Sáng kiến kinh nghiệm tạo hứng thú học tập cho học sinh

pdf

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ 5-6 tuổi trong việc hình thành các biể...

16 0 79
docx

Sáng kiến kinh nghiệm Trung học cơ sở: Rèn luyện kỹ năng giải phương trình cho học sinh lớp 8A1 trường THCS Thiện Ngôn b...

42 0 50
pdf

Luận án tiến sĩ Báo chí học: Hoạt động truyền thông của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương tại Việt Nam

254 0 5
doc

Sáng kiến kinh nghiệm: Phương pháp sử dụng phiếu học tập trong giảng dạy bài 10 và 11 - Sinh học 10

18 0 13
doc

Sáng kiến kinh nghiệm: Biện pháp giúp học sinh học tốt và nâng cao chất lượng ở phân môn thường thức Mỹ thuật lớp 6-9

20 0 2
Sáng kiến kinh nghiệm GV: Trương Thị Thúy Bảo A. PHẦN MỞ ĐẦU: I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Theo nghị quyết 4 của BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII [1 1993] đã khẳng định rằng Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ VIII một lần nữa khẳng định: Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Điều đó thể hiện được tầm quan trọng của việc đào tạo thế hệ trẻ cho đất nước. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Chính vì thế trong những năm gần đây đất nước ta đang đẩy mạnh công cuộc xã hội hóa giáo dục. Biên soạn lại sách giáo khoa cho các bậc học theo phương pháp tích cực. Hoạt động của học sinh được yêu cầu cao hơn để giúp người học tích cực, chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức và vận dựng linh hoạt vào thực tiễn. Đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi người giáo viên phải luôn đổi mới phương pháp dạy học của mình theo hướng tích cực, đồng thời phải luôn tìm tòi, học hỏi, sáng tạo trong quá trình dạy học. Qua thực tiễn giảng dạy bộ môn hóa học cấp THCS, tôi nhận thấy hóa học là bộ môn khoa học tự nhiên mà học sinh được tiếp cận muộn nhất, nhưng nó lại có vai trò rất quan trọng trong nhà trường phổ thông. Môn hóa học cung cấp cho học sinh hệ thống kiến thức phổ thông, cơ bản và thiết thực đầu tiên về hóa học, rèn cho học sinh óc tư duy sáng tạo và khả năng trực quan nhanh nhạy. Hình thành cho các em những phẩm chất cần thiết như cẩn thận, kiên trì, trung thực, tỉ mỉ và yêu thích khoa học. Như chúng ta đã biết những biến đổi hóa học vô cùng phong phú, một số phản ứng hóa học có kèm theo hiện tượng kì lạ như phát ra tiếng kêu hoặc tiếng nổ, tự bốc cháy hay tự phát ra ánh sáng lạnh, tạo ra chất kết tủa hay làm chất kết tủa tan đi, làm màu sắc biến đổi khôn lường như có phép thần thông biến hóa. .. Với mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và dạy môn hóa nói riêng, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn hóa học, tôi mạnh dạn tiến hành nghiên cứu chuyên đề: Cách tạo hứng thú học tập cho học sinh khi bắt đầu tiếp cận môn hóa học bằng những thí nghiệm vui. 1 Sáng kiến kinh nghiệm GV: Trương Thị Thúy Bảo II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: - Nghiên cứu lí luận và mục tiêu dạy học nói chung và bộ môn hóa học nói riêng trên cơ sở đó thực hiện một số thí nghiệm hóa học vui để gây hứng thú cho việc học tập bộ môn hóa học. - Từ việc nghiên cứu Tính chất của chất và sự biến đổi của chất mà học sinh giải thích được một số hiện tượng trong tự nhiên, đời sống và sản xuất. - Nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học bộ môn theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác và sáng tạo của học sinh. Hình thành lòng say mê, yêu thích môn học từ đó hình thành và phát triển năng lực tự học, tự bồi dưỡng kiến thức ở học sinh. - Ngoài ra đề tài còn có thể là một tài liệu tham khảo bổ ích cho các bạn đồng nghiệp. III. