Phương thức thụ đắc lãnh thổ của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là gì

Tổng số trong ngày: 61,290

Tổng số trong tuần: 61,289

Tổng số trong tháng: 602,907

Tổng số trong năm: 15,551,469

Tổng số truy cập: 173,322,882

[Baonghean.vn] - Câu hỏi 28. Các nguyên tắc pháp lý để chứng minh quyền thụ đắc lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa trong luật pháp và thực tiễn quốc tế?

Trả lời: Như đã đề cập ở trên, Công ước của LHQ về Luật Biển năm 19B2 không phải là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, chủ quyền đối với hai quần đảo này như thế nào thì không thể không đề cập. Bởi vì điều này có liên quan rất mật thiết đến tình hình Biển Đông.

Vì vậy, cần tìm hiểu về những nguyên tắc pháp lý có liên quan đến quyền thụ đắc lãnh thổ trong luật pháp và thực tiễn quốc tế để trả lời cho câu hỏi quốc gia nào có chủ quyền đối với hai quần đảo này?

Đảo Trường Sa Lớn trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Ảnh minh họa: TNO

Trong lịch sử phát triển lâu dài của pháp luật quốc tế, những nguyên tắc và quy phạm pháp luật xác lập chủ quyền lãnh thổ đã được hình thành trên cơ sở thực tiễn quốc tế, trong đó có

các phương thức thụ đắc lãnh thổ.

Từ thế kỷ, XVI, tình trạng tranh chấp về khu vực ảnh hưởng giữa các nước mới phát triển và lớn mạnh như Hà Lan, Anh, Pháp... với các nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trở nên quyết liệt nên Giáo hoàng Alexandre VI đã ký Sắc lệnh ngày 04/5/1493 phân chia khu vực ảnh hưởng cho Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ở phạm vi nằm ngoài châu Âu.

Trước thực trạng đó, các cường quốc hàng hải đã tìm ra nguyên tắc pháp lý áp dụng cho việc thụ đắc lãnh thổ đối với những vùng lãnh thổ mà họ mới phát hiện. Đó là nguyên tắc "quyền ưu tiên chiếm hữu ", hay còn được gọi là nguyên tắc "quyền phát hiện ". Nguyên tắc này dành quyền ưu tiên chiếm hữu một vùng lãnh thổ cho quốc gia nào đã phát hiện vùng lãnh thổ đó đầu tiên. Tuy nhiên, trên thực tế nguyên tắc "quyền phát hiện " chưa bao giờ tự nó đem lại chủ quyền quốc gia cho quốc gia đã phát hiện ra vùng lãnh thổ mới đó. Bởi vì, người ta không thể xác định được thế nào là phát hiện? giá trị pháp lý của việc phát hiện? ai là người phát hiện trước? lấy gì để ghi dấu hành vi phát hiện đó?...

Vì thế, việc phát hiện đã nhanh chóng được bổ sung bằng việc chiếm hữu trên danh nghĩa, nghĩa là quốc gia phát hiện ra một vùng lãnh thổ phải để lại dấu tích trên vùng lãnh thổ mới phát hiện ra đó. Mặc dù vậy, nguyên tắc "chiếm hữu danh nghĩa " không những không thể giải quyết được một cách cơ bản những tranh chấp phức tạp giữa các cường quốc đối với các vùng "đất hứa", đặc biệt là những vùng lãnh thổ thuộc châu Phi và các hải đảo nằm cách xa đất liền hàng ngàn, hàng vạn hải lý, mà còn ngày càng dẫn đến những đối đầu quyết liệt hơn giữa các cường quốc vì người ta không thể lý giải được cụ thể cái "danh nghĩa" đã được lập ra bao giờ và tồn tại như thế nào.

Vì vậy, sau Hội nghị về châu Phi năm 1885  của 13 nước châu Âu và Hoa Kỳ và sau khóa họp của Viện Pháp luật quốc tế ở Lausanne [Thụy Sĩ] năm 1888, người ta đã thống nhất áp

dụng một nguyên tắc thụ đắc mới. Đó là nguyên tắc "chiếm hữu thật sự".

