So sánh thị trường trực tiếp và gián tiếp

Phá vỡ ranh giới đối với doanh nghiệp và xuất khẩu ra thị trường nước ngoài là một cách tuyệt vời để đưa doanh nghiệp lên một tầm cao mới. Mở rộng nhóm khách hàng tiềm năng và xây dựng về sự công nhận thương hiệu trên toàn cầu. Có hai hình thức xuất khẩu hiện nay là xuất khẩu trực tiếp xuất khẩu gián tiếp. Trong bài viết này, cùng Innovative Hub so sánh hai hình thức xuất khẩu trực tiếp và gián tiếp để xác định mô hình nào là phù hợp nhất với doanh nghiệp của bạn với một số khía cạnh như ưu điểm, nhược điểm và trường hợp sử dụng tốt nhất của từng loại.

XUẤT KHẨU TRỰC TIẾP LÀ GÌ

Xuất khẩu là hành vi bán một thứ gì đó cho người mua ở quốc gia khác, thường được gọi là “Thương mại quốc tế”. Lợi ích lớn nhất mà xuất khẩu mang lại là mở rộng cơ sở khách hàng của doanh nghiệp bằng cách khai thác nhu cầu nước ngoài. Điều này giúp doanh nghiệp nâng cao doanh số bán hàng, có thêm thu nhập tiềm năng trong khi giảm sự phụ thuộc vào thị trường nội địa.

Xuất khẩu trực tiếp là hình thức doanh nghiệp trực tiếp bán cho người mua ở nước ngoài, không thông qua trung gian, nghĩa là với tư cách người bán, doanh nghiệp không mất các khoản chi phí cho bên thứ ba. Một số doanh nghiệp có thể mở chi nhánh ở nước ngoài tại quốc gia mà họ dự định mở rộng hoặc có đại diện kinh doanh tại nước của họ.

Với xuất khẩu trực tiếp, công ty xuất khẩu sẽ xử lý tất cả các giao tiếp với khách hàng và các cuộc đàm phán với các doanh nghiệp quốc tế. Điều này bao gồm cả việc tự chịu trách nhiệm để có được khách hàng mới, thiết lập hợp đồng, hoạt động tiếp thị, bán hàng, giao dịch với hậu cần và thanh toán quốc tế. Doanh nghiệp phải kiểm soát mọi giao dịch, có nghĩa là bạn có thể đại diện cho thương hiệu của mình theo cách có ý nghĩa nhất. Khi có đủ các nguồn lực cần thiết, nó có thể hoạt động sinh lợi lợi cho doanh nghiệp của bạn.

Doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp có nhiều đặc quyền, nhưng đối với những người bán mới bắt đầu tấn công ra thị trường nước ngoài thì đây không phải là một sự lựa chọn thông minh. Tuy nhiên, trong trường hợp mọi thứ diễn ra không như kế hoạch và bạn quyết định rút khỏi thị trường nước ngoài, bạn không phải lo lắng về việc tổn thất tài chính quá nhiều vì xuất khẩu trực tiếp không sử dụng hợp đồng với người trung gian.

Ưu điểm của xuất khẩu trực tuyến

  • Mức độ kiểm soát cao hơn đối với tất cả các giai đoạn của quá trình giao dịch.
  • Loại bỏ các bên trung gian và sở hữu tỷ suất lợi nhuận cao hơn.
  • Sở hữu các mối quan hệ khách hàng của mình
  • Linh hoạt hơn để chuyển hướng hoặc rút lui khỏi các hoạt động tiếp thị.
  • Trải nghiệm thực tế cung cấp nhiều thông tin chi tiết về thị trường để tăng khả năng cạnh tranh.
  • Làm việc trực tiếp với người mua giúp xây dựng lòng trung thành với thương hiệu.

