Thế nào là hạt nhân chính trị ở cơ sở

Thời gian qua, các tổ chức cơ sở đảng trong tỉnh đã phát huy tốt vai trò lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Qua đó, góp phần ổn định tình hình, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh.

Đảng bộ Công ty CP Cơ khí và Lắp máy Việt Nam [TX Đông Triều] là một trong 2 đảng bộ được nhận Cờ thi đua của Tỉnh ủy giai đoạn 2016-2020.

Đảng bộ Công ty CP Cơ khí và Lắp máy Việt Nam là đảng bộ cơ sở trực thuộc Đảng bộ TX Đông Triều, hiện có 3 chi bộ trực thuộc với 57 đảng viên. Trong những năm qua, Đảng bộ Công ty đã bám sát các chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, chính sách của trung ương, tỉnh và địa phương để linh hoạt, đề ra các giải pháp cụ thể trong lãnh đạo, chỉ đạo cán bộ, đảng viên toàn Đảng bộ thực hiện tốt nhiệm vụ của đơn vị.

Điển hình, Đảng ủy Công ty đã phối hợp chặt chẽ với Hội đồng Quản trị, Ban Giám đốc Công ty chủ động trong công tác sắp xếp lại doanh nghiệp, chi bộ trực thuộc, gắn với phát huy năng lực lãnh đạo; coi trọng công tác bồi dưỡng phát triển đảng viên mới; phát triển đảng viên là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, công nhân lành nghề. Hằng năm, Đảng ủy tổ chức rà soát công tác quy hoạch cán bộ, bổ sung các nhân tố mới vào quy hoạch cán bộ; chủ động sắp xếp người tham gia cấp ủy chi bộ, Đảng bộ hợp lý.

Trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, Đảng bộ Công ty phối hợp chặt chẽ với Hội đồng Quản trị Công ty lãnh đạo, chỉ đạo đội ngũ cán bộ, đảng viên, người lao động toàn Công ty đoàn kết, nỗ lực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh, nhất là ở những lĩnh vực thế mạnh như kết cấu thép, gia công cơ khí... Nhờ đó, tổng doanh thu từ sản xuất, kinh doanh của Công ty giai đoạn 2016-2020, bình quân mỗi năm trên 800 tỷ đồng; thu nhập bình quân người lao động là 13,2 triệu đồng/tháng. Cũng trong giai đoạn này, Đảng bộ Công ty đã tích cực chỉ đạo các chi bộ, đảng viên, kêu gọi toàn thể người lao động trong Công ty hưởng ứng, tham gia phong trào chung sức xây dựng nông thôn mới, xây dựng phát triển đô thị, tham gia các chương trình hỗ trợ giảm nghèo với tổng kinh phí trên 1 tỷ đồng. Với việc thực hiện nhiệm vụ một cách sáng tạo, phù hợp với tình hình, trong 5 năm qua [2016-2020], 100% chi bộ trực thuộc Đảng bộ Công ty hoàn thành xuất sắc và hoàn thành tốt nhiệm vụ; 90,3% số đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên.

Chi bộ khu 6 [phường Hồng Hà, TP Hạ Long] họp triển khai công tác phòng, chống dịch Covid-19, tháng 3/2021.

Các tổ chức cơ sở đảng trong toàn tỉnh đã thể hiện được vai trò nền tảng, hạt nhân chính trị ở cơ sở, lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cơ quan, đơn vị. Trong quá trình lãnh đạo đã chủ động vận dụng sáng tạo, hiệu quả chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng, thích ứng với hoàn cảnh thực tiễn và cơ chế quản lý mới; xây dựng nhiều mô hình mới, cách làm đột phá, sáng tạo, đạt hiệu quả rõ nét, được thực tiễn chứng minh; thường xuyên kiểm tra, giám sát, nắm bắt tình hình và giải quyết hiệu quả những vấn đề nổi cộm ngay từ cơ sở.

Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, các cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn tỉnh ưu tiên cao nhất cho công tác phòng, chống dịch, chăm lo, bảo vệ sức khỏe nhân dân, thực hiện thành công “mục tiêu kép” vừa kiểm soát tốt dịch bệnh, vừa ổn định kinh tế - xã hội, nhanh chóng phục hồi sản xuất kinh doanh, lấy lại đà tăng trưởng. Theo đánh giá xếp loại chất lượng tổ chức đảng, đảng viên, trong 5 năm qua [2016-2020], toàn tỉnh có trên 90% tổ chức đảng và đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên; 20 tổ chức đảng, 164 đảng viên được Tỉnh ủy tặng Bằng khen hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu biểu 5 năm liền.

