Spurling test là gì

  • Nghiệm pháp spurling có chức năng gì và có mang lại kết quả chuẩn đoán đúng không ? 

    Và trong trường hợp một người gặp phải những triệu chứng như: đau cổ, vai, tê, mỏi cánh tay, bàn tay lâu ngày thì có thể người ta đã mắc phải những chứng bệnh liên quan tới dây thần kinh. Trong những trường hợp này, bệnh nhân có thể sẽ được yêu cầu thực hiện nghiệm pháp spurling. Cùng Xem thêm về nghiệm pháp spurling ở conlannhiet.com.vn

    Tìm hiểu ngay ở đây: nghiệm pháp spurling

    A. Nghiệm pháp spurling là gì

    Nghiệm pháp Spurling là 1 cách thức giúp cho chẩn đoán chứng dây thần kinh bị chèn ép. Nghiệm pháp Spurling thường được gọi là xét nghiệm Spurling. Bệnh lý chèn ép dây thần kinh xảy ra lúc một dây thần kinh tại cổ bị chèn ép gần khu vực dây thần kinh đấy tách ra khỏi tủy sống. 1 số nguyên tố có thể gây ra tình trạng ấy, thường là thoát vị đĩa đệm hoặc thoái hóa tự nhiên diễn ra khi bạn già đi. các triệu chứng phổ biến bao gồm đau, tê, cảm thấy yếu ở cánh tay hay cơ tay. bên cạnh đó, bệnh nhân cũng có thể cảm thấy đau ở phần lưng trên, vai hoặc cổ. Nghiệm pháp spurling sẽ hỗ trợ các bác sỹ kiểm tra bệnh lý chèn ép dây thàn kinh cũng như loại trừ bất cứ nguyên do nào khác gây ra cơn đau của người bệnh. Tính chuẩn xác thể hiện: Thử nghiệm định rõ các người có các dấu hiệu liên quan. Thử nghiệm Spurling được coi là có tính đặc trưng cao, Dù vậy tính chuẩn xác không được như vậy. giả định, một nhận định năm 2017 cho thấy thử nghiệm Spurling có tính biểu trưng từ 92% tới 100%. Điều ấy có nghĩa là xét nghiệm cho kết quả thông thường tại các người tham gia không có bệnh lý chèn ép thần kinh ít nhất 92%. Nghiên cứu tương tự cũng kết luận rằng nghiệm pháp Spurling có tỷ lệ chính xác trong xấp xỉ 40 tới 60%. Điều ấy có nghĩa là nghiệm pháp chỉ cho kết quả dương tính trong xấp xỉ một nửa số người tham gia mắc bệnh chèn ép dây thần kinh.



    B. Cách thực hiện nghiệm pháp spurling ra sao ? Nghiệm pháp Spurling sẽ được tiến hành khi người bệnh ngồi trên ghế hoặc trên bàn làm xét nghiệm. Có một số biến thể của nghiệm pháp đấy, nhưng mà các biến thể thịnh hành nhất là Spurling test A & Spurling test B.

    Spurling Test A

    Các bác sỹ sẽ nghiêng đầu của bệnh nhân về phía cơ thể vị trí bạn có những triệu chứng. tiếp đó, những bác sĩ sẽ ảnh hưởng 1 số áp lực lên đỉnh đầu người bệnh.

    Spurling Test B

    Ngoài thao tác nghiêng đầu 1 bên, bác sĩ sẽ mở rộng & xoay cổ của bạn trong khi áp lực lên đỉnh đầu của bạn. Và một số thực hiện xét nghiệm nghiệm pháp Spurling Nghiệm pháp chuyển động vai. để thực hiện nghiệm pháp đấy người bệnh đặt lòng bàn tay bị tác động trên đỉnh đầu của mình. nếu các triệu chứng biến mất trong lúc tiến hành đông tác, tương đương với một kết quả tích cực. Khi kiểm tra lực căng chi trên. Có một loạt các bài check lực căng chi trên được thiết kế với để áp dụng cho các dây thần kinh chạy từ cổ xuống cánh tay người bệnh. Trong những xét nghiệm ấy, mỗi dây thần kinh sẽ được kéo căng để xem liệu các triệu chứng bệnh nhân có phát tác hay không. Xét nghiệm hình ảnh. Cuối cùng, người bệnh có thể sẽ cần phải tiến hành chụp X quang, chụp CT cắt lớp hay MRI để nhìn rõ hơn về khu vực bị ảnh hưởng. những phương thức này sẽ hỗ trợ các bác sĩ loại trừ bất cứ lý do nào khác gây ra cơn đau, Chẳng hạn như chấn thương. Nghiên cứu dẫn truyền thần kinh. các xét nghiệm này đánh giá xung động thần kinh di chuyển nhanh như thế nào qua dây thần kinh, nhờ vậy, có thể giúp cho bác sỹ định rõ được các tổn thương thần kinh.