Nhược điểm của xuất khẩu trực tuyến

  • Gây khó khăn cho người bán có kinh nghiệm và nguồn lực hạn chế
  • Yêu cầu đầu tư tài chính cao hơn để thực hiện tất cả các hoạt động xuất khẩu
  • Yêu cầu các nhóm có kiến ​​thức chuyên môn chuyên biệt, điều này có nghĩa là doanh nghiệp phải tuyển dụng các vị trí mới.
  • Nhiều trách nhiệm hơn với nhiều mức độ rủi ro cao hơn
  • Phải tự tìm người mua và nuôi dưỡng cơ sở khách hàng của riêng mình

XUẤT KHẨU GIÁN TIẾP LÀ GÌ

Xuất khẩu gián tiếp là hình thức mà doanh nghiệp thực hiện bán hàng cho một công ty hoặc bên thứ ba sau đó bán hàng trực tiếp cho người mua hoặc nhà nhập khẩu quốc tế. Xuất khẩu gián tiếp có liên quan đến bên trung gian để xử lý hầu hết các hoạt động của xuất khẩu nên đây là cách tiếp cận ít tốn kém nhất và nhanh nhất để thâm nhập vào thị trường quốc tế đối với các công ty nhỏ.

Có hai loại công ty hoặc bên thứ ba là Công ty Thương mại Xuất khẩu (ETC – các công ty sẽ mua sản phẩm của bạn thay mặt cho khách hàng) và Công ty Quản lý Xuất khẩu (EMC – chỉ quản lý các giao dịch cho doanh nghiệp của bạn).

Ưu điểm của xuất khẩu gián tiếp

  • Công việc được xử lý bởi bên trung gian, từ vận chuyển quốc tế đến các khía cạnh pháp lý và tài chính của thương mại toàn cầu, vì vậy doanh nghiệp của bạn không cần phải lo lắng về điều đó.
  • Không yêu cầu kinh nghiệm hoặc kiến ​​thức xuất khẩu và không yêu cầu doanh nghiệp của bạn phải tuyển thêm nhân sự.
  • ETC và ECM có thể khai thác các mối quan hệ đối tác hiện có, giúp bạn mở rộng toàn cầu nhanh hơn và tăng doanh số bán hàng của mình.
  • Ít giới hạn hơn về nơi bạn có thể bán.
  • Bạn không cần phải đầu tư thời gian và ngân sách để tìm người mua.

Nhược điểm của xuất khẩu gián tiếp

  • Sở hữu ít tỷ suất lợi nhuận hơn, vì lợi nhuận sẽ được chia cho nhà xuất khẩu hoặc các đại lý.
  • Có ít quyền kiểm soát hơn đối với giá cả sản phẩm và cách thương hiệu của sản phẩm mà doanh nghiệp của bạn được đại diện trên toàn thế giới.
  • Phụ thuộc quá nhiều vào cam kết với đối tác và nếu người trung gian làm việc kém năng lực hơn, điều đó có thể cản trở hoạt động xuất khẩu và bán hàng nói chung của công ty bạn.
  • Không sở hữu mối quan hệ với khách hàng và không thể cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng.
  • Không thể thực hành tìm hiểu về thị trường; không thể phát triển giao tiếp cũng như hiểu biết về xu hướng thị trường và người tiêu dùng.

TRƯỜNG HỢP NÀO NÊN SỬ DỤNG XUẤT KHẨU TRỰC TIẾP VÀ XUẤT KHẨU GIÁN TIẾP

Xuất khẩu trực tiếp phù hợp cho các công ty lớn có đủ nguồn lực để đầu tư vào đội ngũ chuyên môn để thâm nhập thị trường nước ngoài. Nếu doanh nghiệp của bạn đang xem xét xuất khẩu trực tiếp, nên kiểm tra xem các quốc gia mà bạn định xuất khẩu có hướng dẫn tương tự về sản phẩm, dịch vụ và cách bán hay không. Ngoài ra, doanh nghiệp nên đánh giá khả năng sinh lời dựa trên khoảng cách thực tế giữa hàng tồn kho và các địa điểm sẽ bán hàng. Nếu các chi phí quá đắt để vận chuyển sản phẩm đến một điểm đến cụ thể, tốt hơn hết là không nên bán hàng ở quốc gia đó hoặc tham khảo hình thức xuất khẩu gián tiếp để cắt giảm chi phí.

Xuất khẩu gián tiếp phù hợp với các doanh nghiệp nhỏ mới tham gia xuất khẩu và thương mại quốc tế hoặc không có đủ nguồn lực để xây dựng đội ngũ xuất khẩu chuyên biệt.

