Tại sao kháng sinh phải uống đủ liều

Nhi khoa

Uống kháng sinh là phải uống đủ liều, không đủ liều vi khuẩn sẽ kháng thuốc!

Điều này chỉ đúng nếu chỉ định kháng sinh ban đầu là đúng. Nghĩa là bệnh do vi khuẩn gây ra.

Nếu chỉ định sai [bệnh do siêu vi] thì cần ngưng kháng sinh ngay càng sớm càng tốt. Khi này ráng uống cho đủ liều mới gây kháng thuốc. Vì sao vậy?

  • Nếu bệnh do siêu vi – không phải vi khuẩn – việc dùng kháng sinh là vô nghĩa, làm gì có sự hiện diện của vi khuẩn ở vị trí bị bệnh mà nó kháng thuốc được.
    Do đó việc ngưng hay uống kháng sinh tiếp không ảnh hưởng gì đến con vi khuẩn gây bệnh mà hiện tại nó đang chu du ở đâu đó bên ngoài cơ thể em bé.
  • Nếu vẫn tiếp tục uống kháng sinh sẽ tạo điều kiện cho các vi khuẩn đường ruột [có hại và có lợi] được cơ hội tiếp xúc với kháng sinh, thời gian tiếp xúc với kháng sinh càng lâu, bọn chúng càng dễ sinh gen kháng thuốc và vào 1 ngày đẹp trời chúng nó gây bệnh thì khó cứu.

Triết lý quá đơn giản mà không phải ai cũng hiểu.

Tài liệu tham khảo

//www.facebook.com/diendannhikhoa/posts/780242732173249

Hơn 95% các trường hợp ung thư cổ tử cung là do nhiễm HPV. Có…

Dự án Hỗ trợ bệnh nhân Ung thư, Tổ chức Y học cộng đồng tổ…

Bệnh lý thần kinh đái tháo đường là một nhóm các rối loạn không đồng…

Đái tháo đường type 2 xảy ra khi cơ thể không đáp ứng với insulin…

Tiểu đường làm tổn thương thận từ từ qua nhiều năm, tuy nhiên ít khi…

Bài viết về hội chứng Fitz Hugh Curtis [hội chứng viêm quanh gan] liệt kê…

Thuốc trị ung thư thiếu, nhiều bệnh viện phải tính phương án giảm liều dùng. Nay đã hủy phương án này - Ảnh: L.TH.H.

Đúng liều ở đây có nghĩa là phải sử dụng thuốc theo đúng số lượng thuốc đã được chỉ định [tức là đã được bác sĩ ghi trong đơn thuốc hoặc theo hướng dẫn sử dụng thuốc] cho một lần dùng thuốc hoặc cho cả ngày [tức 24 giờ]. Còn đủ thời gian là phải dùng cho đủ số ngày được ấn định, tức cũng là phải đúng liều cho một đợt điều trị.

Trước hết, ta nên biết việc dùng thuốc không đúng liều gồm 2 trường hợp: dùng không đủ liều và dùng quá liều. Cả 2 trường hợp đều dẫn đến hậu quả không tốt. 

Dùng thuốc không đủ liều không chỉ không trị dứt bệnh của cá nhân người bệnh mà có khi gây hại cho cộng đồng. Như sử dụng kháng sinh không đủ liều có thể dẫn đến hiện tượng vi khuẩn đề kháng thuốc, vi khuẩn đề kháng này không bị tiêu diệt sau đó sẽ gây hại cho bất kỳ ai bị nó xâm nhiễm. 

Còn dùng thuốc quá liều gây tác hại cho chính sức khỏe của người dùng thuốc, thậm chí có thể gây tử vong. Bởi vì hầu hết các thuốc nếu dùng đúng liều thì đó là thuốc chữa bệnh, còn nếu dùng quá liều thì đó là chất độc không hơn không kém.

Liều dùng thuốc hay còn gọi là liều điều trị không phải được ấn định một cách tùy tiện mà phải trải qua quá trình nghiên cứu được gọi là thử tác dụng dược lý để tìm ra.

