Nhà Lê được thành lập như thế nào

Lê Đại Hành - Lê Hoàn

Chi tiết Chuyên mục: Nhà Tiền Lê

Lê Đại Hành [980-1005]

Lê Hoàn sinh năm 941 ở Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hoá [có thuyết nói: Lê Hoàn sinh ở Thanh Liêm, Hà Nam] trong một gia đình nghèo khổ, bố là Lê Mịch, mẹ là Đặng Thị Sen. Cha mẹ mất sớm, Lê Hoàn phải đi làm con nuôi cho một vị quan nhỏ. Lớn lên, ông đi theo Nam Việt Vương Đinh Liễn và lập được nhiều chiến công khi Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, lập nên cơ nghiệp Nhà Đinh. Ông được Đinh Tiên Hoàng phong làm Thập Đạo tướng quân lúc vừa tròn 30 tuổi.

Khi cha con Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích giết hại, Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi vua. Nhân cơ hội đó, Nhà Tống cho quân sang xâm lược nước ta. Vì lợi ích của dân tộc, Thái hậu Dương Vân Nga đã trao ngôi vua cho Lê Hoàn.

Lê Hoàn lên ngôi vua lấy niên hiệu là Lê Đại Hành. Vẫn lấy tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư.

Xem thêm: Lê Đại Hành - Lê Hoàn

Lê Trung Tông - Lê Long Việt

Chi tiết Chuyên mục: Nhà Tiền Lê

Lê Trung Tông [1005]

Vua Lê Đại Hành có 4 hoàng tử: Long Du, Ngân Trích, Long Việt và Long Đĩnh.

Lê Đại Hành đã cho con thứ ba là Long Việt làm Thái tử. Khi vua Lê Đại Hành băng hà, các hoàng tử tranh ngôi, đánh nhau 7 tháng, đến khi Long Việt lên ngôi làm vua là Lê Trung Tông được 3 ngày thì bị em cùng mẹ là Long Đĩnh giết chết lúc 23 tuổi [983 - 1005].

Xem thêm: Lê Trung Tông - Lê Long Việt

Lê Ngoạ Triều - Lê Long Đĩnh

Chi tiết Chuyên mục: Nhà Tiền Lê

Lê Ngọa Triều [1005 - 1009]

Lê Long Đĩnh cướp ngôi của anh là Lê Trung Tông, lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Đại Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng đế vẫn đóng đô ở Hoa Lư.

Lê Long Đĩnh đã làm việc càn dỡ giết Vua cướp ngôi, thích dâm đãng, tàn bạo, róc mía trên đầu nhà sư... Do chơi bời trác táng quá, nên khi ra thiết triều phải nằm, tục gọi là Lê Ngoạ Triều. Lê Ngoạ Triều làm vua được 4 năm [1005 - 1009] thì mất, thọ 24 tuổi. Long Đĩnh mất, con tên là Sạ còn bé, dưới sự đạo diễn của quan Chi Hậu Đào Cam Mộc, triều thần đã tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế.

Xem thêm: Lê Ngoạ Triều - Lê Long Đĩnh

Bằng cách đăng ký, bạn đồng ý với Điều khoản sử dụng và Chính sách Bảo mật của chúng tôi.

Hãy luôn nhớ cảm ơnvote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

XEM GIẢI BÀI TẬP SGK SỬ 4 - TẠI ĐÂY

Đặt câu hỏi

  • lý thuyết
  • trắc nghiệm
  • hỏi đáp
  • bài tập sgk

Nhà Tiền Lê được thành lập như thế nào?

Các câu hỏi tương tự

Đáp án và giải thích chính xác câu hỏi trắc nghiệm: “Nhà Tiền Lê được thành lập trong hoàn cảnh nào?"cùng với kiến thức lý thuyết liên quan là tài liệu hữu ích môn Lịch sử 4 do Toplời giải biên soạn dành cho các bạn học sinh và thầy cô giáo tham khảo.

Trắc nghiệm: Nhà Tiền Lê được thành lập trong hoàn cảnh nào?

A. Đất nước được thanh bình

B. Nội bộ triều đình nhà Đinh rối loạn.

C. Nhà Tống đặt quan hệ ngoại giao với nước ta

D. Đất nước bị phong kiến phương Bắc đô hộ

Trả lời:

Đáp án đúng:B. Nội bộ triều đình nhà Đinh rối loạn.

Nhà Tiền Lê được thành lập trong hoàn cảnhNội bộ triều đìnhnhà Đinh rối loạn.