Xác định tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, nên công tác xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh tiếp tục được cấp ủy từ tỉnh tới cơ sở đặc biệt quan tâm, chú trọng. Theo Ban Tổ chức Tỉnh ủy, thời gian tới, các tổ chức cơ sở đảng trong tỉnh tiếp tục xác định các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, nhằm đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh. Song song với đó, đẩy mạnh phong trào thi đua xây dựng đảng bộ, chi bộ và đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, phấn đấu hằng năm có 90% trở lên tổ chức đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ, trong đó có 20% hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; 80% trở lên đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ, trong đó 20% hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Thực trạng tổ chức cơ sở Đảng và những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng hiện nay. Liên hệ thực tiễn.

        Đảng cộng sản Việt Nam-đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam-là một đội ngũ thống nhất về chính trị, tư tưởng trên cơ sở chủ nghĩa  Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, một đội ngũ có tổ chức chặt chẽ, khoa học. Tình tổ chức của Đảng thể hiện trước tiên ở chỗ Đảng là một hệ thống các cấp tổ chức từ TW đến cơ sở, được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong hệ thống đó. Các tổ chức cơ sở Đảng bao gồm chi bộ cơ sở và Đảng bộ cơ sở lập thành nền tảng của Đảng.

Khái niệm, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng:

Khái niệm:

Điều 21, Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định rơ:

- Tổ chức cơ sở Đảng [chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở] là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.

- Ở xã, phường, thị trấn có từ 3 Đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở Đảng [trực thuộc cấp ủy cấp huyện], ở  cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn  vị  quân đội, công an và các đơn vị khác có từ 3 Đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở Đảng [Tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở]… " ...

- "Tổ chức cơ sở Đảng dưới 30 Đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ Đảng trực thuộc. Tổ chức cơ sở có từ 30 Đảng viên trở lên lập Đảng bộ cơ sở, có các chi bộ trực thuộc Đảng uỷ"

Điều 10 điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam ghi rơ "Tổ chức cơ sở Đảng được lập tại đơn vị hành chính, sự nghiệp, kinh tế hoặc công tác, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh …". Điều lệ Đảng cũng có quy định riêng cho tổ chức Đảng trong  quân đội nhân dân Việt Nam và công an nhân dân Việt Nam.

Như vậy, tổ chức cơ sở Đảng của Đảng cộng sản Việt Nam gồm chi bộ cơ sở, Đảng bộ cơ sở. Đảng bộ cơ sở có 2 loại: Đảng bộ cơ sở có các chi bộ trực thuộc; Đảng bộ cơ sở có Đảng bộ bộ phận và chi bộ trực thuộc. Các tổ chức cơ sở Đảng đều có cấp uỷ cấp trên trực tiếp. Ví dụ: huyện uỷ là cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở Đảng ở xã, thị trấn thuộc huyện đó; quận uỷ và cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở Đảng ở phường thuộc quận ...

Ngoài ra, nếu được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý, trong một số tổ chức cơ sở Đảng còn có Đảng bộ bộ phận trực thuộc Đảng uỷ cơ sở. Trong các Đảng bộ bộ phận có các chi bộ trực thuộc.

Vai trò:

Với tính cách là nền tảng của Đảng, TCCSĐ có vai trò rất quan trọng đối với sự vững mạnh của Đảng. Đây là cấp tổ chức cuối cùng trong hệ thống tổ chức bốn cấp của Đảng ta, là cấp tổ chức sâu rộng nhất, gắn với các đơn vị cơ sở trên toàn lãnh thổ và các ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng tới từng cơ sở, từng đảng viên và từng người dân. Là hạt nhân chính trị ở cơ sở, TCCSĐ là nơi thể hiện toàn diện, trực tiếp và cụ thể nhất mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.

Đây là nơi trực tiếp thực hiện và lãnh đạo các tầng lớp nhân dân thực hiện chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật Nhà nước. Đưa đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống. Nhằm khơi dậy nguồn lực trí tuệ của nhân dân. Đồng thời qua đó góp phần kiểm nghiệm và bổ sung đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đây cũng là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động quan trọng trong công tác xây dựng phát triển Đảng, như kết nạp, quản lý, phân công nhiệm vụ, kiểm tra, đánh giá, sàng lọc đảng viên; nơi đảng viên thường xuyên thực hành các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt; nơi xuất phát đề cử, cung cấp cán bộ ra cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng.