Liều điều trị sẽ được xác định và sẽ nằm giữa liều tối thiểu và liều tối đa. Thuốc càng an toàn, tức ít độc, khi khoảng cách giữa liều điều trị và liều tối đa càng lớn; còn thuốc dễ gây độc tính khi khoảng cách đó hẹp, tức liều điều trị quá gần với liều tối đa hay liều độc. 

Như vậy ta thấy phải trải qua quá trình nghiên cứu thực hiện mới xác định được liều điều trị và liều này sẽ tùy theo cơ thể người bệnh, tình trạng bệnh mà được ấn định để phát huy cao nhất tác dụng điều trị và hạn chế thấp nhất các tác dụng phụ hay tai biến gây ra do thuốc.

Như vậy, ta phải dùng thuốc đúng theo liều đã chỉ định. Bởi vì nếu không dùng đủ liều, liều thấp hơn liều tối thiểu xem như thuốc không đủ cho tác dụng; còn nếu dùng quá liều, liều vượt quá liều tối đa gây độc, có khi nguy đến tính mạng.

Đặc biệt, thuốc trị hay kháng ung thư thường là các thuốc gây độc tế bào. Chúng tiêu diệt các tế bào sinh trưởng nhanh là các tế bào ung thư, đồng thời cũng gây hại các tế bào bình thường. Tức chúng rất độc nên phải dùng các thuốc này thật đúng liều, để vừa trị được ung thư vừa không gây hại!

PGS.TS NGUYỄN HỮU ĐỨC

Khi bị mắc bệnh nhiễm khuẩn thực sự, nếu có chỉ định dùng thuốc kháng sinh thì sẽ gặp nhiều khó khăn do kháng thuốc.

Tác dụng diệt vi khuẩn và cơ chế kháng kháng sinh của vi khuẩn

Các loại kháng sinh có thể diệt được vi khuẩn nhờ những tác dụng chính như ức chế tổng hợp màng tế bào của vi khuẩn, kích hoạt các men phá hủy màng tế bào của vi khuẩn, tăng tính thấm màng tế bào vi khuẩn, cản trở tổng hợp protein và chuyển hóa acid nucleic của vi khuẩn.

Khả năng diệt khuẩn và kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn có liên quan trực tiếp đến nồng độ kháng sinh ở trong máu hoặc trong ổ nhiễm khuẩn. Do đó việc sử dụng kháng sinh phải đúng liều lượng và đúng thời gian cho liệu trình điều trị và phải dựa vào kháng sinh đồ để biết tình trạng nhạy cảm hoặc kháng thuốc của từng loại vi khuẩn đang gây bệnh. Như vậy bán thuốc kháng sinh nhất thiết phải có đơn thuốc của bác sĩ.

Vi khuẩn sau khi tiếp xúc với một loại kháng sinh, một số bị tiêu diệt, một số có thể thay đổi trong quá trình đấu tranh sinh tồn để trở nên kháng kháng sinh đó. Sau khi có sự đề kháng xuất hiện, nó sẽ lan truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ vi khuẩn này sang vi khuẩn khác, tạo nên một quần thể kháng kháng sinh và từ đó việc dùng kháng sinh trong những lần sau có thể không có kết quả hoặc ít hiệu quả.

Vi khuẩn tạo ra sự đề kháng bằng cách làm cho kháng sinh không thấm vào màng để diệt vi khuẩn, làm cho kháng sinh không tiếp xúc được với vi khuẩn để tác động, tạo ra các chất làm mất tác động của kháng sinh và tạo ra các chất phá hủy cấu trúc hóa học của kháng sinh.

Sự kháng kháng sinh của vi khuẩn một phần là do tự nhiên vì quá trình đấu tranh để sinh tồn của vi khuẩn, một phần là do sử dụng kháng sinh không đúng cách. Trong thực tế điều trị hiện nay, có một số nguyên nhân gây nên sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn như:

- Dùng thuốc kháng sinh không đủ thời gian, không đủ liều lượng làm cho vi khuẩn chưa bị tiêu diệt hết và biến đổi để trở nên kháng thuốc.

