Khó khăn tâm lý trong học tập và trong giao tiếp của lứa tuổi thiếu niên

CÁC BIỂU HIỆN TÂM LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH Ở TUỔI THIẾU NIÊN

PGS.TS Võ Thị Minh Chí

Viện nghiên cứu sư phạm ĐHSP HN

A. ĐẶT VẤN ĐỀ:

1.Ý nghĩa của thông tin:

Viện nghiên cứu sư phạm của trường ĐHSP HN là một bộ phận nghiên cứu khoa học giáo dục, góp phần thực hiện công tác đào tạo các giáo viên tương lai nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường. Để các giáo sinh có cơ hội tác nghiệp, hành nghề thì việc hiểu tâm sinh lý học sinh và các đặc điểm hoạt động của chúng theo độ tuổi là điều rất quan trọng và cần thiết.

Tuổi thiếu niên, như đã biết, ứng với tuổi học sinh trung học cơ sở [THCS], học sinh từ lớp 6- 9 [theo hệ thống giáo dục ở Việt Nam]. Đây là lứa tuổi đã được chứng minh là rất thú vị song cũng gây nhiều khó khăn cho thầy cô trong nhà trường, bởi đặc điểm tâm sinh lý đặc trưng của lứa tuổi này.

2. Những biến đổi đặc điểm tâm sinh lý của trẻ thiếu niên, ảnh hưởng đến hoạt động học tập:

Nhà TLH Xô Viết A. N. Lêônchev cho rằng, động lực phát triển tâm lý của trẻ nói chung là sự thay đổi vị trí của chúng trong hệ thống các quan hệ xã hội. Ở một giai đoạn phát triển nhất định vị trí trước đó của trẻ trong môi trường của các quan hệ xã hội bắt đầu được chúng ý thức không còn tương thích với khả năng và chúng tìm mọi cách để thay đổi. Từ đây xuất hiện mâu thuẫn công khai giữa cách sống của trẻ với các khả năng vốn đã quyết định cách sống của chúng. Tương ứng với đó, hoạt động của trẻ cũng được cải tổ lại. Chính vì thế, việc chuyển sang giai đoạn phát triển tâm lý mới được hoàn thiện. Điều dẫn trên cho thấy, có sự thay đổi trong tâm lý của học sinh tuổi thiếu niên là thực tế đương nhiên:

Khi bước vào môi trường học đường THCS, điều đầu tiên mà trẻ nhận ra là sự thay đổi điều kiện đời sống của trường học: sự xuất hiện của nhiều thầy cô giáo,chương trình, tài liệu, hình thức học tập trên lớp phức tạp hơn; kinh nghiệm thực tế ngoài nhà trường, sự giao tiếp với bạn bè cùng trang lứa được mở rộng hơn. Đây chính là điều kiện làm nảy sinh khát vọng phải chiếm lĩnh một vị trí mới trong quan hệ với người lớn, có tính độc lập và hành động tự chủ cao, xây dựng quan hệ theo cách mới với bạn bè cùng lứa.

Cũng như mọi giai đoạn phát triển lứa tuổi khác, tuổi thiếu niên có những thế mạnh riêng của mình. Những thế mạnh đó là: luôn sẵn sàng một cách có lựa chọn với mọi khía cạnh liên quan đến việc học tập, nếu như những việc đó thể hiện được tính người lớn theo suy nghĩ của chúng; khả năng tri giác tăng, tính nhậy cảm cao với mọi khía cạnh của việc học. Trẻ tuổi này rất hay bị thu hút vào các hình thức hoạt động tự quản trong giờ học, vào các tài liệu học tập phức tạp và có khả năng tự thiết kế hoạt động nhận thức vượt ra khỏi khuôn khổ của nhà trường. Tuy nhiên, cái khó của trẻ ở lứa tuổi này là tâm thế, sự sẵn sàng của chúng không dễ được hiện thực hoá do chưa làm chủ được các phương pháp thực hiện và hình thức mới của hoạt động học tập.