Điều 3, Điều 34 và Điều 35 của Định ước Berlin ký ngày 26/6/1885 đã xác định nội dung của nguyên tắc chiếm hữu thật sự và các điều kiện chủ yếu để có việc chiếm hữu thật sự

như sau: 

- "Phải có thông báo về việc chiếm hữu cho các quốc gia ký Định ước nói trên ";

- "Phải duy trì trên vùng lãnh thổ mà nước đã thực hiện hành vi chiếm hữu trên vùng lãnh thổ ấy một quyền lực đủ để khiến cho các quyền của nước chiếm hữu được tôn trọng... ".

Tuyên bố của Viện Pháp luật quốc tế Lausanne năm 1888  đã nhấn mạnh: "...mọi sự chiếm hữu muốn tạo nên danh nghĩa chủ quyền... thì phải là thật sự, tức là thực tế, không phải là danh nghĩa ". Chính Tuyên bố này đã khiến cho nguyên tắc chiếm hữu thực sự của Định ước Berlin có giá trị phổ biến trong luật pháp quốc tế để xem xét giải quyết các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia trên thế giới.

Nội dung chủ yếu của nguyên tắc chiếm hữu thật sự trong luật pháp quốc tế bao gồm:

1. Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do nhà nước tiến hành;

2. Sự chiếm hữu phải được tiến hành một cách hòa bình trên một vùng lãnh thổ vô chủ [res nullius] hoặc là trên một vùng lãnh thổ đã bị từ bỏ bởi một quốc gia đã làm chủ nó trước đó [derelicto]. Việc sử dụng vũ lực để xâm chiếm là hành động phi pháp;

3. Quốc gia chiếm hữu phải thực thi chủ quyền của mình ở những mức độ cần thiết, tối thiểu thích hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên vùng lãnh thổ đó;

4. Việc thực thi chủ quyền phải liên tục, hòa bình.

Do tính hợp lý và chặt chẽ của nguyên tắc này nên mặc dù Công ước Saint Germain ngày 10/8/1919 đã hủy bỏ Định ước Berlin 1885 vì lý do thế giới không còn lãnh thổ vô chủ nữa, các luật gia và các cơ quan tài phán quốc tế vẫn vận dụng nguyên tắc này để giải quyết các tranh chấp chủ quyền trên các hải đảo. Chẳng hạn, Tòa án trọng tài thường trực quốc tế La Haye vào tháng 04/1928 đã vận dụng nguyên tắc này để xử vụ tranh chấp đảo Palmas giữa Mỹ và Hà Lan hay phán quyết của Tòa án quốc tế của LHQ tháng 11/1953  đối với vụ tranh chấp chủ quyền giữa Anh và Pháp về các đảo Minquiers và Ecrchous...

Gần đây hơn, Tòa án công lý quốc tế đã quyết định cho Malaysia thắng trong vụ kiện với Indonesia vào tháng 12/2002  về chủ quyền đối với Pulau Ligitan và Pulau Sipadan vì Tòa nhận thấy rằng Malaysia đã thực hiện một cách thường xuyên một loạt các hoạt động của nhà nước.

Căn cứ vào nguyên tắc pháp lý nói trên, đối chiếu với quá trình xác lập và thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do các bên tranh chấp nêu ra, chúng ta chắc chắn sẽ có được những nhận xét khách quan và khoa học về quyền "thụ đắc lãnh thổ " đối với hai quần đảo này. 

Theo Hỏi - đáp về Luật biển Việt Nam

[Còn nữa]

Quyền thụ đắc lãnh thổ tuyệt đối

Quá trình thụ đắc lãnh thổ đối với Hoàng Sa và Trường Sa được Việt Nam thực hiện bằng phương thức chiếm hữu thực sự, hoàn toàn hợp pháp. Việt Nam kiên quyết, kiên trì đấu tranh hòa bình vì quyền thụ đắc lãnh thổ tuyệt đối này

  • Cuộc thi viết về chủ quyền biển đảo: Đồng vọng biển Đông

  • Cuộc thi viết về chủ quyền biển đảo: Phát triển bền vững kinh tế biển

  • Cuộc thi viết về chủ quyền biển đảo: "Đồng bằng là nhà, biển là cửa"

  • Cuộc thi viết “Chủ quyền biển đảo bất khả xâm phạm”: Mộ nước

Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là bộ phận lãnh thổ không thể tách rời của Việt Nam. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền đối với 2 quần đảo này. Tuy nhiên, hiện nay, có nhiều quốc gia trong khu vực có ý muốn xác lập chủ quyền phi pháp đối với một phần hoặc toàn bộ 2 quần đảo. Đó là hành động vi phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam.