- Việc lạm dụng thuốc kháng sinh thành thói quen và phổ biến như không có bệnh nhiễm khuẩn cũng dùng kháng sinh làm cho các vi khuẩn có lợi cho cơ thể bị tiêu diệt, tạo điều kiện cho các vi khuẩn gây bệnh kháng lại với kháng sinh.

- Dùng thuốc kháng sinh không đúng loại như khi bị mắc bệnh nhiễm khuẩn nhạy cảm với kháng sinh này lại dùng loại kháng sinh khác, làm cho vi khuẩn không bị tiêu diệt mà còn biến đổi để kháng lại với kháng sinh.

Nguyên tắc sử dụng kháng sinh

Nguyên tắc quan trọng nhất trong sử dụng kháng sinh là theo đúng chỉ định của bác sĩ, chỉ sử dụng kháng sinh khi có nhiễm khuẩn, lựa chọn và phối hợp các kháng sinh hợp lý... Ngoài ra cũng nên lưu ý một số nguyên tắc lớn đối với bệnh nhân khi dùng kháng sinh như:

+ Thời điểm uống thuốc

- Để thuốc kháng sinh có tác dụng tối đa, nên uống thuốc vào lúc đói như uống thuốc xa bữa ăn, trừ một số kháng sinh có tác dụng không mong muốn ở đường tiêu hóa thì mới uống vào lúc no. Một số bệnh nhân uống thuốc pefloxacin có thể bị cảm giác cồn cào trong bụng, vì vậy có thể uống thuốc vào lúc no.

- Thường các loại thuốc kháng sinh được uống 2 lần trong ngày, cách nhau khoảng 12 giờ, trừ khi có chỉ định khác của bác sĩ. Bác sĩ có thể chỉ định uống kháng sinh 1 lần trong ngày như kháng sinh chống lao, chỉ uống 1 lần vào buổi sáng.

+ Liều lượng và thời gian dùng thuốc

- Liều lượng thuốc hàng ngày phải được dùng đúng theo chỉ định của bác sĩ. Không nên tự ý tăng hay giảm liều, nhất là giảm liều sẽ làm cho kháng sinh tác dụng không đầy đủ và gây nên kháng thuốc. Trường hợp tương đối khá phổ biến là bệnh nhân dùng thuốc một vài ngày, mặc dù chưa hết liều nhưng thấy bệnh đỡ nên tự ý giảm liều hoặc ngừng thuốc. Điều này có thể sẽ làm bệnh nặng lên trong đợt điều trị đó và gây kháng thuốc trong tương lai.

- Thời gian sử dụng thuốc kháng sinh cũng phải đảm bảo đúng quy định. Thông thường kháng sinh được dùng từ 7 đến 10 ngày. Một số loại kháng sinh có thể được chỉ định dùng trong 5 ngày; cá biệt chỉ có loại dùng trong 3 ngày như thuốc azithromycin chỉ dùng trong 3 ngày là đủ liều. Cũng có những trường hợp kháng sinh được dùng nhiều ngày hơn để điều trị tỉnh trạng nhiễm trùng huyết, bệnh lao, bệnh thương hàn, bệnh giang mai…

+ Theo dõi tác dụng không mong muốn của thuốc

Các tác dụng không mong muốn khi sử dụng kháng sinh thường gặp là:

- Tiêu chảy là phản ứng hay gặp nhất do khi uống kháng sinh thì các vi khuẩn có lợi trong đường tiêu hóa cũng bị tiêu diệt làm cho rối loạn tiêu hóa và thường biểu hiện bằng tiêu chảy. Tiêu chảy do dùng kháng sinh thường xuất hiện từ 2 đến 3 ngày sau khi uống thuốc và chỉ ở mức độ nhẹ, tự hết sau khi uống hết liều thuốc nên không cần điều trị.

- Buồn nôn, đau bụng… có thể xảy ra với nhóm thuốc tetraxyclin, nhóm quinolon…

- Sạm da có thể xảy ra với nhóm thuốc quinolon và bệnh nhân được khuyên tránh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời trong thời gian uống thuốc.

