Ngài địa tạng vương bồ tát là ai

Địa Tạng Vương Bồ Tát được xem là bậc giáo chủ của cõi U Minh, vị Bồ tát của chúng sinh dưới địa Ngục. Địa Tạng Vương Bồ tát thường được mô tả với hình tượng là một vị Bồ tát từ bi, đầu đội mão tỳ lư, có vầng sáng hào quang trên đầu, đứng trên tòa sen hoặc ngồi trên tòa sen do Đề Thính [một con chó, linh thú của Địa Tạng Vương Bồ tát] đỡ lấy.

Địa Tạng Vương Bồ Tát được xem là bậc giáo chủ của cõi U Minh, vị Bồ tát của chúng sinh dưới địa Ngục

Địa Tạng hay Địa Tạng Vương Bồ tát là một trong những vị Bồ tát được Phật giáo Đông Á tôn sùng và được mô tả như một tỳ kheo của phương Đông. Ngài Địa Tạng Vương Bồ tát là một trong sáu vị bồ tát của Phật giáo Đại thừa, bao gồm Đại Thế Chí Bồ tát, Quán Thế Âm Bồ tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Phổ Hiền Bồ tát, Di Lặc Bồ tát và Ngài. 

Bồ tát Địa Tạng được biết đến với lời nguyện cứu độ tất cả chúng sanh trong lục đạo luân hồi, ở thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết bàn đến thời Bồ tát Di Lặc giáng thế. Trong các tài liệu của các học giả nghiên cứu về Phật giáo có ghi chép rằng tín ngưỡng tôn thờ Địa Tạng Bồ Tát đã xuất hiện từ lâu ở Ấn Độ vào khoảng thế kỉ I hoặc II TCN. Ngài còn có lời nguyện rằng nếu địa ngục chưa trống không thì Ngài thề không thành Phật, chỉ khi nào chúng sanh độ hết rồi thì Ngài mới chứng Bồ đề.

Theo các tài liệu Phật Giáo, khi Phật Thích Ca Mâu Ni ở cung trời Đao Lợi, Đức Phật đã ân cần căn dặn Ngài Địa Tạng Vương rằng sau khi Đức Phật viên tịch và trước khi Di Lặc thành Phật thì Ngài Địa Tạng phải đảm nhận trọng trách độ hóa chúng sanh ở Thế giới Ta Bà. Ngài Địa Tạng rơi lệ, cam kết với Đức Phật sẽ hết sức độ hóa giải thoát cho chúng sanh để họ quy y Tam bảo, rời khổ nạn. Trước Phật Thích Ca, Ngài đã lập ra lời thệ nguyện rằng sẽ vì các chúng sinh trong lục đạo mà cấp phương tiện để họ được giải thoát hết thì bản thân mới thành Phật.

Địa Tạng Vương Bồ tát được xem là vị Bồ tát của chúng sanh ở chốn Địa Ngục. Ngài là vị Bồ Tát đại từ đại bi với thệ nguyện độ thế rộng lớn. Ngài cũng được mệnh danh là giáo chủ của cõi U Minh. Theo phiên âm thì Địa là dày chắc, Tạng là đủ chứa và Địa Tạng tức là sâu dày, đủ chứa muôn vàn khổ đau của chúng sinh linh chốn Địa Ngục. Cũng có người lý giải chữ “Địa” theo Kinh Địa Tạng tức là “U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát”, có thể hiểu là chỉ có Bổn tâm mới là tôn quý nhất, mới có thể làm chủ cõi u minh, làm chủ cõi địa ngục tham – sân – si của chính mình. 

Theo Kinh Địa Tạng Bồ tát thì Ngài Địa Tạng có bốn tiền thân ứng với bốn đại nguyện của Ngài. Trong vô lượng kiếp trước, Ngài vốn là một vị Trưởng giả, nhờ duyên phước nên được đảnh lễ, chiêm ngưỡng và nhận được sự chỉ dạy của Đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai. Ngài đã phát nguyện rằng từ nay đến đời vị lai, Ngài sẽ vì những chúng sanh tội khổ trong sáu đường, mà bày giảng nhiều phương tiện để họ được giải thoát rồi mới chứng thành Phật quả. 

