Chính phủ đã ban hành Nghị định số 93/2018/NĐ-CP quy định về quản lý nợ của chính quyền địa phương.
Nghị định này quy định về quản lý nợ của chính quyền địa phương, bao gồm nguyên tắc quản lý, hình thức và điều kiện vay của chính quyền địa phương; lập kế hoạch vay, trả nợ 05 năm; chương trình quản lý nợ 03 năm; kế hoạch vay, trả nợ hằng năm; thực hiện vay, trả nợ; kế toán, kiểm toán, báo cáo và công bố thông tin nợ.
Chính quyền địa phương không được trực tiếp vay nước ngoài
Đây là một trong những nguyên tắc quản lý nợ của chính quyền địa phương. Theo đó:
Chính quyền địa phương cấp tỉnh được phép vay để bù đắp bội chi ngân sách cấp tỉnh và vay để trả nợ gốc các khoản vay của chính quyền địa phương.
Việc vay của chính quyền địa phương cấp tỉnh phải bảo đảm theo quy định của Luật ngân sách nhà nước, Luật Quản lý nợ công và các nguyên tắc sau:
a] Kế hoạch vay 05 năm, chương trình quản lý nợ 03 năm và kế hoạch vay hàng năm tối đa trong phạm vi trần do cấp có thẩm quyền thông báo [nếu có] và trong hạn mức dư nợ vay theo quy định tại khoản 6 Điều 7 của Luật Ngân sách nhà nước và Điều 4 Nghị định số 163/2016/NĐ-CP ngày 21 tháng 12 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật ngân sách nhà nước [sau đây gọi là Nghị định số 163/2016/NĐ-CP của Chính phủ] và các Nghị định của Chính phủ quy định về cơ chế, chính sách tài chính – ngân sách đặc thù đối với một số địa phương theo quy định tại Điều 74 Luật Ngân sách nhà nước;
b] Thực hiện vay hằng năm tối đa trong phạm vi tổng mức vay đã được Quốc hội quyết định, Thủ tướng Chính phủ giao cho từng địa phương;
c] Vay bù đắp bội chi của ngân sách địa phương chỉ được sử dụng cho đầu tư phát triển để thực hiện chương trình, dự án trong kế hoạch đầu tư công trung hạn đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định;
d] Các khoản vay chỉ thực hiện và hạch toán bằng Đồng Việt Nam, trừ các khoản vay lại từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức [ODA], vay ưu đãi ngoài nước của Chính phủ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 3 Nghị định này;
đ] Chính quyền địa phương không được trực tiếp vay nước ngoài.
Chính quyền địa phương không được bảo lãnh cho các tổ chức, cá nhân để vay vốn hoặc phát hành trái phiếu trong và ngoài nước.
hải ưu tiên bố trí ngân sách địa phương hoặc các nguồn vốn hợp pháp khác theo quy định của pháp luật để trả nợ đầy đủ, đúng hạn theo quy định tại Điều 11 va Điều 12 Nghị định này.
Nợ chính quyền địa phương phải được hạch toán, kế toán, bảo đảm chính xác, tính đúng, tính đủ, công khai, minh bạch trong quản lý nợ và gắn với trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân liên quan trong việc quản lý nợ chính quyền địa phương.
