mẫu mực công danh cho đời mình, và lấy làm thẹn khi chưa lập được công danh như Gia Cát Lượng. Câu thơ vừa khiêm tôn vừa hào hùng. Nếu ta biết Gia Cát Lượng đã trả nợ công danh cho đến hơi thở cuối cùng mà Phạm Ngũ Lão cầm ngang ngọn giáo “vừa mấy năm” [cấp kỉ thu], thì câu thơ còn có nghĩa là mong muốn được lập công báo quốc suốt đời như Gia Cát Lượng.

Còn một khía cạnh nữa khiến Phạm noi gương Gia Cát là trong bài Biểu nói trên, Gia Cát cho biết ông xuất thân áo vải, cày ruộng kiếm ăn cho qua thời loạn. Thế mà Lưu Bị không chê ông địa vị hèn mọn, ba lần đến lều tranh mời ra, tri ơn tri ngộ ấy lớn lắm. Phạm Ngũ Lão vốn là môn khách của Trần Hưng Đạo không phải xuất thân quý tộc, mà cũng được Trần Hưng Đạo coi trọng, cho là rể, đề bạt làm Điện súy được phong tước Quan nội hầu, thì ơn này cùng không nhỏ, cho nên nói “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu” cũng còn có nghĩa là nói mình chưa báo đáp được cái ơn của chủ tướng như Gia Cát Lượng.

Nếu xét bốn câu thơ trong tương quan thì ta thấy Phạm Ngũ Lão thấy thẹn là do ông làm tướng chưa lâu [“vừa mấy thu”], ba quân đều là quân tì hổ, có hùng khí, có chí lớn, không có gì đáng trách, vậy có thể ông thẹn vì chưa có tài lớn được như Gia Cát Lượng chăng?

Bài thơ tuy ngắn mà ý tứ cô đọng hàm súc, hình ảnh hoành tráng đậm màu sử thi, lí tưởng cao đẹp, có sức mạnh cổ vũ đối với các thế hệ thanh niên nước nhà. Bài thơ cũng tự khắc họa diện mạo tinh thần tướng sĩ đời Trần, những người chiến thắng quân Mông - Nguyên, bảo vệ trọn vẹn giang sơn Đại Việt.

Loigiaihay.com

  • Phân tích bài thơ Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão

  • Âm vang của hào khí Đông A qua hai tác phẩm Thuật hoài [Tỏ lòng] của Phạm Ngũ Lão và Bạch Đằng giang phú [bài Phú sông Bạch Đằng] của Trương Hán Siêu.

  • Đọc hiểu bài thơ Thuật hoài

  • Học bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, có bạn cho rằng: sự hổ thẹn của tác giả là thái quá, kiêu kì. Ngược lại, có bạn ca ngợi và cho rằng đó là biểu hiện một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước. Ý kiến của em về vấn đề này như thế nào?

  • Phân tích bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão để làm sáng tỏ hào khí đời Trần

Quảng cáo

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Ngữ Văn 10 - Xem ngay

Báo lỗi - Góp ý

Video liên quan

Chủ Đề