Dưới các góc nhìn khác nhau, thị trường tài chính được phân thành các thị trường bộ phận khác nhau. Việc phân loại đó cũng chỉ là tương đối, tuỳ vào điều kiện phát triển thị trường tài chính và tập quán mỗi quốc gia. Ví dụ, thị trường tài chính ở Mỹ được cấu trúc bởi thị trường tiền tệ và thị trường vốn, nhưng ở Pháp, thị trường tài chính và thị trường tiền tệ tạo nên thị trường vốn. ở nước ta hiện nay, tuy thị trường tài chính chưa phát triển hoàn chỉnh nhưng cấu trúc thị trường tài chính gần giống như quan niệm ở Mỹ.

a. Căn cứ theo phương thức vận động của luồng tài chính.

Với căn cứ này, thị trường tài chính được phân chia thành hai thị trường bộ phận là: thị trường tài chính gián tiếp và thị trường tài chính trực tiếp.

a1 Thị trường tài chính gián tiếp.

Gián tiếp ở đây được hiểu là người có vốn dư thừa cần cho vay không chuyển vốn trực tiếp đến người cần vốn phải đi vay mà chuyển qua một người thứ ba. Người thứ ba này có chức năng làm trung gian môi giới giữa người muốn cho vay vốn và người cần vay vốn. Trên thị trường tài chính, các trung gian môi giới đó được gọi chung là các trung gian tài chính. Việc làm môi giới trung gian giữa người đi vay với người cho vay của trung gian tài chính hoàn toàn không phải là môi giới bằng "nước bọt" để hưởng hoa hồng, mà họ đi vay vốn của người cần cho vay và tìm người cần vay để cho vay lại. Giá cho vay - bán vốn của trung gian tài chính bao giờ cũng cao hơn giá đi vay - mua vốn của họ, bởi lẽ họ cần phần chênh lệch giữa chi phí cho vay và đi vay để trang trải chi phí làm trung gian và có lợi tức.

Như vậy, trong thị trường tài chính gián tiếp, người có vốn cho trung gian tài chính vay và người cần vốn đi vay của trung gian tài chính, giữa họ không hề quan tâm lẫn nhau. Người có vốn cho trung gian tài chính vay chỉ quan tâm đến mức lãi thu được, uy tín, khả năng hoàn trả của trung gian tài chính và tình hình ổn định giá trị đồng tiền mà họ đã cho vay. Trong khi đó, người cần vốn phải đi vay của trung gian tài chính thì quan tâm tới mức lãi phải trả, số tiền được vay, thời hạn vay, thủ tục

Các trung gian tài chính trên thị trường tài chính gián tiếp bao gồm: ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, công ty tài chính và các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác; trong đó ngân hàng thương mại đóng vai trò chủ yếu.

Như sơ đồ (1) nói trên, người cho trung gian tài chính vay vốn và người vay vốn của trung gian tài chính cũng có thể bao gồm: hộ gia đình và cá nhân, doanh nghiệp, chính phủ.

Thực tiễn đã rút ra rằng, những người chuyển vốn cho các trung gian tài chính vay trên thị trường tài chính gián tiếp thường là những người sợ mạo hiểm, muốn sinh lợi đồng vốn của mình nhưng muốn ăn chắc nên phải chấp nhận lợi tức thấp. Họ chủ yếu là những người không có cơ hội hoặc không muốn tự đầu tư, như: những người hưu trí, công nhân viên chức, hộ gia đình nhỏ,... ở các nước phát triển, phần lớn dân chúng nếu không mua cổ phiếu thì có một tài khoản tiền gửi tại ngân hàng.

a2. Thị trường tài chính trực tiếp.

Khác với thị trường tài chính gián tiếp, trên thị trường tài chính trực tiếp, vốn của người có vốn dư thừa được chuyển trực tiếp đến người thiếu vốn đầu tư. ở đây không có sự xuất hiện các trung gian tài chính, nhưng để vốn chuyển được từ người có vốn sang người cần vốn thì bản thân thị trường phải đóng vai trò môi giới, quản lý và hưởng phí hoa hồng.