Giải thích:

Năm 979, Đinh Tiên Hoàng bị giết hại triều đình lục đục Nhà Tống lăm le đe dọa => Lê Hoàng được suy tôn lên làm vua

Kiến thức tham khảo về nhà Tiền Lê

I. Sự thành lập nhà Tiền Lê

- Sau khiĐinh Tiên Hoàngvà con làĐinh Liễnbị ám hại,Vệ Vương Toànlên ngôi, Lê Hoàn làmphụ chính, xưng làPhó vương. Triều thần sợ Lê Hoàn cướp ngôi vị của Thiếu đế, nên các công thần là Định Quốc côngNguyễn Bặcvà Ngoại giápĐinh Điềndẫn quân về kinh đô định giết Lê Hoàn. Lực lượng này thua trận và bị Lê Hoàn giết.

- Năm980, quân Tống nhân cơ hội đem quân sang muốn cướp nước. Khi triều đình đang bàn kế hoạch xuất quân thì Phạm Cự Lạngcùng các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng vào Nội phủ, nói với mọi người:"Thưởng người có công, giết kẻ trái lệnh là phép sáng để thi hành việc quân. Nay chúa thượng còn trẻ thơ, chúng ta dẫu hết sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút công lao, thì có ai biết cho? Chi bằng trước hãy tôn lập ông Thập đạo làm Thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì hơn". Quân sĩ đều hô vạn tuế.

- Lúc đó, người đứng đầu triều đình làDương Thái hậukhông còn cách nào khác do mọi quân sĩ đều tôn lập Lê Hoàn, bèn thuận theo, sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, đưa Lê Hoàn lên làmHoàng đế. Đây chính là thời khắc lập ra nhà Tiền Lê.

II. Nội trị thời Tiền Lê

1. Bộ máy chính quyền

- Nhà Tiền Lê nối tiếp và hầu như giữ nguyên mọi quy củ của nhà Đinh. Năm 980, sau khi lên ngôi, Lê Hoàn đặt chức quan trong triều, phong Hồng Hiến làm Thái sư, Phạm Cự Lạng làm Thái úy, Từ Mục làm Đại tổng quản, Đinh Thừa Chinh làm Nha nội đô chỉ huy sứ.

- So với nhà Đinh tập trung hết quyền hành về tay hoàng đế, vua Lê đã chia trách nhiệm cho các đại thần. Chỉ riêng việc đánh dẹp thì nhà vua thường thân chinh cầm quân.

2. Đánh dẹp trong nước

- Trong thời gian cai trị, các vua Tiền Lê vẫn gặp phải sự chống đối của các tù trưởng địa phương, nhất là những nơi xa xôi hẻo lánh.

- Năm 989, Lê Đại Hành sai viên Quảng giáp là Dương Tiến Lộc đi thu thuế hai châu Hoan và Ái. Tiến Lộc đem người hai châu ấy xin theo về với Chiêm Thành. Chiêm Thành không nhận. Dương Tiến Lộc lấy hai châu Hoan, Ái làm phản. Lê Đại Hành thân hành đi đánh, giết chết Tiến Lộc và rất nhiều người 2 châu đó.

- Năm 999, Lê Đại Hành lại thân đi đánh Hà Động, dẹp được tất cả 49 động. Sau đó vua Lê lại phá được động Nhật Tắc, châu Định Biên [Cao Bằng].

- Người Cử Long làm loạn không phục triều đình. Năm 1001, Lê Đại Hành lại thân chinh đi đẹp được loạn.

- Sang thời Ngọa Triều vẫn phải đối phó với sự chống đối của các địa phương. Năm 1008, Ngọa Triều thân hành đi đánh hai châu Đô Lương, Vị Long, bắt được vài trăm người bản địa. Cùng năm, vua Lê lại đi đánh châu Hoan và châu Thiên Liễu, bắt được tù binh về giết chết.

- Tháng 7 năm 1009, Lê Long Đĩnh lại thân đi đánh các châu Hoan Đường, Thạch Hà.

3. Giao thông

- Sau khi đánh thắng Chiêm Thành, năm 983, Lê Đại Hành sai quan Phụ quốc Ngô Tử An đem 3 vạn người đi mở đường bộ từ cửa biển Nam Giới đến Châu Địa Lý.

- Năm 1003, vua Lê lại thân hành đi Hoan Châu, ra lệnh vét kênh Đa Cái cho Thông thẳng đến Tư Củng trường ở Ám Châu.

- Năm 1009, triều thần đề nghị xin đào kênh, đắp đường và dựng cột bia ở Ái Châu. Lê Ngọa Triều xuống chiếu cho lấy quân và dân ở châu Ái đào đắp từ cửa quan Chi Longqua Đỉnh Sơn đến sông Vũ Lung. Sau đó Lê Long Đĩnh lại ra lệnh đóng thuyền để ở các bến sông Vũ Lung, Bạt Cừ, Động Lung bốn chỗ để chở người qua lại.