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU: Học sinh lớp 8, 9 [đặc biệt là học sinh khá giỏi] IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Tập trung nghiên cứu nội dung chương trình dạy học bộ môn, nội dung sách giáo khoa, đối tượng học sinh và việc thực hiện mục tiêu dạy học hiện nay. V. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: - Phương pháp nghiên cứu lí luận: Phân tích tổng hợp khái quát. - Phương pháp điều tra sư phạm. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm. 2 Sáng kiến kinh nghiệm GV: Trương Thị Thúy Bảo B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI: CHƢƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC I. CƠ SỞ LÍ LUẬN: - Quy luật của quá trình nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Song quá trình nhận thức đạt hiệu quả cao hay không, có bền vững hay không còn phụ thuộc vào tính tích cực, chủ động sáng tạo của chủ thể. - Đặc điểm của lứa tuổi thiếu niên là đang có xu hướng vươn lên làm người lớn, muốn tự mình tìm hiểu, khám phá trong quá trình nhận thức. Ở lứa tuổi học sinh THCS có điều kiện thuận lợi cho khả năng tự điều chỉnh hoạt động học tập và tự sẵn sàng tham gia vào các hoạt động khác nhau. Các em có nguyện vọng muốn có các hình thức học tập mang tính chất Người lớn. Tuy nhiên nhược điểm của các em là chưa biết cách thực hiện nguyện vọng của mình, chưa nắm được cách thức học tập mới cho bộ môn mà mình được tiếp cận năm học lớp 8. Vì vậy, cần có sự hướng dẫn, điều hành một cách khoa học và nghệ thuật sư phạm của thầy cô. Trong lí luận về phương pháp dạy học cho thấy, sự thống nhất giữa sự hướng dẫn của thầy và hoạt động học tập của trò có thể thực hiện được bằng cách quán triệt quan điểm hoạt động. Dạy học theo phương pháp mới phải làm cho học sinh chủ động suy nghĩ nhiều hơn, thực hành nhiều hơn trong quá trình chiếm lĩnh tri thức hóa học. Quan điểm dạy hóa học là phải dạy suy nghĩ, dạy khả năng quan sát thí nghiệm và các hiện tượng trong tự nhiên... để từ đó phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa... . Trong đó phân tích tổng hợp có vai trò trung tâm, tự mình phát hiện và phát biểu vấn đề dự đóan được các kết quả và chứng minh được dự đoán đó. 3 Sáng kiến kinh nghiệm GV: Trương Thị Thúy Bảo II. CƠ SỞ THỰC TIỄN: - Hiện nay trong nhà trường phổ thông nói chung còn nhiều học sinh lười học, lười tư duy trong quá trình học tập. - Học sinh chưa hứng thú khi học tập đối với bộ môn được tiếp cận muộn và kiến thức khá trừu tượng. Do đó, chưa định hướng phương pháp học tập hợp lí để chiếm lĩnh tri thức một cách chủ động. Trong những năm gần đây các trường THCS đã có những chuyển đổi tích cực trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy. Học sinh cũng đã chủ động nghiên cứu tìm tòi khám phá kiến thức xong chỉ dừng lại ở việc giải những bài tập định tính và định lượng đơn giản. - Vấn đề thực hiện các thao tác làm thí nghiệm hóa học và vận dụng vào thực tiễn nhằm tăng khả năng tư duy của học sinh sau khi học xong lí thuyết là hết sức khó khăn. Ví dụ: Trong SGK hóa học 8: Chương IV bài 4 Nước Sau khi học xong nội dung bài, giáo viên có thể kiểm tra mức độ nắm kiến thức trong bài của các em như thế nào, bằng cách làm thí nghiệm vui Ðiệu vũ natri. Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát và giải thích hiện tượng. Ðổ 30ml nước cùng vài giọt phenolphtalein vào một cốc dung dịch 100ml và rót 50ml dầu hỏa lên trên mặt nước. Lấy một miếng natri cạo sạch nhỏ bằng hạt đậu đặt cẩn thận lên lớp dầu hỏa. Natri chìm xuống, nổi lên rồi lại chìm xuống, cứ như thế khoảng 10 12 lần cho đến khi miếng natri tan hết. Trong khi đó lớp nước phía dưới từ trong suốt trở thành đỏ hồng. + Khi chưa thực hiện chuyên đề này, tôi yêu cầu học sinh giải quyết vấn đề thì thấy kết quả như sau: 100% học sinh rất thích thú khi quan sát thí nghiệm, nhưng chưa biết giải thích hiện tượng. Sau đó, tôi gợi ý Thí nghiệm có liên quan đến chất nào? Tính chất của chất đó là gì?... lúc này đã có khoảng 20% học sinh nghĩ đến việc dùng tính chất hóa học của nước với một số kim loại kiềm để giải thích. Nhưng các em vẫn chưa giải thích đựơc vì sao nước lại chuyển sang màu hồng. 4 Sáng kiến kinh nghiệm GV: Trương Thị Thúy Bảo + Sau đó tôi nghiên cứu, hướng dẫn học sinh theo chuyên đề này thì hơn 70% số học sinh trong lớp đã xác định được ngay hướng giải thích hiện tượng và viết được phương trình hóa học minh họa, từ đó phát triển tư duy hóa học để vận dụng trong đời sống và giải thích một số hiện tượng trong tự nhiên. Giải thích: Natri nặng hơn dầu hỏa nên chìm xuống. Nhưng khi tiếp xúc với nước nó lập tức tác dụng với nước giải phóng khí H2. Bọt khí H2 bao bọc mẩu natri và đệm khí đó đẩy nó nổi lên lớp dầu hỏa. Tại đây, các bọt khí tách ra và mẩu natri bị chìm xuống. Dung dịch trở nên màu đỏ hồng là sau phản ứng tạo ra dung dịch kiềm. 2Na + 2H2O 2NaOH + H2 Sau đây là phần trình bày nội dung và các bước tiến hành chuyên đề của tôi: CHƢƠNG II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Dựa trên kiến thức hóa học cơ bản trong chương trình hóa 8, 9 tôi xây dựng hệ thống thí nghiệm vui giúp học sinh phát triển khả năng quan sát, phân tích tổng hợp các hiện tượng từ thí nghiệm. Từ đó khái quát hóa kiến thức mà mình được học vào giải quyết một số vấn đề liên quan trong thực tế. I. Trong chƣơng trình hóa học 8: I. 1. Thí nghiệm vui dựa vào kiến thức bài Sự biến đổi của chất Núi lửa phun Lấy 100g mạt sắt mịn cùng với 50g lưu huỳnh bột. Trộn kĩ và đổ vào một chút ít nước nóng cho đến khi hỗn hợp trở nên sền sệt. Sau đó, đặt hỗn hợp lên đĩa hoặc khay sắt và lấy đất sét nhão trộn với những hòn sỏi nhỏ, đắp phủ lên hỗn hợp mạt sắt và lưu huỳnh, sao cho giống như một ngọn núi thức sự. Dùng que gỗ chọc từ miệng núi một lỗ, qua lớp đất sét. 5 Sáng kiến kinh nghiệm GV: Trương Thị Thúy Bảo Sau 10 12 phút núi lử tí hon bắt đầu hoạt động. Từ miệng phun, khói bốc mù mịt và dung nham phun trào ra dữ dội, giống hệt một ngọn núi lửa trong thiên nhiên, chỉ thiếu tiếng nổ. Giải thích: Fe và S sau khi tiếp xúc