Hình thức và điều kiện vay của chính quyền địa phương
Hình thức vay của chính quyền địa phương: a] Phát hành trái phiếu chính quyền địa phương tại thị trường vốn trong nước theo quy định của Nghị định này; b] Vay lại từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức [ODA], vay ưu đãi ngoài nước của Chính phủ theo quy định tại Chương V Luật Quản lý nợ công, Nghị định của Chính phủ quy định về cho vay lại vốn ODA, vay ưu đãi nước ngoài và Nghị định này; c] Vay trực tiếp từ các tổ chức tài chính, tổ chức tín dụng trong nước; vay ngân quỹ nhà nước; vay từ quỹ dự trữ tài chính theo quy định tại Nghị định này. Điều kiện vay của chính quyền địa phương thực hiện theo quy định tại Điều 52 Luật Quản lý nợ công và Nghị định số 163/2016/NĐ-CP của Chính phủ.Tổ chức vay theo hình thức phát hành trái phiếu chính quyền địa phương
1. Căn cứ dự toán ngân sách, kế hoạch vay, trả nợ hàng năm, chủ trương phát hành trái phiếu chính quyền địa phương được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê duyệt và kế hoạch vay của chính quyền địa phương quy định tại Điều 7 Nghị định này, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoàn thiện Đề án phát hành trái phiếu chính quyền địa phương gửi Bộ Tài chính xem xét, cho ý kiến về điều kiện, điều khoản theo quy định tại Điều 53 Luật Quản lý nợ công. Đề án phát hành trái phiếu Chính quyền địa phương bao gồm các nội dung sau: a] Chủ thể phát hành trái phiếu là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; b] Mục đích phát hành trái phiếu chính quyền địa phương theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và Luật Quản lý nợ công; c] Dự kiến điều kiện, điều khoản của trái phiếu chính quyền địa phương bao gồm: – Khối lượng phát hành; – Kỳ hạn trái phiếu phát hành đảm bảo từ 01 năm trở lên; – Mệnh giá trái phiếu là một trăm nghìn [100.000] đồng hoặc bội số của một trăm nghìn [100.000] đồng; – Đồng tiền phát hành là đồng Việt Nam; d] Dự kiến thời gian và phương thức phát hành trái phiếu chính quyền địa phương; đ] Tình hình vay và trả nợ gốc, lãi vốn vay từ tất cả các nguồn của ngân sách cấp tỉnh trong 03 năm ngân sách liền kề trước năm dự kiến phát hành trái phiếu chính quyền địa phương; e] Hạn mức vay nợ trong năm của ngân sách địa phương, tình hình trả nợ gốc, lãi các khoản vay vốn trong năm, dư nợ vay vốn tại thời điểm xây dựng Đề án và dự kiến dư nợ vay sau khi vay nợ bằng hình thức phát hành trái phiếu; g] Phương án bố trí nguồn thanh toán gốc, lãi trái phiếu khi đến hạn; h] Dự kiến các thông tin cung cấp cho nhà đầu tư trước đợt phát hành trái phiếu; i] Cam kết của tổ chức phát hành đối với chủ sở hữu trái phiếu; k] Trường hợp phát hành trái phiếu chính quyền địa phương xanh phải tuân thủ các quy định như đối với phát hành trái phiếu chính quyền địa phương thông thường và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải báo cáo danh mục dự án sử dụng nguồn vốn phát hành trái phiếu chính quyền địa phương xanh theo hướng dẫn của Bộ Tài chính. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2018.
Các khoản vay đã được ký kết trước ngày Nghị định này có hiệu lực được thực hiện theo quy định của pháp luật tại thời điểm khoản vay được ký kết.
06[100]/2016
Mục lục
- 0.Dẫn nhập
- 1.Những ưu điểm của Luật Ngân sách nhà nước năm 2015
- 2.Một số hạn chế và kiến nghị đối với nội dung Luật Ngân sách nhà nước năm 2015
- 3.Tài liệu tham khảo
LUẬT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2015: NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ
THS PHAN PHƯƠNG NAM*06[100]/2016 - 2016, Trang 18-22
Ngày đăng:
- Trích dẫn
-
Share
- Zalo
-
TÓM TẮT
Trong phạm vi bài viết, chúng tôi chủ yếu tập trung vào việc phân tích những nội dung còn chưa rõ, mâu thuẫn và hạn chế của Luật Ngân sách nhà nước [NSNN] năm 2015 để từ đó chỉ ra những vấn đề mà các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm cần lưu ý làm rõ. Bởi lẽ những ưu điểm của quy định trong Luật NSNN năm 2015 sẽ không được phát huy nếu những điểm bất cập được phân tích trong bài chưa được hướng dẫn và giải quyết một cách thấu đáo.
ABSTRACT:
In this article, we focus on analyzing the limitations and ambiguities of the 2015 Law on State Budget. Therefore, we point out the elements that competent authorities should clarify while elaborating normative legal documents. As long as the limitations of the 2015 Law on State Budget are not rectified, the strong points of this law cannot have any positive impact in the real life.