Tổ chức cơ sở đảng còn là cầu nối giữa Đảng với quần chúng nhân dân, là mắt khâu trọng yếu để duy trì mối liên hệ của Đảng với nhân dân; là tổ chức gần dân nhất, trực tiếp lãnh đạo nhân dân và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân để phản ánh với Đảng. Dân tin Đảng, theo Đảng hay không là nhờ ở vai trò rất quan trọng, trực tiếp của TCCSĐ, của cán bộ đảng viên tại cơ sở.

2/. Đánh giá thực trạng. Nguyên nhân:

Từ sau khi thực hiện chính sách mở cửa đến nay, Đảng ta đã ra sức xây dựng và kiện toàn các TCCS Đảng cho phù hợp với giai đoạn cách mạng mới và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Hầu hết các TCCS đảng đã nhận thức đúng, thực hiện tốt hơn chức năng hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở; quán triệt sâu sắc quan điểm "lãnh đạo kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt", gắn xây dựng, củng cố tổ chức đảng với đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương; xây dựng, thực hiện quy chế làm việc của cấp uỷ, mối quan hệ công tác giữa tổ chức đảng với các tổ chức trong HTCT ở cơ sở. Tập trung chỉ đạo củng cố các TCCS đảng yếu kém; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.

Năng lực lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, lãnh đạo công tác tư tưởng, công tác tổ chức, cán bộ và các đoàn thể chính trị - xã hội của các tổ chức cơ sở đảng đã được nâng lên, công tác xây dựng tổ chức đảng có nhiều chuyển biến tích cực. Chế độ sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ có nhiều chuyển biến tích cực, cơ bản đảm bảo theo quy định của Điều lệ Đảng; nguyên tắc tổ chức, chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng thực hiện được tốt hơn. Sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng và đảng viên được nâng lên; tư tưởng cán bộ, đảng viên trong các cơ sở đảng cơ bản được ổn định, nội bộ đoàn kết, thống nhất. Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường, chất lượng, hiệu quả được nâng lên.

Công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, phân công nhiệm vụ và kiểm tra giám sát đảng viên được quan tâm thường xuyên. Thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã đạt được những kết quả quan trọng. Đội ngũ cán bộ, đảng viên được đào tạo cơ bản, nhiều đồng chí được rèn luyện, thử thách, trưởng thành qua thực tiễn công tác. phần lớn giữ vững được bản lĩnh chính trị, có ý thức giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, gương mẫu thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và quy chế, quy định của cơ quan; tích cực học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ, năng lực công tác, hoàn thành nhiệm vụ được giao; số lượng đảng viên vi phạm phải xử lý kỷ luật giảm dần qua các năm. Tình trạng quan liêu, hống hách, cửa quyền, xa dân từng bước được khắc phục. Nhiều quần chúng ưu tú được kết nạp vào Đảng.

Tuy nhiên, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều TCCS đảng vẫn còn yếu, chưa đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh từ cơ sở. Một số nơi chưa phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Khả năng vận dụng, cụ thể hoá và tổ chức thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ của nhiều tổ chức cơ sở đảng còn hạn chế. Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa nhận thức và thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng, nhất là trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác tổ chức, cán bộ; chưa có các giải pháp tích cực để nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo công tác tư tưởng và lãnh đạo các đoàn thể chính trị xã hội trong cơ quan. Thậm chí có nơi, cấp ủy thiếu chủ động, phụ thuộc vào chuyên môn hoặc "hợp thức hóa" một số quyết định của lãnh đạo cơ quan, nhất là trong công tác cán bộ.