Khó khăn càng trở nên sâu sắc hơn khi những đặc điểm nêu trên của trẻ mang tính chất không ổn định xuất hiện trong quá trình hình thành và trưởng thành, vì yêu cầu trẻ lứa tuổi này đưa ra bao giờ cũng vượt lên trước so với kinh nghiệm sống và khả năng thực thi một cách độc lập của chúng. Nói cách khác, trẻ - thiếu niên thường có khát vọng xây dựng hình ảnh cuộc sống của mình không chỉ ứng với khả năng của bản thân, mà còn vượt quá các khả năng đó. Điều này đòi hỏi phải có các các phương pháp khác nhau cả trong giáo dục[ theo nghĩa hẹp], lẫn trong dạy học cho học sinh từ các lớp đầu đến cuối cấp THCS.

B.CÁC BIỂU HIỆN TÂM LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA TRẺ THIẾU NIÊN:

Hứng thú học tập, sự quan tâm đến các vấn đề nhà trường của học sinh tuổi thiếu niên có phần bị giảm sút. Điều này thực sự gây nên sự lo lắng cho thầy cô giáo và cha mẹ học sinh THCS.Theo A. K. Makarôva, sự giảm sút hứng thú học tập diễn ra mạnh nhất ở học sinh các lớp đầu bậc học. Nguyên nhân và các yếu tố gây ảnh hưởng đến hiện tượng này là:

+ Về mặt lý luận, theo thuật ngữ của A. N. Lêônchev, đây là sự chối bỏ nội tâm với trường học: trường học không còn là trung tâm đời sống tinh thần đối với trẻ lứa tuổi này; những động cơ vốn trước đây đã kích thích học sinh học tập ở bậc tiểu học, chẳng hạn như thích đến trường, phấn khích khi được điểm cao..., đến lúc này đã được thoả mãn; còn những động cơ mới, đáp ứng với điều kiện học tập ở trường THCS và đặc điểm lứa tuổi thiếu niên lại chưa được hình thành

+ Trẻ thiếu niên luôn có xu hướng với các hoạt động tích cực để minh chứng cho tính người lớn của mình và để nhận được những tình cảm tôn trọng từ phía mọi người xung quanh. Nhưng đáng tiếc, những dạng hoạt động này lại ít diễn ra trong trường học và các phương thức thực thi chúng thì trẻ lại không được học. Trẻ phải tìm kiếm cơ hội khẳng định bản thân ở các dạng hoạt động diễn ra ngoài nhà trường và vì thế, các hoạt động này thu hút trẻ hơn, so với các giờ học trên lớp.

Quan hệ của trẻ với việc học không diễn ra trực tiếp mà được khúc xạ thông qua các mối quan hệ phức tạp của trẻ với người lớn [trong đó có thầy cô giáo] và với bạn bè của chúng.

Khát vọng được khẳng định tính tự lập và tính được làm người lớn của trẻ sẽ không được thoả mãn, thậm chí còn gây hậu quả âm tính nếu như giáo viên THCS sử dụng các phương pháp dạy và giao tiếp truyền thống. Trẻ thíêu niên không thoả mãn với vai trò của một thính giả thụ động trên lớp, các em cũng không hứng thú với việc ghi chép những gì giáo viên đọc cho hay chép lại các bài giải mẫu ở trên bảng. Trẻ lứa tuổi này thích chờ đợi vào các hoạt động làm quen với tài liệu mới, mang tính chất hoạt động của tư duy, mang tính độc lập, mà chỉ khi đó chúng có cơ hội thể hiện sự tích cực của mình

Học sinh THCS có quan điểm của mình với bài làm, hoạt động đã thực hiện và có thể phát biểu điều này trên lớp. Các em rất thích khi được sự tán đồng của thầy cô về khả năng trí tuệ và rất thích các hình thức thi đua trong học tập, thích so sánh kết quả làm bài giữa học sinh với nhau. Học sinh THCS không chỉ bị thu hút vào các hình thức hoạt động học tập mới, tạo ra cơ hội cho chúng biểu hiện tính tích cực, mà cả việc học các tri thức mới. Chúng dễ tự ái hoặc phật ý khi phải trả lời các câu hỏi quá đơn giản, các bài tập quá dễ, ngược lại, trẻ thích các kiến thức đòi hỏi phải suy nghĩ, phải khái quát.

Cách dạy và phong thái giao tiếp của người lớn, của thầy cô giáo dạy môn học là sức hút mạnh, gây tình cảm, hứng thú, thích học với mông học của học sinh.