TỪ KHÓA: phân cấp quản lý ngân sách nhà nước, bội chi ngân sách nhà nước, bội chi ngân sách trung ương, Ngân sách nhà nước, bội chi ngân sách địa phương,
KEYWORDS: local budget deficit, state budget deficit, The central budget deficit, decentralization of management of the state budget, State budget,
Trích dẫn:
×
THS PHAN PHƯƠNG NAM*, LUẬT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2015: NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ, Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, 06[100]/2016, Trang 18-22
//tapchikhplvn.hcmulaw.edu.vn/module/xemchitietbaibao?oid=82a75d11-a392-4721-81f0-d0472f37f779
Đăng ký để tải miễn phí Đăng ký
Bài viết đã được lưu vài tài khoản.
×
Vui lòng vào mục "Quản lý tài khoản" -> "Bài viết đã lưu" để có xem tiếp ngay lần đăng nhập sau.
Bài viết được chúng tôi phân tích và trình bày nhằm làm sáng tỏ những điểm tích cực và hạn chế trong các quy định của Luật NSNN năm 2015. Trong đó, ưu điểm của Luật NSNN năm 2015 đã được giới thiệu ở nhiều tài liệu nên không được trình bày nhiều ở bài viết. Bài viết tập trung vào việc chỉ ra những bất cập nhất định trong luật mới nhằm có giải pháp khắc phục để phát huy hết những điểm tích cực của luật mới.
1.Những ưu điểm của Luật Ngân sách nhà nước năm 2015
Có thể kể ra một số ưu điểm sau của Luật NSNN năm 2015:
- Một là, Luật NSNN năm 2015 đã có một điều khoản để giải thích các khái niệm được ghi nhận trong Luật. Đây là bước tiến bộ trong kỹ thuật lập quy của Luật NSNN năm 2015 và phù hợp với một văn bản quy phạm có quá nhiều thuật ngữ cần hiểu thống nhất như Luật NSNN năm 2015.
- Hai là, Luật NSNN năm 2015 đã có những thay đổi nhất định khi quy định về hoạt động tài chính của một số đô thị đặc biệt. Nếu như Luật NSNN năm 2002 đã “đánh đồng” TP. Hồ Chí Minh, TP. Hà Nội với các tỉnh khác mà không cân nhắc đến tính đặc thù của các đô thị lớn thì Luật NSNN năm 2015 đã có những quy định riêng cho các đô thị lớn này như: cho phép Chính phủ quy định về quản lý, sử dụng ngân sách đối với … một số cơ chế, chính sách tài chính - ngân sách đặc thù đối với thành phố Hồ Chí Minh, một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; hoặc qui định mức dư nợ vay của thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cao hơn so với các địa phương còn lại.
- Ba là, Luật NSNN năm 2015 đã có chuyển biến lớn về việc thừa nhận bội chi ngân sách địa phương [NSĐP] để từ đó thay đổi về cách quản lý hoạt động vay nợ và tiến tới công khai hóa, minh bạch hóa các khoản nợ, cách thức vay nợ của địa phương nhằm quản lý tốt về tài chính công.
- Bốn là, Luật NSNN năm 2015 đã có những quy định về kế hoạch tài chính – ngân sách nhà nước 5 năm và kế hoạch ngân sách nhà nước 3 năm để các cơ quan quản lý ngân sách nhà nước có tầm nhìn chiến lược trong trung hạn về tài chính công nhằm đảm bảo việc xây dựng kế hoạch tài chính – ngân sách nhà nước [NSNN] hợp lý hơn.
- Năm là, Luật NSNN năm 2015 đã có sự thay đổi nhằm đảm bảo quá trình xây dựng và thông qua dự toán NSNN được hợp lý và hiệu quả hơn khi chia thành hai giai đoạn.
- Sáu là, Luật NSNN năm 2015 đã làm rõ mối quan hệ giữa ngân sách các cấp; đẩy mạnh phân cấp cho địa phương để chủ động thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn và thực hiện các chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, đi đôi với với việc tăng cường hướng dẫn, kiểm tra, giám sát thực hiện của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực NSNN.