Chất lượng sinh hoạt đảng còn hạn chế. Một số cấp ủy, chi bộ thực hiện chế độ sinh hoạt chưa đầy đủ, nội dung sinh hoạt chậm đổi mới, ít quan tâm sinh hoạt tư tưởng, sinh hoạt theo chuyên đề; trong sinh hoạt chưa thật sự phát huy dân chủ, có nơi sinh hoạt còn hình thức; tình trạng e dè, nể nang, né tránh, không dám đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực còn khá phổ biến. Tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi còn yếu, nhất là đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực xảy ra ở cơ sở. Số TCCS đảng yếu kém và những nơi tiềm ẩn những yếu tố phức tạp về chính trị, xã hội vẫn còn nhiều. Một số tổ chức cơ sở Đảng xã, phường, thị trấn chưa khắc phục được bệnh quan liêu, hách dịch; vai trò của TCCS Đảng trong đơn vị hành chính, cơ quan sự nghiệp, các doanh nghiệp còn mờ nhạt, thủ trưởng chưa quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Công tác phát triển đảng viên ở các doanh nghiệp tư nhân còn chậm, chưa được quan tâm đúng mức. Công tác đánh giá xếp loại tổ chức đảng và đảng viên hàng năm ở một số cơ sở còn hình thức, chạy theo thành tích, chưa phản ánh đúng chất lượng của TCCS đảng và đội ngũ đảng viên.. Tình hình tư tưởng ở một số cơ sở chưa thật ổn định, sự đồng thuận chưa cao, thậm chí có nơi có biểu hiện mất đoàn kết. Công tác kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng còn hạn chế, chưa có biện pháp tích cực để ngăn ngừa, phát hiện, đấu tranh và xử lý kịp thời những tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Năng lực, trình độ, kinh nghiệm công tác của  một số cán bộ, đảng viên chưa đáp ứng yêu cầu. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên giảm sút ý chí phấn đấu, vi phạm nguyên tắc của Đảng, thiếu gương mẫu trong sinh hoạt, trong giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, trong thực hiện nhiệm vụ được giao; tính cộng sự, hợp tác chưa cao, thiếu tình đồng chí. Tư tưởng cơ hội, cục bộ, bảo thủ, hẹp hòi, níu kéo, quan liêu, cá nhân chủ nghĩa, phe cánh gây mất đoàn kết trong Đảng chậm được khắc phục.

Đánh giá về công tác xây dựng, hoạt động của TCCSĐ thời gian qua, Đại hội XI của Đảng chỉ rơ: Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên đạt được một số kết quả tích cực; chú trọng hơn xây dựng, củng cố TCCSĐ ở những vùng, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn. Chức năng, nhiệm vụ các loại hình TCCSĐ được xác định phù hợp hơn. Công tác phát triển, quản lý, nâng cao chất lượng đảng viên được quan tâm chỉ đạo. Số lượng đảng viên mới kết nạp hàng năm đều tăng. Bên cạnh đó, Đại hội cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục, như năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít TCCSĐ còn thấp; công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn; tự phê bình và phê bình yếu. Việc xây dựng TCCSĐ trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn chậm, vai trò của tổ chức đảng ở đây mờ nhạt.

Nguyên nhân của những hạn chế yếu kém trên là do mặt trái của cơ chế thị trường và các tiêu cực xã hội tác động không nhỏ đến tư tưởng và sự phấn đấu của cán bộ, đảng viên. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng chưa thật quyết liệt, chưa có các giải pháp hữu hiệu để tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng tổ chức đảng và đảng viên. Một số cấp ủy đảng nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc vị trí, vai trò và chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đảng; chưa đầu tư nhiều cho việc nghiên cứu, tìm tòi nâng cao chất lượng hoạt động,  chưa quan tâm đúng mức chỉ đạo công tác xây dựng, củng cố tổ chức Đảng ở cơ sở. Mặt khác, bản thân cấp uỷ cơ sở ở không ít nơi thiếu chủ động, còn trông chờ, ỷ lại vào cấp trên. Công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên chưa được coi trọng đúng mức, có nơi bị buông lỏng. Chưa thực hiện tốt mối quan hệ phối hợp giữa cấp ủy, tổ chức đảng với thủ trưởng cơ quan, đơn vị trong công tác xây dựng Đảng, công tác quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên. Một số đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo chưa thật sự gương mẫu trong sinh hoạt, thực hiện quy chế của cơ quan; tư phê bình và phê bình chưa tốt, chưa thật sự chăm lo công tác xây dựng Đảng tại cơ quan, đơn vị.

3/. Đề xuất các biện pháp:

Đảng ta muốn thực sự mạnh, phải chăm lo công tác xây dựng, nâng cao chất lượng của TCCSĐ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Phải có các biện pháp đồng bộ, chúng ta mới nâng cao được chất lượng của tổ chức đảng ở cơ sở và bảo đảm cho các TCCSĐ thực sự là nền tảng, hạt nhân chính trị của Đảng.