- Đau đầu, mất ngủ, bồn chồn hay xảy ra với nhóm thuốc quinolon.

- Cảm giác có vị kim loại ở trong miệng hay xảy ra với thuốc metronidazol.

Trước khi dùng một loại kháng sinh nào đó, người bệnh nên đọc kỹ hướng dẫn sử dụng để biết các tác dụng không mong muốn có thể xảy ra. Khi có tác dụng không mong muốn, nên thông báo cho bác sĩ biết để được tư vấn cách xử trí.

+ Theo dõi các phản ứng dị ứng của thuốc

- Phản ứng dị ứng quan trọng và nguy hiểm nhất là sốc phản vệ thường xảy ra với nhóm thuốc betalactam. Phản ứng được biểu hiện bằng dấu hiệu tím tái, đau bụng dữ dội, khó thở, da nổi vân tím. Bệnh nhân nhanh chóng bị rơi vào tình trạng trụy tim mạch và tử vong nếu không được điều trị tích cực tại bệnh viện. Cách phòng tránh hiệu quả nhất là hỏi tiền sử dị ứng thuốc trước đây của bệnh nhân. Nếu bệnh nhân có tiền sử dị ứng với bất cứ thuốc nào của nhóm thuốc betalactam thì không được dùng thuốc của nhóm này.

- Các phản ứng dị ứng khác cũng giống như các phản ứng dị ứng thông thường, được biểu hiện bằng triệu chứng sốt, nổi sẩn đỏ ngoài da, viêm da cấp tính như hội chứng Steven-Johnson, hội chứng Lyell; phù Quinck, ngứa mắt, khó thở, lên cơn hen suyễn... Cách xử trí là ngừng ngay thuốc đang dùng và đến cơ sở y tế gần nhất để được điều trị.

+ Theo dõi các biến chứng hay tai biến do độc tính của thuốc kháng sinh

Khi sử dụng một số loại thuốc kháng sinh, người bệnh có thể bị các biến chứng hay tai biến do độc tính của thuốc, vì vậy cần theo dõi để cung cấp thông tin cho bác sĩ xử trí như:

- Tổn thương thần kinh thính giác do dùng thuốc streptomycine hoặc một số thuốc kháng sinh nhóm aminoglycosid;

- Tổn thương thần kinh thị giác do sử dụng cloramphenicol kéo dài;

- Viêm đa rễ thần kinh do sử dụng rimifon kéo dài

- Nhiễm độc thận làm viêm thận kẽ, suy thận... khi dùng thuốc gentamycine, vancomycine, colistin, amphotericin B, rifampicin…

- Tổn thương gan có thể xảy ra khi sử dụng thuốc tetracycline, rifampicin, rimifon, amphotericin B…

- Tai biến về máu như thiếu máu huyết tán, giảm bạch cầu-tiểu cầu, suy tủy khi dùng các loại kháng sinh như sulfamid, streptomycin, cloramphenicol liều cao…

Một trong những cách để làm hạn chế các tai biến do độc tính của thuốc kháng sinh là chỉ sử dụng kháng sinh khi có chỉ định và đơn thuốc của bác sĩ.

Khuyến cáo cần thiết

Để kháng sinh thực sự là loại thuốc phát huy được tác dụng, hiệu quả trong điều trị các trường hợp bệnh nhiễm khuẩn. Việc sử dụng kháng sinh cần phải bảo đảm các nguyên tắc quy định, sự hiệu quả, an toàn và hợp lý... để khắc phục tình trạng kháng kháng sinh khá phổ biến hiện nay do sự lạm dụng quá mức của người bệnh, kể cả bác sĩ, nhân viên y tế và nhân viên nhà thuốc. Khi bị mắc bệnh nhiễm khuẩn mà không còn hoặc không có thuốc kháng sinh để chữa sẽ gây nên những hệ lụy tai hại có thể không lường trước được.

Nguồn: Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn

Video liên quan

Chủ Đề