Ở bài viết này, chúng ta sẽ cùng phân tích cơ sở pháp lý vững chắc của Việt Nam trong quá trình xác lập chủ quyền đối với hai quần đảo nhằm có cơ sở lý luận để phản bác các lập luận sai trái về chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa.

Trước hết, cần khẳng định: Luật Quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển [UNCLOS] 1982, là thước đo hợp pháp mà mọi chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế đều phải tuyệt đối tuân thủ. Đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế gồm nhiều lĩnh vực nhưng chủ yếu là mối quan hệ chính trị giữa các quốc gia, trong đó có vấn đề lãnh thổ.

Trong luật quốc tế có một khái niệm rất quan trọng quy định về việc thiết lập chủ quyền của một quốc gia đối với một vùng lãnh thổ mới, đó là khái niệm "thụ đắc lãnh thổ". Nguyên tắc cơ bản để xác lập hợp pháp danh nghĩa chủ quyền lãnh thổ của một quốc gia là phải dựa vào các phương thức thụ đắc lãnh thổ hợp pháp; chủ thể xác lập danh nghĩa chủ quyền phải có tư cách quốc gia và phải được tiến hành trên một đối tượng lãnh thổ phù hợp [lãnh thổ vô chủ hoặc lãnh thổ bị bỏ rơi].

Bên cạnh đó, quốc gia muốn được công nhận là chủ sở hữu vùng đất mới, ngoài việc là chủ thể đầu tiên phát hiện thì phải tiếp theo đó có các hành động thực tế là thông báo về việc chiếm hữu và duy trì quyền lực một cách phù hợp trên vùng đất đó.

Xét về quá trình thụ đắc lãnh thổ, Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa từ khi còn là "đất vô chủ". Việt Nam cũng là quốc gia duy nhất thực hiện chủ quyền đối với 2 quần đảo này hòa bình, liên tục và không gặp phải sự phản đối của bất kỳ quốc gia nào.

Cụ thể là, thứ nhất, quá trình phát hiện và chiếm hữu của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hoàn toàn phù hợp với luật quốc tế. Ngay từ thế kỷ XVII, với tư cách nhà nước Đại Việt, chính quyền Đàng Trong đã bắt đầu chiếm hữu và thực thi chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Có rất nhiều tư liệu chính thống ghi nhận về vấn đề này, đó là các ấn bản sách cổ, chỉ dụ, sắc phong, các tấm bản đồ cổ được lưu giữ tại Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, điển hình như: "Phủ biên tạp lục" [hoàn thành năm 1776] của Lê Quý Đôn; "Lịch triều hiến chương loại chí" [1809-1819] của Phan Huy Chú; "An Nam đại quốc họa đồ" [xuất bản năm 1838] của giám mục người Pháp Louis Taberd; "Đại Nam nhất thống toàn đồ" [vẽ năm 1834, xuất bản năm 1838]...

Lực lượng Cảnh sát biển tập luyện, sẵn sàng chiến đấu, thực thi nhiệm vụ trên biển [Ảnh tư liệu Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển]

Đặc biệt, bộ Atlas thế giới của nhà địa lý Philipe Vandemaelen xuất bản năm 1827 tại Bỉ đã vẽ và miêu tả rõ quần đảo Hoàng Sa thuộc lãnh thổ của Vương quốc An Nam.

Như vậy, có thể khẳng định, quá trình thụ đắc lãnh thổ đối với Hoàng Sa và Trường Sa được Việt Nam thực hiện bằng phương thức chiếm hữu thực sự, hoàn toàn hợp pháp khi chủ thể xác lập danh nghĩa chủ quyền là chính quyền Đàng Trong, đại diện cho nhà nước Đại Việt và khi đó, Hoàng Sa, Trường Sa vẫn đang là những lãnh thổ vô chủ.