Học sinh THCS thích thâu tóm các sự kiện thực tế bằng suy nghĩ:

Điều này đã được tác giả A. K. Makarôva đề cập đến trong các nghiên cứu của Bà về học sinh THCS. Đây có thể sẽ là một yêu cầu đặt ra, trước hết đối với các tài liệu mà học sinh có quan hệ trực tiếp trong quá trình học tập. Thực tế đã chứng minh cho thấy, càng nhiều thông tin phải ghi nhớ và gìn giữ trong trí nhớ, thì càng cần nhiều đến thao tác khái quát hoá để thâu tóm các hiện tượng cụ thể vào suy luận. Các nghiên cứu mang tính khái quát, ngắn gọn là một hình thức dễ làm tiêu tan sự mệt mỏi. Còn V.A. Xukhômlixnki khi nói về bản chất của việc học trên lớp của học sinh THCS thì cho rằng: kích thích gây hứng thú cho tất cả mọi học sinh, tất nhiên, đấy là những hình ảnh trực quan rực rỡ, nhưng với học sinh THCS, cái chính lại không phải điều đó... Chúng ta phải thức tỉnh vùng cảm xúc bằng mối tương quan của cái cụ thể với cái trừu tượng. Cảm xúc ngạc nhiên được xuất hiện bởi trong các đồ vật cụ thể ẩn chứa nguồn gốc sự thật thế giới quan. Cái trở nên hứng thú với việc học ở thiếu niên không phải là những gì đặc biệt, những gì mang tính trợ giúp, mà là chính tài liệu học tập.

Tài liệu học tập chủ yếu của học sinh THCS là sách giáo khoa. Những gì mà V.A. Xukhômlixnki đã biểu đạt cũng chính là định hướng cho việc biên soạn sách giáo khoa cho học sinh trung học nói chung, học sinh THCS nói riêng. Sự diễn tả các tài liệu học tập theo hướng trên là cách tìm ra tiếng nói chung, sự tương thích giữa nội dung tài liệu và đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh THCS.

Quan hệ của trẻ thiếu niên đối với tài liệu học tập mang tính nghiên cứu; nghĩa là, các em có khuynh hướng đưa ra các câu hỏi về nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng, đưa chúng vào thảo luận một cách sống động theo các quan điểm khác nhau. Trong giờ học trên lớp, các em yêu thích các hình thức hoạt động như: tự nghiên cứu đưa ra các kết luận và các khái quát hoá, chọn các sự kiện hoặc các đoạn văn tương thích với vấn đề, các giờ tự học thực hành hoặc trong phòng thí nghiệm [với các dụng cụ, máy móc, mô hình].

Sự tự tiếp nhận kiến thức ở ngoài nhà trường [đọc các tài lệu tham khảo, tìm kiếm các nguồn thông tin khác nhau]. Đây là nhu cầu lớn, tự thân vận động của trẻ thiếu niên, xuất phát từ đặc điểm tâm lý muốn trở thành và được xã hội công nhận được làm người lớn, trong khi các kiến thức học được trong nhà trường không cho phép các em thỏa mãn nhu cầu này.

Sẽ là yếu tố thuận lợi, thúc đẩy sự ham học của học sinh, nếu các thầy cô giáo nhanh chóng định hướng cho học sinh cách lựa chọn tài liệu có ích để tham khảo, hình thành cách tự học, hướng vào việc học đang diễn ra trong nhà trường. Khó khăn cho giáo viên khi làm công việc mang tính đạo đức nghề nghiệp này là học sinh THCS, đặc biệt ở đầu cấp, luôn có xu hướng tự lập, trong khi chưa biết cách tổ chức hoạt động trí tuệ của mình, chưa làm chủ được các thủ pháp làm việc với tài liệu, ghi nhớ và tập trung chú ý vào tài liệu.

Các điều kiện thuận lợi và khó khăn để hình thành việc tự điều khiển hoạt động học tập [hay việc tự học ở học sinh THCS] xuất hiện:

+ Trẻ đầu bậc THCS đã biết tập trung chú ý có chủ định đến từng khía cạnh khác nhau của tài liệu, bao gồm cả những khía cạnh đã được trừu tượng hoá. Biết tập trung chú ý có chủ định là một thế mạnh trong phát triển tâm lý của học sinh THCS: các em hoàn toàn có thể tập trung chú ý trong suốt cả thời gian một tiết học, biết phân phối chú ý cho các dạng hoạt động học tập khác nhau, đôi khi còn biết đẩy nhanh tốc độ bài học. Một số học sinh ở lứa tuổi này đã có thói quen làm việc tập trung, mà theo đánh giá của các nhà tâm lý, điều này có nghĩa đã chuyển từ chú ý có mục đích, có chủ định thành chú ý sau chủ định. Đấy là minh chứng về khả năng làm việc cao của thiếu niên.