2. Một số hạn chế và kiến nghị đối với nội dung Luật Ngân sách nhà nước năm 2015
Bên cạnh những ưu điểm, theo chúng tôi, Luật NSNN năm 2015 cũng còn một số điểm cần phải được làm rõ:
- Thứ nhất, về quy định ngân sách địa phương được bội chi: Quy định này của Luật NSNN năm 2015 mang tính đột phá khi thừa nhận có bội chi ở NSĐP. Tuy nhiên, việc quy định về mức dư nợ tối đa vốn vay của Luật NSNN năm 2015 vẫn còn điểm bất cập.
Luật NSNN năm 2015 chỉ cho phép TP. Hồ Chí Minh và TP. Hà Nội mới có “mức dư nợ vay không vượt quá 60% số thu ngân sách địa phương được hưởng theo phân cấp”.
- Thứ hai, về quy định về điều kiện chi NSNN tại khoản 2 Điều 12 của Luật NSNN năm 2015
- Thứ ba, về quy định về các nguyên tắc phân cấp quản lý nguồn thu, nhiệm vụ chi và quan hệ giữa các cấp ngân sách tại Điều 9 của Luật NSNN năm 2015: Việc xác định các nguyên tắc nhằm đảm bảo tính nhất quán để chi phối xuyên suốt trong quá trình phân cấp quản lý NSNN là một điểm nổi bật của Luật NSNN năm 2015. Tuy nhiên, vẫn còn một nội dung trong nguyên tắc phân cấp quản lý là chưa hợp lý và cần phải được quy định rõ.
Theo đó, quy định về trường hợp có phát sinh nguồn thu mới làm ngân sách địa phương tăng thu lớn thì số tăng thu phải nộp về ngân sách cấp trên
- Thứ tư, về các quy định về “kế hoạch tài chính 05 năm”, “kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm”: Đây cũng là một quy định mới và mang tính đột phá của Luật NSNN năm 2015. Theo đó, các kế hoạch này mang tính chiến lược trung hạn nhằm xác định những nội dung tài chính cơ bản trong 3 và 5 năm của cả NSTƯ và NSĐP. Tuy nhiên, những quy định này chưa phát huy hiệu quả của nó khi có một số điểm hạn chế sau:
Một là, kế hoạch tài chính 05 năm có cần được quyết định không? Với cách định nghĩa tại khoản 1 Điều 17 Luật NSNN năm 2015 thì: “Kế hoạch tài chính 05 năm là kế hoạch tài chính được lập trong thời hạn 05 năm cùng với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm. Kế hoạch tài chính 05 năm xác định mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể về tài chính - ngân sách nhà nước; các định hướng lớn về tài chính, ngân sách nhà nước; số thu và cơ cấu thu nội địa, thu dầu thô, thu cân đối từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu; số chi và cơ cấu chi đầu tư phát triển, chi trả nợ, chi thường xuyên; định hướng về bội chi ngân sách; giới hạn nợ nước ngoài của quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; các giải pháp chủ yếu để thực hiện kế hoạch”. Điều đó cho thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của kế hoạch tài chính 05 trong hoạt động tài chính của nhà nước. Do vậy, khoản 3 Điều 19 của Luật NSNN năm 2015 ghi nhận rằng Quốc hội sẽ “quyết định kế hoạch tài chính 5 năm”. Theo chúng tôi, quy định trên là hợp lý vì với vai trò là cơ quan quyền lực cao nhất, đại diện cho người dân, Quốc hội có quyền và cần được trao cho quyền này. Tuy nhiên, theo quy định khoản 4 Điều 17 Luật NSNN năm 2015 thì “Bộ Tài chính có trách nhiệm chủ trì xây dựng kế hoạch tài chính 05 năm quốc gia trình Chính phủ báo cáo Quốc hội; Sở Tài chính có trách nhiệm xây dựng kế hoạch tài chính 05 năm của địa phương mình trình Ủy ban nhân dân cùng cấp báo cáo Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định cùng với thời điểm trình dự toán ngân sách năm đầu kỳ kế hoạch”. Như vậy, quy định này đã mâu thuẫn với khoản 3 Điều 19 Luật NSNN năm 2015. Vì với quy định này thì người đọc có quyền hiểu rằng Chính phủ báo cáo Quốc hội vềkế hoạch tài chính 5 năm mà không có nghĩa là Quốc hội là cơ quan quyết định kế hoạch trên. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị khi ban hành Nghị định, Chính phủ cần phải xác định rõ để loại trừ cách hiều không chính xác của quy định trên để đảm bảo chỉ còn một cách hiểu chính xác và đúng bản chất của vấn đề thẩm quyền quyết định kế hoạch tài chính 5 năm là của Quốc hội.