- Tháng 7 năm đó, nhân đi đánh châu Hoan Đường, hành quân đến Hoàn Giang, Lê Long Đĩnh sai Hồ Thủ Ích đem hơn 5.000 quân của châu Hoan Đường, sửa chữa đường từ sông Châu Giáp đến cửa biển Nam Giới để tiện cho việc hành quân về phía nam.

4. Kinh tế

- Nhà Tiền Lê đặt ra lệ đánh thuế căn cứ vào số lượng tài sản về ruộng đất. Thuế thân chia ra 2 loại:

- Tiền công dunglà tiền công dịch [như lao động công ích] mà người dân phải chịu mỗi năm 10 ngày và có thể nộp tiền thay vào việc tạp dịch

+ Tiền thuế hộ: là tiền mỗi gia đình phải nộp hàng năm

+ Tiền thuế điệu: Tiền mỗi hộ phải nộp để đóng vào việc quân

- Nhà Tiền Lê đặt ra thuế thổ sản theo phép thời Tam Đại [Hạ, Thương, Chu] của Trung Quốc, chỉ lấy cống phẩm mà không thu bằng tiền. Đồng thời, triều đình có chính sách khuyến khích thương mại. Những người buôn bán không phải nộp thuế, coi như họ chỉ bán những nông phẩm sản xuất ra mà đã chịu thuế ruộng đất rồi[8]

5. Thương mại

- Sử sách không chép rõ về hoạt động thương mại trong nước. Đối tác quan hệ buôn bán ngoại thương chủ yếu của Đại Cồ Việt là Trung Quốc. Hai bên lập ra những nơi giao dịch song phương gọi làBạc dịch trườngđặt trên đường thông lộ biên giới.

- Những Bạc dịch trường quan trọng trong thời kỳ này là trại Vĩnh Bình [được Lê Văn Siêu phỏng đoán là chợ Kỳ Lâm hiện nay], tại Sách Nam Giang thuộc trại Cổ Vạn và châu Tô Hậu [Lê Văn Siêu phỏng đoán là châu Thất Khê], trại Hoành Sơn [Na Chàm ở ải Nam Quan]. Trại Hoành Sơn tụ tập nhiều nhà buôn từ châu Quảng Nguyên của Đại Cồ Việt và châu Đặc Ma của nước Đại Lý [Vân Nam] và các lái buôn từ Quảng Châu của Tống.

- Bạc dịch trường lớn nhất gần biên giới là điểm giao dịch hai nước nằm ở trại Như Hồng, Khâm châu.

- Tác giả Chu Khứ Phi mô tả việc buôn bán giữa hai bên lúc đó trong sáchLĩnh ngoại đại phápnhư sau:

Hai bên gặp nhau thường uống rượu làm vui rồi mới bàn chuyện buôn bán. Người Tống làm nhà ở tại chỗ lâu ngày và thường dìm giá làm người bán phải bán rẻ; nhưng phú thương người Việt cũng không chịu, cầm giữ giá lâu

- Các quan chức địa phương biên giới cũng hỗ trợ cho quan hệ buôn bán của các thương gia hai bên. Nếu xảy ra việc kêu ca vì người bán cân thiếu thì phía Đại Cồ Việt lại cử sứ sang Khâm châu để thử lại cân để kiểm tra. Không những thế, chính triều đình nhà Tiền Lê cũng sai người sang giao dịch thẳng với khách buôn người Tống. Hàng bán của Đại Cồ Việt gồm có vàng, bạc, tiền đồng. Lê Văn Siêu cho rằng đây không chỉ là thị trường hàng hóa mà còn là thị trường tiền tệ mà hai bên trao đổi ngoại hối.

6. Văn hóa

- Sử sách không ghi chép nhiều về những dấu ấn văn hóa thời Tiền Lê. Ảnh hưởng lớn nhất trong các tôn giáo là đạo Phật đã có từ thời thuộc Đường. Các nhà sư đã được sự tin cậy của hoàng đế, cho làm quan trong triều để bàn kế sách quốc gia.

- Sử sách ghi lại hai tác phẩm tiêu biểu thời kỳ này là bài thơ của nhà sưĐỗ Pháp Thuậnđối đáp với sứ Tống và bài từ khúc của sư Khuông Việt tiễn sứ Tống ra về năm 987. Lê Quý Đôn có lời ca ngợi hai ông: "Sư Thuận thơ ca làm sứ Tống kinh sợ, Chân Lưu có từ khúc vang danh một thời".

Video liên quan

Chủ Đề