    Mời người dùng Tìm đọc tại đây: //conlannhiet.com.vn/tu-huyet/


    View more random threads:

     

  • – Đau cổ gáy: có 3 kiểu biểu hiện:

    + Đau cổ gáy cấp tính: Hay vẹo cổ cấp, xuất hiện sau một đêm ngủ dậy do gối đầu lệch hoặc sau lao động nặng, mệt mỏi, căng thẳng, lạnh… thấy đau vùng gáy một bên lan lên cùng chẩm. Thường khỏi sau vài ngày và hay tái phát.

    + Đau vùng gáy mạn tính: Đau âm ỉ khi tăng khi giảm, lan ít, khó vận động một số động tác vì đau, đôi khi thấy lạo xạo khi quay cổ.

    + Có điểm đau cột sống cổ: ấn vào các gai sau và cạnh cột sống cổ tương ứng các rễ thần kinh có thể tìm thấy điểm đau.

    – Hạn chế vận động cột sống cổ: đau làm đầu vẹo sang một bên không quay về bên kia được do cơ bên đau bị co cứng phản xạ.

    1.2. Hội chứng rễ thần kinh.

    – Do thoái hóa hoặc thoát vị đĩa đệm chèn ép các rễ thần kinh thuộc đám rối thần kinh cánh tay, chủ yếu là rễ C5-C6. Đau vùng gáy âm ỉ tăng từng cơn nhất là về đêm, lan lên vùng chẩm và xuống vai và cánh tay. Biểu hiện lâm sàng là hội chứng vai-gáy, hoặc hội chứng vai-cánh tay.Thường đau sâu trong cơ, xương với cảm giác nhức nhối khó chịu, có khi đau nhói như điện giật. Đau cổ thường giảm nhanh trong khi đau vai và tay thì ngày một tăng. Đau có tính chất cơ học, đau tăng khi đứng, đi, ngồi lâu, khi ho, hắt hơi, khi vận động cột sống cổ; đau giảm khi nghỉ ngơi, khi kéo giãn cột sống cổ…

    – Rối loạn vận động, cảm giác kiểu rễ: bại một số cơ chi trên như dạng vai [C5], bại gấp cẳng tay [C6], bại duỗi cẳng tay [C7], bại gấp các ngón tay [C8]. Có thể kèm theo hiện tượng giật bó cơ khi bị teo cơ rõ. Tê một vùng ở cánh tay, cẳng tay, bàn ngón tay. Định khu của hiện tượng giảm cảm giác tùy thuộc vào rễ thần kinh bị chèn ép. Làm nghiệm pháp căng dây thần kinh của đám rối cánh tay thì đau và tê tăng.

    – Rối loạn phản xạ kiểu rễ cổ: giảm hoặc mất phản xạ gân xương do rễ thần kinh chi phói bị chèn ép: Phản xạ gân cơ nhị đầu cánh tay [C5], phản xạ trâm quay [C6], phản xạ cơ tam đầu [C7].

    – Tổn thương rễ thần kinh cổ:

    + Rễ C1, C2 và một phần C3 tạo ra dây thần kinh chẩm Arnold, khi tổn thương gây đau đầu vùng chẩm.

    + Rễ C3: đau vùng chẩm gáy; kèm theo nói khó và tức ngực.

    + Rễ C4: đau bả vai và thành ngực trước; có ho, nấc, khó thở.

    + Rễ C5: đau mặt ngoài cánh tay đến cẳng tay; yếu cơ delta.