Hai là, theo quy định khoản 1 Điều 43 Luật NSNN năm 2015 thì: “Kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm là kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước được lập hằng năm cho thời gian 03 năm, trên cơ sở kế hoạch tài chính 05 năm, được lập kể từ năm dự toán ngân sách và 02 năm tiếp theo, theo phương thức cuốn chiếu. Kế hoạch này được lập cùng thời điểm lập dự toán ngân sách nhà nước hằng năm nhằm định hướng cho công tác lập dự toán ngân sách nhà nước hằng năm; định hướng thứ tự ưu tiên phân bổ nguồn lực cho từng lĩnh vực và từng nhiệm vụ, hoạt động, chế độ, chính sách cho từng lĩnh vực trong trung hạn”. Theo đó, kế hoạch tài chính – ngân sách 03 năm cũng có những ý nghĩa nhất định cho quá trình thực hiện quản lý tài chính công. Tuy nhiên, các quy định của Luật NSNN năm 2015 đã vô tình làm ưu điểm này không phát huy hiệu quả bởi:
i] Kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm được xây dựng nhưng chỉ mang tính tham khảo mà không do cơ quan nhà nước nào có thẩm quyền quyết định về nó. Bởi lẽ trong quy định về thẩm quyền của Quốc hội, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chỉ xác định các cơ quan này quyết định kế hoạch tài chính 05 năm mà không đề cập thẩm quyền quyết định kế hoạch tài chính – ngân sách 03 năm. Đồng thời, khoản 4 Điều 43 Luật NSNN năm 2015 cũng ghi nhận: “Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm quốc gia, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội; Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp để tham khảo khi thảo luận, xem xét, thông qua dự toán ngân sách và phương án phân bổ ngân sách nhà nước hằng năm”. Vậy liệu các cơ quan có trách nhiệm xây dựng kế hoạch tài chính – ngân sách 03 năm có tận tâm để xây dựng kế hoạch chính xác hay không?
ii] Về nguyên tắc “kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm là kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước được lập hằng năm cho thời gian 03 năm, trên cơ sở kế hoạch tài chính 05 năm, được lập kể từ năm dự toán ngân sách và 02 năm tiếp theo, theo phương thức cuốn chiếu”.
Tổng hợp hai lý lẽ trên, chúng tôi cho rằng khi ban hành nghị định hướng dẫn thi hành, Chính phủ cần có những quy định cụ thể và chi tiết thi hành về vấn đề này nhằm đảm bảo phát huy hết ý nghĩa của quy định về kế hoạch tài chính – ngân sách 3 năm được quy định trong Luật NSNN năm 2015.
- Thứ năm, Luật NSNN năm 2015 thiếu phần nội dung quy định về xử lý đối với hành vi vi phạm các quy định của Luật NSNN. Trong Luật NSNN năm 2015 đã xác định 11 hành vi được xác định là “các hành vi bị cấm trong lĩnh vực NSNN” tại Điều 18. Tuy nhiên, trong toàn bộ nội dung của Luật NSNN năm 2015 lại không có bất cứ quy định nào liên quan đến việc các chủ thể vi phạm các quy định của pháp luật trong hoạt động ngân sách nhà nước sẽ gánh chịu những chế tài gì. Vẫn biết rằng đã có các quy định trong các văn bản pháp luật khác liên quan có quy định như: Bộ luật Hình sự, các quy định trong pháp luật quản lý thuế… Tuy nhiên, để đảm bảo tính logic và rõ ràng hơn cho việc xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động NSNN, theo chúng tôi, khi ban hành nghị định hướng dẫn chi tiết thi hành, Chính phủ cần có một số điều quy định về vấn đề này. Có như vậy mới đảm bảo tính chặt chẽ của vấn đề và phát huy hết ý nghĩa của việc xác định các hành vi vi phạm trong lĩnh vực NSNN.