Trên thị trường tài chính trực tiếp, người có vốn bỏ tiền ra mua các loại chứng khoán của người phát hành - người huy động vốn, có thể là doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần và chính phủ. Doanh nghiệp nhà nước phát hành trái phiếu công ty để huy động vốn, người mua trái phiếu công ty đó là người đầu tư trên thị trường tài chính trực tiếp. Công ty cổ phần phát hành cổ phần, người mua cổ phiếu của công ty là đầu tư trên thị trường tài chính trực tiếp. Tương tự như vậy, chính phủ phát hành trái phiếu chính phủ, việc mua trái phiếu chính phủ là đầu tư trên thị trường tài chính trực tiếp. Cũng cần phân tích rõ rằng, việc mua trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ như nói ở trên của một người nào đó, thực chất là đầu tư gián tiếp, nhưng về phương diện vận động của luồng tài chính thì vốn lại được chuyển trực tiếp từ người có vốn sang người cần vốn. Vì vậy, nó là hoạt động trên thị trường tài chính trực tiếp.

Thị trường tài chính trực tiếp là nơi để doanh nghiệp và chính phủ phát hành trái phiếu để huy động vốn. Tuy vậy, thị phần lớn của thị trường tài chính trực tiếp chính là nơi để các công ty cổ phần phát hành cổ phiếu huy động vốn chủ sở hữu. Những người muốn có thu nhập ổn định và ít rủi ro thường bỏ vốn dư thừa để mua trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty. Ngược lại, những người chấp nhận rủi ro và mong chờ mức lợi tức lớn thường bỏ vốn mua cổ phiếu.

b. Căn cứ theo thời hạn thanh toán của công cụ tài chính.

Theo cách phân chia này, thị trường tài chính được cấu trúc bởi thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Hiện đối với nước ta, sự phân chia này chưa thực rõ ràng và chưa thể chỉ ra đâu là khu vực chuyên môn hóa của thị trường tiền tệ, đâu là khu vực chuyên môn hóa của thị trường vốn. Ví dụ: cho vay trung và dài hạn đang thuộc khu vực thị trường tiền tệ.

b1. Thị trường tiền tệ:

Thị trường tiền tệ là thị trường trong đó bao gồm các giao dịch mua bán các công cụ tài chính có thời hạn thanh toán (đáo hạn) từ 12 tháng trở xuống. Theo thông lệ quốc tế, các công cụ trên thị trường tiền tệ có thời hạn thanh toán dưới 12 tháng.

Thị trường tiền tệ bao gồm 4 thị trường bộ phận chủ yếu: thị trường tín dụng ngắn hạn; thị

trường hối đoái (vàng và ngoại tệ); thị trường liên ngân hàng; thị trường mở. Trong đó thị trường tín dụng ngắn hạn và thị trường hối đoái có quan hệ trực tiếp đến hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Chủ thể của thị trường tín dụng ngắn hạn là các trung gian tài chính, những người cho trung gian tài chính vay là những người đi vay vốn của trung gian tài chính. Các trung gian tài chính là nơi cung cấp cho doanh nghiệp những khoản tín dụng ngắn hạn dưới các hình thức cho vay, chiết khấu, cầm cố. Và các trung gian tài chính là nơi để doanh nghiệp gửi vốn tạm thời nhàn rỗi, cung cấp các dịch vụ thanh toán, ngân quĩ cho doanh nghiệp. Chủ thể của thị trường hối đoái là người được phép kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc (trong đó chủ yếu là ngân hàng thương mại), các doanh nghiệp tham gia giao dịch hối đoái, ngân hàng trung ương tham gia thị trường để thực hiện chính sách tiền tệ và các cá nhân được phép giao dịch hối đoái có nhu cầu. Các doanh nghiệp có thể mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ tại ngân hàng thương mại để thực hiện giao dịch thanh toán, mua bán ngoại tệ phục vụ mục đích kinh doanh.

Sơ đồ: Mô tả cơ cấu thị trường tài chính phân loại theo thời hạn thanh toán 

So sánh thị trường trực tiếp và gián tiếp

b2. Thị trường vốn:

Thị trường vốn là thị trường trong đó bao gồm các giao dịch mua bán các công cụ tài chính có thời hạn thanh toán trên một năm.

Thị trường vốn có 4 thị trường bộ phận là: thị trường chứng khoán; thị trường tín dụng trung và dài hạn, thị trường cho thuê tài chính và thị trường cầm cố bất động sản.