+ Việc lĩnh hội các phương thức ghi nhớ ngày càng tăng theo tuổi. Các nghiên cứu của Tâm lý học cho thấy, trí nhớ của học sinh THCS phát triển theo một số hướng. Ở đầu bậc học, các phương pháp ghi nhớ có chủ định được tích luỹ, tuy nhiên, khối lượng không lớn: ghi nhớ, trong nhiều trường hợp vẫn diễn ra một cách tự nhiên, không cần phải sự dụng đến các thủ pháp nào, nghĩa là, nhớ trực tiếp. Ở các lớp cao hơn trong trường THCS, các thủ pháp ghi nhớ ngày càng trở nên được ý thức, đa dạng, linh hoạt, phụ thuộc vào đặc điểm của tài liệu học.Học sinh các lớp lớn trong nhà trường THCS có xu hướng ý thức các hành động học tập của mình hơn, hiểu trật tự của việc học, dẫn đến kế hoạch hoá và cuối cùng là điều khiển được việc học của bản thân.

+ Tuy nhiên, người giáo viên cũng gặp phải khó khăn khi trẻ tự tổ chức việc học cho bản thân: trẻ không phải lúc nào cũng ý thức được các thủ pháp ghi nhớ mà chúng đã sử dụng; chú ý của chúng đôi lúc vẫn không ổn định, không chủ định, phụ thuộc vào sự hứng thú, vào cái mới của tài liệu. Khi phân tích và đánh giá công việc của mình, học sinh THCS thường sử dụng tự kiểm soát theo kết quả [hoặc theo mẫu]. Ở chúng, nếu không được dậy dỗ một cách có chủ định thì hiếm khi quan sát thấy trẻ biết kiểm tra tiến trình công việc, đánh giá các bước trung gian từ góc độ kết quả phải đạt được. Trẻ - thiếu niên, đặc biệt gặp khó khăn khi phải tự kiểm tra tiến độ công việc sẽ diễn ra. Chúng không phải lúc nào cũng biết lập kế hoạch chung: xác định được các giai đoạn, dự báo được các khó khăn có thể xảy ra. Mặc dù học sinh tuổi thiếu niên cũng hay đề ra các kế hoạch, song những kế hoạch này lại không chỉ đạo được hành động, mà chỉ là các cơn bột phát của chúng.

Như vậy, tính tích cực hoạt động ở nhiều lĩnh vực của học sinh THCS, sự sẵn sàng tham gia vào các vào các dạng hoạt động khác nhau, khát vọng với các hình thức mang tính người lớn vào việc học, đã làm cho thái độ của chúng với học tập, với nhà trường có những nét đặc thù. Song, trong thực tế, những đặc điểm tâm lý lứa tuổi của các em rất khó được khai thácmột cách triệt để do sự phát triển tâm lý lứa tuổi của học sinh mang tính cá thể cao. Do vậy, rất cần sự quan tâm sát sao của các bậc phụ huynh cũng như của giáo viên trong việc hướng dẫn, tổ chức hình thành cho học sinh cách học tập đạt kết quả.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. A. N. Lêônchev: Hoạt động Ý thức Nhân cách. NXB Giáo dục. H, 1989Các vấn đề phát triển tâm lý. NXB MGU, 1972 [ Tiếng Nga]

2. A. N. Lêônchev: Các vấn đề phát triển tâm lý. NXB MGU, 1972 [Tiếng Nga]

3. V.A. Xukhômlixnki: Sự ra đời của một công dân. NXB Đội cận vệ trẻ. M,1971.

4. N. K. Makarôva: Về việc học của trẻ thiếu niên. NXB NX ENAX. M, 2006 [Tiếng Nga].

Publish: 6/24/2015 - Views: 9862 - Lastest update: 6/24/2015 8:13:57 AM

Video liên quan

Chủ Đề