Tóm lại, Luật NSNN năm 2015 về cơ bản đã có những thành công trong việc xây dựng và thay đổi nhiều nội dung trong các quy định về hoạt động NSNN so với các quy định của Luật NSNN năm 2002. Tuy nhiên, Luật NSNN năm 2015 cũng còn có một số điểm chưa hợp lý. Vì vậy, những kiến nghị của chúng tôi nhằm mục đích góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về lĩnh vực NSNN để việc quản lý NSNN ngày càng hiệu quả, hợp lý và phát huy những ý nghĩa tích cực của hoạt động quản lý tài chính công.
* NCS. ThS Luật học, Giảng viên Khoa Luật Thương mại, Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh
a] Đối với chi đầu tư xây dựng cơ bản phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật về đầu tư công và xây dựng;
b] Đối với chi thường xuyên phải bảo đảm đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định; trường hợp các cơ quan, đơn vị đã được cấp có thẩm quyền cho phép thực hiện theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí thì thực hiện theo quy chế chi tiêu nội bộ và phù hợp với dự toán được giao tự chủ;
c] Đối với chi dự trữ quốc gia phải bảo đảm các điều kiện theo quy định của pháp luật về dự trữ quốc gia;
d] Đối với những gói thầu thuộc các nhiệm vụ, chương trình, dự án cần phải đấu thầu để lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, mua sắm hàng hoá, xây lắp phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu;
đ] Đối với những khoản chi cho công việc thực hiện theo phương thức Nhà nước đặt hàng, giao kế hoạch phải theo quy định về giá hoặc phí và lệ phí do cơ quan có thẩm quyền ban hành”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Luật số: 83/2015/QH13 về Ngân sách nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 25/06/2015. [trans: Law No. 83/2015 / QH13 of the Budget by the National Assembly, adopted on 06/25/2015].
[2] Quang Minh Nhật, “Cần Thơ: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 14,5%/năm”, Báo Thanh niên, đăng trên // thanhnien.vn/ doi-song/nhip-song-dia-phuong/cantho-toc-do-tang-truong-gdp-binh-quan-145nam-7122. html truy cập ngày 17/04/2016. [trans: Quang Minh Nhat, “Can Tho: Growth rate of GDP per capita of 14.5% / year”, The Youth newspaper, posted on //thanhnien.vn/doi-song/nhip-song-dia-phuong/cantho-toc-do-tang-truong-gdp-binh-quan-145nam-7122.html, accessed on 4/17/2016].
[3].....PricewaterhouseCoopers LLP [PwC], “Which are the largest city in the world and how Economies of might this change by 2025?”, PricewaterhouseCoopers UK Economic Outlook November 2009, p.20 – p.34.
[4].....Đình Tăng, “Ấn tượng Đà Nẵng”, Tạp chí Cộng sản, theo //dangcongsan.vn/ thoi-su/an-tuong-da-nang-369034.html truy cập ngày 18/04/2016. [Dinh Tang, “Impression of Da Nang,” Communist Review, according //dangcongsan.vn/ thoi-su/an-tuong-da-nang-369034.html, accessed on 4/18/2016].
[5] Hữu Trãi, “Cần Thơ công bố thành tựu kinh tế - xã hội 10 năm qua”, đăng tải trên //vov. vn/xa-hoi/can-tho-congbo-thanh-tuu-kinh-te-xa-hoi-10-nam-qua-301479.vov truy cập ngày 17/04/2016.[trans: Huu Trai, “Can Tho announced economic achievements - society published 10 years”, //vov.vn/xa-hoi/can-tho-congbo-thanh-tuu-kinh-te-xa-hoi-10-nam-qua-301479.vov, accessed on 4/17/2016].
©
Bài viết được đăng tải dưới sự cho phép của Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, mọi quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến bài viết được bảo lưu. Chi tiết xin vui lòng liên email
Vui lòng đăng nhập tài khoản để tải miễn phí.
Gmail
Đăng ký
Quên mật khẩu?
Đặt mua
Bản giấy tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam
Bài viết liên quan trên
Google scholar
Trích dẫn bài viết qua
Google scholar Crossref
- Bài báo mới