Lại trong vô lượng kiếp trước, ở thời đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, Ngài là một người nữ của dòng dõi Bà la môn. Thế nhưng mẹ của cô lại là người không tin vào nhân quả, đã tạo nhiều ác nghiệp, sau khi chết đã bị đọa vào địa ngục. Với tấm lòng hiếu thảo của mình, cô đã làm vô lượng điều lành, đem công đức này hồi hướng cho mẹ mình và cầu nguyện Đức Phật cứu giúp. Đức Phật cho cô biết rằng mẹ cô đã thoát khỏi địa ngục và được vãng sanh về cõi trời. Cô đã phát nguyện với đức Phật rằng nguyện từ nay đến đời vị lai, với những chúng anh mắc phải tội khổ, cô sẽ lập ra nhiều phương chước để họ được giải thoát. 

Trong vô lượng kiếp trước, Địa Tạng Vương Bồ tát vốn là một người nữ của dòng dõi Bà La Môn đã làm vô lượng điều lành, đem công đức hồi hướng cho mẹ để giúp mẹ mình thoát khỏi địa ngục

Lại trong hằng hà sa số kiếp trước, thời đức Phật Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, Địa Tạng Bồ Tát vốn là một vị vua rất yêu thương dân chúng của mình. Thế nhưng chúng sanh lúc bấy giờ đã tạo rất nhiều ác nghiệp. Thê nên Ngài đã phát nguyện với đức Phật Nhất Thiết Trí Như Lai rằng nếu Ngài không độ hết những kẻ tội khổ làm điều an vui được chứng quả Bồ đề thì Ngài nguyện không thành Phật.

Trong vô lượng kiếp trước, ở thời đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai, Địa Tạng Bồ tát là một hiếu nữ có nhiều phước đức tên gọi Quang Mục. Thê nhưng mẹ của Quang Mục là người độc ác, đã tạo vô số ác nghiệp nên khi mạng chung, bà đã bị đọa vào địa ngục. Sau khi nàng Quang Mục biết được mẹ mình đang chịu khổ nơi địa ngục thì đã vâng theo lời dạy của một vị La Hán, nàng phát tâm đắp vẽ sơn thếp hình ảnh của Đức Phật và thành tâm xưng niệm danh hiệu của Phật để cầu nguyện, nhờ cứu độ mẹ mình.

Đức Phật cho biết mẹ của nàng đã thoát khỏi cảnh địa ngục và thác sanh vào cõi người, tuy nhiên vẫn còn phải chịu quả báo là sinh ra vào nhà nghèo hèn, hạ tiện và bị chết yểu. Với lòng hiếu nghĩa của mình, Ngài Địa Tạng Bồ tát lúc này là Quang Mục đã phát nguyện với đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai rằng từ nay đến muôn nghìn kiếp sau, Ngài nguyện cứu vớt những chung sanh chịu tội khổ ở địa ngục cùng ba ác đạo cho đến khi tất cả đều thoát khỏi chốn đạo ác trở thành Phật thì Ngài mới thành bậc Chánh Giác. 

Còn theo một sự tích Lịch sử của Phật giáo Hàn Quốc thì ghi lại rằng, Địa Tạng Bồ Tát tên tục danh là Kim Kiều Giác, sinh vào thế kỷ thứ VII. Ngài vốn là một hoàng tử ống trong nhung lụa nhưng lại chăm chỉ học hỏi, thích đạm bạc, không bị ảnh hưởng bởi lối sống vương giả, hưởng lạc. Năm 24 tuổi, Ngài lập chi xuất gia, hành cước và quyết định dừng chân tĩnh tọa ở núi Cửu Hoa Sơn. Ngài nhập Niết bàn vào ngày 30 tháng 7 ở năm Đường Khai Nguyên thứ 26. 

Địa Tạng Vương Bồ tát thường được mô tả với hình tượng là một vị Bồ tát từ bi, đầu đội mão tỳ lư, có vầng sáng hào quang trên đầu. Ngài đứng trên tòa sen hoặc ngồi trên tòa sen do Đề Thính [một con chó, linh thú của Địa Tạng Vương Bồ tát] đỡ lấy. Tùy khí của Ngài là viên ngọc Như Ý, thường được cầm ở tay trái, tượng trưng cho ánh sáng xua tan bóng đêm hắc ám, tay phải Ngài cầm tích trượng là vật để mở cửa địa ngục. 