với nhau một thời gian ngắn, bắt đầu phản ứng tạo thành FeS. Fe + S t0 FeS Phản ứng tỏa nhiệt mạnh làm nước bốc hơi và cũng nhờ nhiệt phản ứng mạnh, làm cả khối sôi trào ra ngoài. I.2. Thí nghiệm dựa vào kiến thức điều chế oxi trong phòng thí nghiệm: * Nguyên tắc điều chế Oxi trong phòng thí nghiệm là nhiệt phân các hợp chất giàu nguyên tử oxi và dễ bị phân hủy ở nhiệt độ cao. Pháo hoa từ miệng ống nghiệm Trộn nửa thìa kali pemanganat KMnO4 và cũng chừung ấy than gỗ nghiền nhỏ. Đổ cả hỗn hợp ấy vào một ống nghiệm, kẹp chặt và đốt nóng. Một lúc sau, từ miệng ống nghiệm sẽ bắn ra một bó những tia lửa sáng rực nhưu chùm hoa. Giải thích: Khi đun nóng KMnO4 bị nhiệt phân giải phóng ra oxi. 2KMnO4 t0 K2MnO4 + MnO2 + O2 Oxi được giải phóng sẽ đốt cháy các hạt than rất nhỏ đã được đun nóng. Khí oxi thoát ra từu trong hỗn hợp làm bắn tung các hạt than đang cháy lên. Cháy ở dưới nước Sục đầu ống dẫn khí vào nước trong chậu, lửa cháy sáng từng hồi, trông thật kì lạ. 6 Sáng kiến kinh nghiệm GV: Trương Thị Thúy Bảo Cách làm và giải thích: Đun nóng khoảng 200 cm3 nước trong chậu cho tới 700C rồi bỏ vào đó vài mẫu phôtpho trắng. Sục ống dẫn khí O2 từu bình điều chế oxi vào chậu, phôtpho trắng gặp O2 sẽ cháy sáng. O2 điều chế bằng cách nhiệt phân KClO3 có xúc tác là MnO2 hoặc nhiệt phân KMnO4. MnO2 2KClO3 2KCl + 3O2 I.3. Thí nghiệm dựa vào tính chất hóa học của Nƣớc I.3.1. Nước tác dụng với một số kim loại kiềm [K, Na] tạo dung dịch bazơ và giải phóng khí hiđro. Bắn cháy tàu chiến dịch Dùng loại giấy thấm nước để gấp một cái tàu chiến. Bỏ vào trong tàu một mẫu kim loại natri [hoặc kali] to bằng hạt đậu xanh rồi thả vào chậu nước đã được thêm vài giọt phenolphtalein không màu. Sau vài phút tàu sẽ tự bốc cháy và nước trong chậu có loang màu hồng từ chỗ con tàu cháy, giống như cảnh tàu chiến địch bị bắn cháy, máu giặc nhuốm đỏ dòng sông. Giải thích: - Nước tấm qua giấy, tác dụng với natri [hoặc kali], theo phương trình phản ứng sau: 2Na + 2H2O 2K + 2H2O 2NaOH + H2 2KOH + H2 Phản ứng trên tỏa nhiều nhiệt, làm cho khí H2 thoát ra tự bốc cháy, đồng thời NaOH [hoặc KOH] tạo thành làm cho phenolphtalein không màu chuyển sang màu hồng. Chú ý: Trong thí nghiệm trên, mẩu natri hoặc kali nhất thiết chỉ lấy dược to bằng hạt đậu xanh. Nếu lấy to hơn, phản ứng xảy ra mảnh liệt, sẽ nổ, nguy hiểm. 7 Sáng kiến kinh nghiệm GV: Trương Thị Thúy Bảo I.3.2. Nước tác dụng với một số oxit axit tạo dung dịch axit tương ứng Cháy ở dưới nước Cho nước vào khoảng một nửa thể tích của ống nghiệm. Nhúng ống nghiệm vào cốc nước nóng khoảng 80oC và cho vào trong ống nghiệm một mẫu phốtpho trắng to bằng hạt ngô. Khi phôtpho trắng đã nóng chảy [44 oC] thì dẫn luồng khí oxi vào ống nghiệm cho tiếp xúc với phôtpho trắng nóng chảy. Phôtpho cháy mạnh, phát sáng trong ống nghiệm chứa nước. Sau thu được một dung dịch trong suốt làm quỳ tím chuyển sang màu đỏ. Giải thích: Oxi tiếp xúc với phôtpho trắng nóng chảy, xảy ra phản ứng tạo P2O5 , theo phương trình phản ứng sau: 4P + 5O2 t0 2P2O5 [điphotphopentaoxit] Phản ứng trên tỏa nhiều nhiệt, P2O5 tiếp tục tác dụng với nước tạo dung dịch axit phôtphoric [H3PO4], theo phương trình phản ứng sau: P2O5 + 3H2O 2H3PO4 [axit phôtphoric] Dung dịch axit