Thứ hai, Việt Nam đã duy trì quyền lực thực tế tại 2 quần đảo một cách công khai, liên tục. Năm 1816, vua Gia Long chính thức tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Trước đó, các chúa Nguyễn thành lập các đội Hoàng Sa, Bắc Hải, trao nhiệm vụ khai thác, tuần tiễu, thu thuế và bảo vệ 2 quần đảo.

Cùng với việc xác lập chủ quyền, chính quyền phong kiến Việt Nam đã có nhiều hoạt động thực tế nhằm duy trì chủ quyền đối với 2 quần đảo. Chính quyền nhà Nguyễn đã cho dựng bia, cắm mốc chủ quyền trên các hòn đảo và tổ chức đơn vị hành chính tại Hoàng Sa.

Thời Pháp, với tư cách là đại diện cho Nhà nước Việt Nam về mặt đối ngoại theo Hiệp ước Patenotre [1884], chính quyền thực dân Pháp đã tiến hành bảo vệ và quản lý 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo đúng thủ tục pháp lý đương đại. Pháp đã chính thức tuyên bố kế thừa và quy thuộc 2 quần đảo vào các tỉnh đất liền, đặt quân đồn trú, xây cột mốc chủ quyền, xây hải đăng, trạm khí tượng, trạm vô tuyến điện trên 2 quần đảo.

Điểm đáng chú ý, các hành động của chính quyền phong kiến Việt Nam và chính quyền thực dân Pháp liên quan đến vấn đề xác lập, tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa lúc bấy giờ không gặp phải sự phản đối của bất cứ quốc gia nào.

Sau năm 1954, các chính thể miền Nam Việt Nam đã liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước và hoạt động thực thi chủ quyền. Sau khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng và tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam, Nhà nước CHXHCN Việt Nam đã tiếp tục quản lý và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

Năm 1982, Chính phủ đã quyết định thành lập các đơn vị hành chính huyện Hoàng Sa thuộc TP Đà Nẵng và huyện Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa.

Như vậy, suốt hàng trăm năm qua, ngay sau khi có những hoạt động tuyên bố chủ quyền, các chính quyền Việt Nam đã liên tục duy trì quyền lực thực tế của mình tại 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chủ quyền của Việt Nam hiện nay đối với Hoàng Sa và Trường Sa có tính kế thừa quốc gia. Việt Nam không chỉ thừa hưởng quyền mà còn sẵn sàng chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế của các chính quyền trước. Đó là điều kiện đủ, là căn cứ vững chắc, không thể chối cãi để pháp luật quốc tế công nhận chủ quyền tuyệt đối của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Hiện nay, quá trình đấu tranh bảo vệ chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa ngày càng cam go, phức tạp. Chủ trương của Đảng và Nhà nước trong bảo vệ chủ quyền biển đảo nói chung, chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa nói riêng là kiên quyết, kiên trì tiến hành những biện pháp hòa bình, trong đó có việc áp dụng các quy định của luật pháp quốc tế để mang lại nhận thức chung cho dư luận tiến bộ trên thế giới, ủng hộ công cuộc đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam.

Luôn sẵn sàng tinh thần chiến đấu bảo vệ chủ quyền

Cùng với Hải quân, lực lượng Cảnh sát biển với vai trò nòng cốt trong thực thi pháp luật và bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển luôn phát huy được xác định là lực lượng chủ công trong cuộc đấu tranh này. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ nhiều giải pháp xây dựng lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại và có tính chuyên nghiệp cao, đáp ứng yêu cầu quản lý, thực thi pháp luật trên biển trong tình hình mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Do đó, mỗi cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển phải nhận thức sâu sắc, đầy đủ, nắm chắc quy định của pháp luật quốc tế, rèn luyện ý chí quyết tâm cao, luôn sẵn sàng tinh thần chiến đấu, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của đất nước.

Thượng úy Nghiêm Thanh Tùng [Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam]

Video liên quan

Chủ Đề