Công cụ của thị trường vốn chủ yếu là: cổ phiếu; trái phiếu; hợp đồng cho thuê, cho vay và cầm cố trung và dài hạn; các chứng khoán trung và dài hạn khác.

Trong khu vực thị trường vốn, thị trường chứng khoán đóng vai trò chủ yếu. Chưa có thị trường chứng khoán, người ta chưa có khái niệm thị trường vốn.

Bên cạnh thị trường chứng khoán, thị trường cho thuê tài chính cũng ngày càng có thị phần quan trọng. ở nước ta thị trường tín dụng trung và dài hạn đang hoạt động chung với khu vực thị trường tiền tệ. Đối với thị trường cầm cố bất động sản chưa hoạt động mạnh vì luật sở hữu bất động sản của nước ta chưa hoàn thiện. Nội dung chương này chỉ giới thiệu một số nét cơ bản của thị trường chứng khoán.

c. Căn cứ theo cách thức huy động vốn.

Trên thị trường tài chính, doanh nghiệp có thể huy động vốn đầu tư sản xuất, kinh doanh từ các nguồn khác nhau và dưới các hình thức khác nhau, nhưng tổng hợp lại chỉ có hai cách sau:

- Nhận nợ với người có vốn cho vay dưới hình thức một hợp đồng thoả thuận, theo đó sau một thời hạn người nhận nợ phải trả vốn gốc và chịu thanh toán tiền lãi đều đặn hàng tháng hoặc năm, tiền lãi đó thanh toán bằng cách nào đó hai bên thoả thuận. Chẳng hạn tiền lãi có thể trả trước, trả sau, trả một lần hoặc chia ra nhiều lần.

- Bán một tỷ lệ vốn của doanh nghiệp cho người có tiền muốn đầu tư sinh lợi bằng cách phát hành các cổ phiếu tương ứng với phần vốn đó. Với cách này, doanh nghiệp huy động được vốn để đầu tư sản xuất, kinh doanh nhưng không phải nhận nợ phần vốn huy động ấy. Phần vốn do bán cổ phiếu là vốn sở hữu của doanh nghiệp nhưng do người có vốn mua cổ phiếu làm chủ sở hữu, người này gọi là cổ đông của doanh nghiệp.

Trong quá trình sản xuất kinh doanh, định kỳ hàng năm doanh nghiệp phải thanh toán cho cổ đông một mức tiền lãi gọi là lợi tức cổ phần (cổ tức) tuỳ theo khả năng lợi nhuận của doanh nghiệp.

Tương ứng với hai cách huy động vốn nói trên hình thành hai thị trường bộ phận của thị trường tài chính là thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần.

c1. Thị trường nợ.

Thị trường nợ là thị trường tài chính giữa người đi vay và người cho vay. Đối với doanh nghiệp khi họ huy động vốn trên thị trường nợ sẽ hình thành khoản nợ phải trả thể hiện trên bảng tổng kết tài sản.

Thị trường nợ hoạt động thông qua các công cụ tài chính như: hợp đồng cho vay, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng, thương phiếu và một số công cụ khác, thời hạn thanh toán của các công cụ tài chính trên thị trường nợ, có thể ngắn hạn, trung hạn, dài hạn.

Khi nghiên cứu đến thị trường chứng khoán thì thị trường nợ còn được gọi là thị trường trái phiếu. Trái phiếu là công vụ vay nợ chủ yếu của doanh nghiệp ở các nước đã có thị trường chứng khoán phát triển, nó hấp dẫn nhà đầu tư bởi tính thanh khoản cao.

c2. Thị trường vốn cổ phần.

Thị trường vốn cổ phần là thị trường giữa người bán quyền sở hữu công ty và người mua quyền sở hữu công ty. Công cụ tài chính duy nhất trên thị trường vốn cổ phần là cổ phiếu và các công cụ phát sinh từ việc sở hữu cổ phiếu.