phôtphoric làm quỳ tím chuyển sang màu đỏ. Chú ý: phốtpho trắng độc nên cần rửa tay sau khi làm thí nghiệm II. Trong chƣơng trình hóa học 9: II.1. Thí nghiệm dựa trên tính háo nƣớc của axit sunfuric [H 2SO4]: Hóa than mà không cần đốt cháy Đổ 6g đường bột vào một cốc cao và hẹp, đặt lên đĩa, rót và cốc 5ml H 2SO4 đậm đặc rồi trộn nhanh các chất này. Khối chất trong cốc bắt đầu hóa đen, phồng ra dâng cao lên, cuối cùng bò ra khỏi miệng cốc, đông đặc lại ở dạng kì quái, uốn cong thành hình dấu phẩy. Giải thích: 8 Sáng kiến kinh nghiệm GV: Trương Thị Thúy Bảo H2SO4 rất háo nước. Đường bột còn gọi là hiđrat cacbon vì công thức của chúng có thể viết dưới dạng cacbon ngậm nước. Chẳng hạn, đường săccarozơ [C12H22O11] có thể viết là C12[H2O]11. Axit đặc phân hủy đường, chiếm nước, giải phóng cacbon. H2SO4 đặc C12[H2O]11 12C + 11H2O + Q Phản ứng trên tỏa nhiều nhiệt, do nhiệt độ tăng một phần, cacbon tác dụng với H2SO4 tạo thành khí SO2 và khí CO2. C + 2H2SO4 CO2 + 2SO2 + 2H2O Các khí đó làm cacbon trở nên xốp và tăng thể tích, làm cho nó bò ra ngoài cốc. Chú ý: Tránh để dây axit vào quần áo và không sờ tay vào dấu phẩy. Mực bí ẩn Dựa trên tính háo nước của axit sunfuric [H2SO4] để làm mực bí ẩn. Lấy đũa thủy tinh chấm dung dịch H2SO4 loãng để viết lên giấy một bức thư ngắn, nét chữ sẽ không có màu. Hơ bức thư lên bếp than hoặc bàn là, nước ở nét chữ sẽ bay hơi làm cho H 2SO4 trở nên đậm đặc, nó sẽ chiếm nước của chất xenlulozơ là thành phần chính của giấy và giải phóng cacbon, làm cho nét chữ hóa đen. H2SO4 đặc [C6H10O5]n 6n CO2 + 5n H2O Xenlulozơ Những chiếc cốc thần Bạn bày một loạt những chiếc cốc không lên bàn và tuyên bố Đây là nhữung chiếc cốc thần. Bạn lần lượt ném những mẫu bông tẩm cồn vào các cốc trên, các mẫu bông sẽ tự bốc cháy. 9 Sáng kiến kinh nghiệm GV: Trương Thị Thúy Bảo Cách làm và giải thích: Ở đáy mỗi cốc bạn bôi một ít hỗn hợp sền sệt của KMnO4 và H2SO4 đậm đặc sẽ sinh ra axit pemanganic [HMnO4]. Với lượng nhỏ hỗn hợp này ở đáy cốc ngừơi xem sẽ không nhìn thấy. H2SO4 + 2KMnO4 K2MnO4 + 2HMnO4 Dưới tác dụng của H2SO4 đậm đặc, HMnO4 mất nước tạo Mn2O7. Chất này có tính oxi háo cực kì mạnh. Rựơu, ete và nhiều chất hữu cơ khác bốc cháy khi tiếp xúc với anhiđric pemanganic [ Mn2O7]. Đó là nguyên nhân vì sao khi ném những mẫu bông được tẩm cồn vào cốc, các mẫu bông sẽ tự bốc cháy. II.2. Thí nghiệm dựa trên tính chất hóa học của kim loại: Biến đồng thành bạc Ai cũng biết bạc là kim loại quý, thế mà ta có thể biến đồng thành bạc như một nhà giả kim thuật thời Trung Cổ. Lấy một vật nào đó bằng đồng, ví dụ cái chìa khóa. Nhúng chìa khóa vào dung dịch HNO3 loãng, sau đó rửa sạch bằng nước [ không để lâu vì HNO 3 hòa tan đồng]. Thả chìa khóa vào dung dịch HgCl2. Sau đó vài phút lấy chiếc chìa khóa ra, chìa khóa có màu rất bẩn. Nhưng nếu lấy tờ giấy lọc hoặc mảnh vải lau thật sạch, chìa khóa sẽ sáng bóng trắng như bạc vậy. Giải thích: Trong thí nghiệm này xảy ra phản ứng hóa học Cu + HgCl2 CuCl2 + Hg Thủy ngân sinh ra có đặc tính kết hợp với đồng bám chặt lên mặt đồng làm cho chìa khóa sáng như bạc, chứ không phải là những giọt thủy ngân rời rạc. Chú ý: Rửa sạch tay sau khi làm thí nghiệm vì thủy ngân rất độc. Cây Diana 10

Video liên quan

Chủ Đề