Một số tranh tượng ở Việt Nam và Trung Quốc thì khắc họa hình tượng Địa Tạng Vương Bồ tát mặc áo cà sa màu đỏ, đội mũ thất phật [hình ảnh của tu sĩ Phật giáo Bắc truyền]. Hình tượng nhân vật Đường Tam Tạng [Đường Tăng] trong Tây Du Ký rất giống với hình tượng của Địa Tạng Vương Bồ tát. 

Ở Việt Nam và Trung Quốc hình tượng Địa Tạng Vương Bồ tát mặc áo cà sa màu đỏ, đội mũ thất phật

Ở Nhật Bản, Địa Tạng Bồ tát được tôn thờ là vị Bồ tát hộ mệnh cho trẻ em và bảo vệ các bào thai chết em, các vong linh của trẻ em. Ở đây, phần lớn các tranh tượng của Ngài được biểu hiện giống hoặc liên quan đến trẻ thơ. Có những tranh tượng khắc họa khuôn mặt Ngài rất ngây thơ, hồn nhiên trông rất giống trẻ em. Cũng có những tranh tượng mô tả Ngài tay bồng một em bé, dưới chân có vài ba em bé khác đang níu thiền trượng và Tăng bào của Ngài. Một số nơi thì tượng Ngài hay được tôn thờ bên những con suối, dòng sông. 

Ngài được tin rằng sẽ luôn bảo hộ những người khách đi đường, người lính cứu hỏa, phụ nữ có thai và đặc biệt là những trẻ em bất hạnh. Ngài luôn hiện thân bảo vệ những đứa trẻ bị bạo hành ngược đãi trong gia đình. Với những đứa trẻ bất hạnh yểu mạng, Ngài thường  an ủi và che chở cho chúng, giúp chúng tích tạo công đức để kiếp sau được sanh ra bình an, khỏe mạnh.

Địa Tạng Vương Bồ tát có hạnh nguyện là cứu độ tất cả chúng sanh trong lục đạo luân hồi, dùng pháp lực và lòng từ bi của mình để phổ độ chúng sinh, cứu rỗi những linh hồn sa vào địa ngục, giúp mọi người đều được lên cõi Vĩnh Hằng. Ngài được tôn xưng là một trong tứ Đại Bồ tát có pháp lực vô biên và lòng từ bi vô hạn, có trọng trách độ hóa chúng sinh ở thế giới Ta Bà để họ được giải thoát khỏi cõi U Minh tăm tối.

Theo kinh Địa Tạng Bản Nguyện, những thiện nam tín nữ nào chi tâm quy y, chiêm ngưỡng, lễ bái, cúng dường, tô vẽ hình tượng Địa Tạng Vương Bồ tát trong hiện tại sẽ được tiêu trừ bệnh tật, các tội chướng, tiêu trừ tai họa, có thể thoát khỏi hiểm nguy, được quỷ thần hộ về. Người thành tâm tụng niệm danh xưng của Địa Tạng Bồ tát cũng được trí huệ to lớn, mau chóng hoàn thành ước nguyện. 

Bất kể người nào khi nghĩ đến đại nguyện “Địa ngục không trống thề không thành Phật, chúng sinh độ hết, mới chứng Bồ Đề” của Ngài thì linh hồn người đó sẽ trải qua một lần triệt ngộ. Tự bổn tâm sẽ sản sinh ra tâm rời xa tự ngã, luôn muốn thực hiện những hành động có ích cho xã hội, cho người khác.

Những người thờ phụng Địa Tạng Bồ Tát, khi nghĩ đến việc Ngài đã vì mẹ mà vĩnh viễn ở địa ngục, hết lòng cứu độ chúng sinh, coi chúng sinh như cha mẹ của mình… thì trong lòng đều sẽ sinh ra cảm giác kính trọng, bất giác nghĩ đến cha mẹ mình. Trong lòng sẽ nảy sinh ý niệm mong muốn được tận hiếu, sẽ tự giác thành kính tự nguyện đảnh lễ Địa Tạng Bồ tát . Bởi Ngài là biểu pháp cho tinh thần hiếu đạo, công đức của Ngài sâu như biển cả, rộng như hư không.

Những chúng sinh nào niệm danh hiệu Địa Tạng, niệm kinh Địa Tạng, hồi hướng cho người thân của mình sẽ giúp họ tiếp cận được thiện tri thức, gieo nhân thiện, biết rõ nhân quả, biết hối hận biết tội lỗi. Dựa vào thần lực của Địa Tạng Bồ tát và công đức bản thân mà thoát khỏi nỗi khổ nơi địa ngục, không bị lưu lạc vào ác đạo, sớm tái sanh ở cõi Trời, cõi người. 