    + Rễ C6: đau mặt trước cánh tay đến ngón cái và trỏ; yếu cơ nhị đầu.

    + Rễ C7: đau mặt sau cánh tay đến ngón giữa; yếu cơ tam đầu.

    + Rễ C8: đau mặt trong cánh tay đến ngón nhẫn và út; yếu cơ bàn tay.

    – Một số nghiệm pháp đánh giá tổn thương rễ thần kinh cổ:

    + Dấu hiệu chuông bấm: ấn điểm cạnh sống tương ứng với lỗ ghép thấy đau xuất hiện từ cổ lan xuống vai và cánh tay.

    + Nghiệm pháp Spurling [ép rễ thần kinh cổ]: bệnh nhân ngồi hoặc nằm nghiêng đầu về bên đau, thầy thuốc dùng tay ép lên đỉnh đầu bệnh nhân, đau xuất hiện ở rễ bị tổn thương do làm hẹp lỗ ghép.

    + Nghiệm pháp căng rễ thần kinh cổ: bệnh nhân ngồi đầu nghiêng xoay về bên lành. Thầy thuốc cố định vai và từ từ đẩy đầu bệnh nhân về bên kia, đau xuất hiện dọc theo rễ thần kinh bị tổn thương. Hoặc bệnh nhân ngồi, thầy thuốc đặt tay lên vùng chẩm ấn từ từ cho cằm chạm xương ức, đau cũng xuất hiện dọc theo rễ thần kinh bị tổn thương.

    + Nghiệm pháp chùng rễ thần kinh cổ: bệnh nhân ngồi, thầy thuốc nâng cánh tay bên đau của bệnh nhân lên đầu và đưa ra sau, các triệu chứng rễ giảm hoặc mất.

    + Nghiệm pháp kéo giãn cột sống cổ: bệnh nhân nằm ngửa, thầy thuốc dùng 2 bàn tay đặt lên cằm và chẩm bệnh nhân, từ từ kéo theo trục dọc một lực độ 10-15kg, các triệu chứng rễ cũng giảm hoặc mất.

    1.3. Hội chứng động mạch sống – nền

    – Đau đầu vùng chẩm, chóng mặt, ù tai, mờ mắt, đôi khi có giảm thị lực thoáng qua. Đặc biệt bệnh nhân luôn thấy người mệt mỏi.

    – Rung giật nhãn cầu, hội chứng tiểu não, hội chứng giao bên. Có cơn sụp đổ [Drop – attacks] khi quay cổ quá nhanh ở tư thế bất lợi.

    1.4. Các hội chứng thần kinh thực vật

    – Hội chứng giao cảm cổ sau [Hội chứng Barré – Lieou]: đau nửa đầu hoặc vùng chẩm, chóng mặt, ù tai, mờ mắt hoặc mất thị lực thoáng qua, cơn rối loạn vận mạch. Các triệu chứng trên tăng lên khi quay cổ.

    – Hội chứng vai – bàn tay: đau ở vùng bàn tay, các ngón tay, da bàn tay, có khi xanh tím, giảm nhiệt độ so với bên lành.

    – Kích thích đám rối thần kinh cổ sau: cơn đau kiểu mạch đập ở vùng chẩm, hội chứng Claude Bernard – Horner, tê cóng bàn tay kiểu Raynaud, loạn cảm bỏng buốt ở khớp vai, co cứng các cơ cổ, tức ngực, hụt hơi, dị cảm ở họng.

    – Đau quanh khớp vai: đau có tính chất phản xạ từ cổ xuống vai và cánh tay, đôi khi có tức ngực vùng trước tim. Khác với viêm quanh khớp vai, ở bệnh nhân này không có hạn chế vận động khớp vai.

    – Hội chứng cơ thang: đau mặt trong cánh tay xuống ngón 4-5 và đau lan lên chẩm; đau tăng khi quay và nghiêng đầu sang bên đau kèm theo có lạnh ngọn chi, xanh tím, phù nề, mất mạch quay. Cần chẩn đoán phân biệt với bệnh lý còn xương sườn cổ VII.

    – Hội chứng tim [cardiac syndrome]: bệnh nhân thường thấy đau ngực vùng trước tim, đau tăng khi quay đầu, giơ cánh tay lên cao hoặc khi ho, hắt hơi; đôi khi xuất hiện như cơn đau thắt ngực, nhưng điện tim ở những bệnh nhân này hoàn toàn bình thường.