Các biện pháp đề xuất cụ thể như sau:

Một là, hoàn thiện việc xây dựng quy chế hoạt động, nắm vững và thực hiện đúng chức nãng nhiệm vụ của các loại hình TCCSĐ. Tập trung xây dựng các nghị quyết sát hợp với thực tiễn, nguyên vọng của nhân dân. Nghị quyết phải đi từ nghị quyết tổng quát đến nghị quyết chuyên đề và các chương trình hành động. Coi trọng khâu chỉ đạo, tổng kết rút kinh nghiệm. Bổ sung hoàn thiện quy chế lãnh đạo của Đảng bộ, xác định rõ nhiệm vụ, quan hệ phối hợp.

Hai là, đánh giá đúng chất lượng TCCSĐ theo hướng coi trọng chất lượng, chống bệnh thành tích. Cụ thể hoá tiêu chuẩn đánh giá chất lượng TCCSĐ theo hướng dẫn của Ban chấp hành Trung ýơng. Lấy  kiến đóng góp của các đoàn thể chính trị - xã hội và quần chúng nhân dân ở cơ sở. Gắn bình xét TCCSĐ với đánh giá chất lượng của chính quyền, đơn vị, đoàn thể. Đề cao trách nhiệm của ngýời đứng đầu TCCSĐ và cấp trên cơ sở về chất lượng của việc bình xét.

Ba là, tiếp tục kiện toàn đảng ủy, chi ủy gắn với nâng cao đội ngũ cán bộ công chức. Kiện toàn Đảng ủy theo hướng coi trọng tiêu chuẩn nhưng phải chú ý đến cơ cấu [giới tính, độ tuổi, dân tộc, các bộ phận]. Người đứng đầu cấp ủy phải am hiểu công tác Đảng, có phong cách làm việc dân chủ, khoa học. Để chọn được đảng ủy, chi ủy có chất lượng, vấn đề rất quan trọng là bảo đảm quyền dân chủ thực sự của đảng viên để họ lựa chọn và bầu vào cấp ủy cơ sở những đồng chí tiêu biểu, có đủ phẩm chất chính trị, kiến thức, năng lực tổ chức thực tiễn; có đạo đức, lối sống lành mạnh, được đảng viên và quần chúng tín nhiệm. Muốn có được nguồn cán bộ đạt tiêu chuẩn lựa chọn vào cấp ủy đảng, cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kiến thức cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở; bố trí cán bộ chủ chốt của những tổ chức khác trong hệ thống chính trị cơ sở, tạo nguồn cán bộ lãnh đạo cho Đảng trong lâu dài.

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, “để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo”. Điều đó phải được quán triệt và thực hiện ở các cấp bộ đảng, trước hết là TCCSĐ. Từng đảng viên cần nhận thức và phát huy đầy đủ vai trò của tổ chức đảng đối với mọi mặt hoạt động của đơn vị. Đặc biệt cần: “Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cấp ủy viên, trước hết là bí thư cấp ủy”. TCCSĐ chỉ trong sạch, vững mạnh khi có cấp ủy thực sự mạnh, nội bộ đoàn kết thống nhất. Muốn vậy, từng cấp ủy viên phải không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt.

Thực tế trong toàn Đảng hiện nay, số cán bộ dày dạn kinh nghiệm, trải qua thực tiễn chiến tranh ngày càng ít dần, số cán bộ chủ chốt ngày càng trẻ hóa, nên trước những khó khăn, phức tạp, có vấn đề mới nảy sinh, hoặc địa phương, cơ sở có sự biến động về nhiệm vụ, tổ chức, thì một bộ phận lúng túng, hoặc chưa đủ sức để giải quyết, còn chờ đợi cấp trên. Trước yêu cầu mới đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là đội ngũ cấp ủy viên, bí thư cấp ủy phải thực sự vững vàng, đủ bản lĩnh, trình độ giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra. “Mỗi cán bộ, đảng viên đều phải học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị. Xây dựng và thực hiện quy định mọi đảng viên có trách nhiệm làm công tác tư tưởng. Cán bộ chủ chốt cấp ủy đảng phải thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân, chủ động nắm bắt, đánh giá, dự báo diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và có biện pháp giải quyết kịp thời”. Đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chủ chốt của địa phương, cơ sở phải thực sự gương mẫu trước nhân dân. “Mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực sự là một tấm gương về phẩm chất đạo đức, lối sống. Cán bộ cấp trên phải gương mẫu trước cán bộ cấp dưới, đảng viên và nhân dân”. Có như vậy, mới giữ vững được vai trò lãnh đạo ở cơ sở; mới thống nhất về ý chí và hành động, thực sự là hạt nhân chính trị, trung tâm đoàn kết của đảng bộ, địa phương. Xây dựng cấp ủy đảng mạnh, nội bộ thực sự đoàn kết, thống nhất phải gắn liền với đổi mới phong cách, lề lối làm việc của cấp ủy, đề cao vai trò của cán bộ chủ trì. “Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Thực hiện tốt chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu”.