Người thành tâm tôn thờ tôn tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát thì cuộc sống hiện tại được yên bình, có được trí huệ lớn, được quỷ thần hộ vệ, tiêu trừ bệnh tật tội chướng; có thể thoát khỏi hiểm nguy, tiêu trừ tai nạn và những nguyện lớn có thể thành hiện thực. Trong kiếp sau, người ấy có thể được thân xinh đẹp, thoát khỏi kiếp nô lệ, thoát khỏi thân nữ. 

Với người sắp mất, chúng ta có thể niệm danh hiệu, tụng kinh Địa Tạng và làm nhiều việc thiện cho người đó để giúp họ được siêu thoát. Nếu trong giấc ngủ gặp phải người lạ, các sự quá ác, gặp phải ma quỷ… thành tâm tụng kinh Địa Tạng sẽ giúp siêu độ vong linh, gặp lại người thân quá vãng. 

Nếu trong giấc ngủ gặp phải người lạ, các sự quá ác, gặp phải ma quỷ… thành tâm tụng kinh Địa Tạng sẽ giúp siêu độ vong linh

Việc thờ tôn tượng Địa Tạng Bồ tát, thành tâm đảnh lễ, cúng dường Ngài có thể mang lại cho chúng ta phước báu dài lâu, to lớn. Khi thờ tượng Ngài tại gia thì gia chủ cần lưu ý một số vấn đề sau đây:

  • Tượng Địa Tạng Vương Bồ tát có thể được thờ độc tôn hoặc thờ trong bộ Ta Bà Tam Thánh [gồm Phật Thích Ca Mâu Ni, Quán Thế Âm Bồ tát và Địa Tạng Vương Bồ tát]. Khi chọn tượng Địa Tạng Bồ tát, nên tỉ mỉ quan sát, thỉnh những tôn tượng có bố cục hợp lý, tính thẩm mỹ cao, tránh chọn những tượng môi chum, mày cau, không có thần thái từ bi hỷ xả
  • Nếu có thờ tượng Phật thì tượng Phật đặt ở vị trí cao nhất rồi đến tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát. Bàn thờ Phật nên đặt ở vị trí trung tâm của ngôi nhà, đối diện với hướng đi chính để phát huy tối tác dụng cảm hóa an lạc, bàn thờ Phật nên cao hơn đầu gia chủ.
  • Với những nhà phố, nên đặt tượng Phật ở phòng cao nhất, đối diện ban công, không có không gian khác đè lên. Không đặt bàn thờ ở nơi đông người, nơi ăn uống, thường xuyên tiếp khách, cười đùa, nói chuyện. Không đặt bàn thờ hướng về phía nhà vệ sinh, nhà bếp, phòng ngủ hay chân cầu thang. 
  • Trước khi thỉnh tượng Địa Tạng Bồ Tát, nên chuẩn bị bàn thờ Phật chu đáo, trang nghiêm, đầy đủ những đồ dùng cần thiết như bình hoa, đĩa quả, lư hương, đôi đèn thờ, chén nước sạch. 
  • Không đặt các vật như giấy tiền, vàng mã, bùa chú lên bàn thờ Phật. Hoa quả trà nước nên thay thường xuyên, tránh để héo úa, hư hỏng. Nếu trái cây còn dùng được thì nên dùng hoặc đem cho, không vứt đi trừ trường hợp trái cây đã bị hỏng. 
  • Nên dâng mâm cỗ cúng chay vào những ngày như mùng 1, 15, các ngày lễ lớn của nhà Phật và ngày vía Địa Tạng Vương Bồ tát là ngày 30 tháng 7 âm lịch. 

Tóm lại, Địa Tạng Vương Bồ tát là vị Bồ tát được tôn thờ phổ biến trong Phật giáo Đông Á, Ngài được xem như giáo chủ của cõi U Minh, Bồ tát của chúng sanh cõi địa ngục âm u. Ngài có công năng và oai lực bao trùm khắp Tam Giới, được chúng sinh tôn sùng bởi công đức sâu rộng và hạnh nguyện cứu độ tất cả chúng sinh trong lục đạo luân hồi.

Video liên quan

Chủ Đề