    1.5. Hội chứng chèn ép tuỷ cổ:

    Chèn ép tuỷ mức độ nhẹ: giai đoạn đầu, đĩa đệm chèn ép rễ thần kinh, nhưng sau đó đĩa đệm chèn ép cả tuỷ sống. Chèn ép tuỷ mức độ nhẹ biểu hiện bởi rối loạn vận động làm mất tính khéo léo của bàn tay trong các động tác như viết, cài cúc áo, đánh mày vi tính; hai chân cảm giác căng cứng, đi lại khó khăn; có thể thấy tăng nhẹ các phản xạ gân xương.

    Chèn ép tuỷ mức độ nặng: chân tay còn vận động được nhưng đi lại rất khó hoặc không đi lại được, mất khả năng tự phục vụ cá nhân, các phản xạ gân xương tăng rõ. Mức độ rất nặng gây liệt hoàn toàn tứ chi.

    Hội chứng Brown-Sequard: Thoát vị đĩa đệm cổ có thể gây hội chứng Brown-Sequard [còn gọi là hội chứng phân ly cảm giác] là do đĩa đệm chèn ép một nửa bên tuỷ. Ví dụ, thoát vị đĩa đệm C3-C4 gây chèn ép nửa tuỷ cổ ở bên phải, biểu hiện lâm sàng: liệt tay và liệt chân kiểu trung ương ở nửa người bên phải [cùng bên] nhưng còn cảm giác đau; nửa tuỷ cổ bên trái không bị chèn nên chân tay bên đó không liệt nhưng lại mất cảm giác đau.

    2. Dấu hiệu X quang.

    2.1 Chụp X quang cổ thường quy.

    – Hình ảnh X quang trên phim chụp cổ nghiêng thấy gai xương, mỏ xương ở thân đốt và mấu bán nguyệt, mỏ xương ở mấu bán nguyệt là lý do quan trọng, trực tiếp làm hẹp lỗ ghép và lỗ động mạch gây chèn ép rễ thần kinh và động mạch sống.

    – Hình ảnh X quang trên phim chụp cổ tư thế thẳng cho thấy mờ đậm hoặc phì đại mấu bán nguyệt, bên tổn thương khe khớp bán nguyệt hẹp hơn bên lành.

    – Trên phim chụp chếch 3/4 cột sống cổ thấy lỗ ghép méo mó và bị hẹp.

    – Khi thoát vị đĩa đệm có thể thấy: mất ưỡn cong sinh lý, gai xương trước sau, hẹp khe liên đốt, trượt đốt sống, hẹp ống sống, hẹp lỗ ghép do gai xương.

    2.2. Chụp tuỷ cản quang cột sống cổ.

    Chụp tuỷ cản quang cột sống cổ khó hơn cột sống thắt lưng, kỹ thuật thường dùng là chụp tủy cổ đường bên giữa C1 và C2 trong tư thế bệnh nhân nằm sấp ngửa cổ tối đa.

    2.3. Chụp động mạch đốt sống.

    Nguyên nhân đè ép động mạch đốt sống chủ yếu là do gai xương phát triển từ khớp móc cột sống đè vào.

    2.4. Chụp cộng hưởng từ [MRI].

    Trên ảnh MRI, đĩa đệm có ranh giới rõ, giảm tín hiệu trên T1 và tăng tín hiệu trên T2 do có nhiều nước. Các đĩa đệm thoái hóa do không có nước nên trên T2 tín hiệu không tăng so với các đĩa đệm khác. Khối đĩa đệm thoát vị là phần đồng tín hiệu với đĩa đệm nhô ra phía sau so với bờ sau thân đốt sống và không ngấm thuốc đối quang từ.

    [Lưu ý: Việc đáp ứng với các liệu trình điều trị, máy, thiết bị trợ giúp là khác nhau tùy thuộc cơ địa mỗi người !
    Những thông tin y học trên website chỉ mang tính tham khảo, bạn không được tự ý áp dụng nếu chưa được sự chỉ dẫn của thầy thuốc !]

    Video liên quan

    Chủ Đề