Đối với doanh nghiệp, điểm khác cơ bản của việc huy động vốn trên thị trường nợ và trên thị trường vốn cổ phần là doanh nghiệp hình thành vốn nợ phải trả nếu huy động trên thị trường nợ và hình thành vốn chủ sở hữu nếu huy động vốn trên thị trường vốn cổ phần. Đối với người đầu tư, khi bán vốn trên thị trường nợ được hưởng mức lợi tức khá ổn định, nói chung là biết trước và không lấy trực tiếp từ thu nhập ròng của doanh nghiệp; còn bán vốn trên thị trường vốn cổ phần có lợi tức không ổn định, khó có thể biết trước và hưởng trực tiếp từ thu nhập ròng của doanh nghiệp hoặc do giá trị tài sản doanh nghiệp tăng lên.

Thị trường vốn cổ phần phát triển gắn liền với quá trình phát triển của công ty cổ phần và công ty cổ phần hóa. So với thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu thường hoạt động sôi động hơn, tuy quy mô có thể không lớn hơn. So với đầu tư vào thị trường trái phiếu, thì đầu tư vào thị trường cổ phiếu thường có mức lợi tức cao hơn nhưng không ổn định và phải chấp nhận rủi ro cao hơn. Vì vậy, người ta nói những người đầu tư vào trái phiếu là những nhà đầu tư bảo thủ, còn những người đầu tư vào cổ phiếu là những nhà đầu tư mạo hiểm.

d. Căn cứ vào số lần mua đi bán lại của các công cụ tài chính.

Với căn cứ này, thị trường tài chính được cấu trúc bởi thị trường sơ cấp hay còn gọi là thị trường cấp một và thị trường thứ cấp hay còn gọi là thị trường cấp hai.

d1. Thị trường sơ cấp.

Thị trường sơ cấp là thị trường tài chính trong đó những công cụ tài chính chỉ mới bán ra lần đầu. Chẳng hạn công ty A phát hành trái phiếu, bạn bỏ tiền ra mua trái phiếu của công ty A là mua công cụ tài chính trên thị trường sơ cấp.

Thị trường sơ cấp là loại thị trường không có địa điểm cố định, người bán công cụ tài chính cho người đầu tư hoặc trực tiếp tại phòng của tổ chức huy động vốn, hoặc thông qua tổ chức đại lý. ở một số nước, chẳng hạn ở Mỹ, thị trường sơ cấp là thị trường của các tổ chức phát hành các công cụ tài chính và các ngân hàng làm đại lý tiêu thụ.

Đối với nhà đầu tư, thị trường sơ cấp là nơi để thực hiện đầu tư vốn vào các công cụ tài chính Do các công cụ tài chính được bán trên thị trường sơ cấp thường không thông qua đấu giá nên việc định giá công cụ tài chính lúc bán ra hết sức quan trọng. Riêng đối với việc bán cổ phiếu ra lần đầu, việc định giá để bán có hai phương thức chính, đó là:

• Phương thức định giá cố định: Người bảo lãnh phát hành và người phát hành thoả thuận ấn định giá sao cho bảo đảm quyền lợi của người phát hành, lợi ích của người bảo lãnh phát hành.

• Phương thức lập sổ (book building): người bảo lãnh phát hành đề ra một phương án sơ bộ và tổ chức thăm dò các nhà đầu tư tiềm tàng về số lượng, giá cả cổ phiếu mà họ có thể đặt mua, sau đó thống kê lại số lượng phát với những mức giá khác nhau để cùng người phát hành chọn ra những phương án tối ưu.

d2. Thị trường thứ cấp.

Thị trường thứ cấp là thị trường tài chính mà các công cụ tài chính đã mua bán lần đầu trên thị trường sơ cấp được mua đi bán lại.

Thị trường thứ cấp có hai chức năng chủ yếu:

- Tạo tính "lỏng" cho các công cụ tài chính ở thị trường sơ cấp, vì vậy làm cho các công cụ tài chính trên thị trường sơ cấp có sức hấp dẫn hơn. Không có thị trường thứ cấp thì hoạt động của thị trường sơ cấp sẽ khó khăn, hạn chế.

- Xác định giá các công cụ tài chính đã được bán trên thị trường sơ cấp. Giá ở thị trường thứ cấp được hình thành chủ yếu dựa theo quan hệ cung - cầu và thông qua đấu giá hoặc thương lượng giá trên thị trường một cách công khai hóa. 

Nguồn: Ths. Vũ Quang Kết - TS. Nguyễn Văn Tấn (Quantri.vn biên tập và hệ thống hóa)