Bốn là, Giữ vững các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng gắn với nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng ủy, chi bộ. Các tổ chức đảng cần duy trì sinh hoạt có nền nếp, coi sinh hoạt đảng là nơi để tổ chức đảng và mỗi đảng viên thực hiện đúng chức năng lãnh đạo, giáo dục và chiến đấu của mình. Các cấp uỷ cần chuẩn bị tốt nội dung, tạo điều kiện cho đảng viên chuẩn bị, đóng góp ý kiến trong sinh hoạt. Người chủ trì điều hành sinh hoạt phải đúng nguyên tắc, phát huy dân chủ và trí tuệ tập thể, gợi mở để động viên các đảng viên thảo luận, tranh luận sôi nổi, thẳng thắn. Khi có ý kiến khác nhau, phải thảo luận kỹ, đối với những vấn đề quan trọng phải biểu quyết, nếu cần, phải khảo sát, điều tra rồi mới kết luận.

Nãm là, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của chính quyền, mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở. Phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân tham gia xây dựng Đảng, đóng góp ý kiến, phê bình cán bộ, đảng viên nhất là người đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể. Phải xác định rằng, tham gia xây dựng Đảng là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của các tổ chức chính trị-xã hội và của quần chúng nhân dân. Tổ chức nghiêm túc, có hiệu quả hoạt động của các tổ chức quần chúng và các tổ chức chính trị-xã hội tham gia tích cực xây dựng Đảng, đóng góp ý kiến, phê bình cán bộ, đảng viên nhất là người đứng đầu, giúp cấp uỷ, tổ chức đảng có thêm thông tin về ưu, nhất là thiếu sót, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên. Đây là một trong những biện pháp quan trọng xây dựng Đảng từ cơ sở. Thông qua quần chúng để thu thập thông tin và từ đó cấp uỷ, chi bộ có những giải pháp cụ thể, thiết thực để nâng cao tính chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cấp uỷ, cán bộ, đảng viên phải thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng nâng cao nhận thức trách nhiệm và giác ngộ về Đảng cho quần chúng, tạo điều kiện thuận lợi để quần chúng cung cấp thông tin, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Đảng, phê bình đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đồng thời, cấp uỷ, cán bộ, đảng viên phải luôn nắm chắc tình hình hoạt động của tổ chức chính trị-xã hội để có chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát đúng, phát huy cao vai trò của quần chúng.

Sáu là, tăng cường sự chỉ đạo của tổ chức Đảng cấp trên. Khuyến khích cơ sở tăng cường tính năng động, sáng tạo, đồng thời tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn của tổ chức Đảng cấp trên, trước hết là cấp trên trực tiếp. Đây là giải pháp quan trọng, nhằm tháo gỡ những khó khăn cho cơ sở, tạo điều kiện cho cơ sở đi đúng hướng. Vì thế, các cấp trên của cơ sở, nhất là cấp trên trực tiếp theo chức trách của mình cần đánh giá thực trạng của cơ sở Đảng, từ đó có chủ trương, kế hoạch chỉ đạo cụ thể đối với từng vùng và từng Đảng bộ cơ sở, giúp cấp cơ sở xác định nhiệm vụ chính trị, phương hướng sản xuất- kinh doanh và các hoạt động xã hội khác. Soát xét, kiện toàn đội ngũ cán bộ cốt cán ở cơ sở, tăng cường cán bộ tốt cho cơ sở và đào tạo lại đội ngũ cán bộ này. Giúp cơ sở về vật chất và kỷ thuật, có chính sách giúp cơ sở mở rộng sản xuất.

Thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về nâng cao tính chiến đấu của TCCSĐ. Các TCCSĐ cần thường xuyên nắm chắc tình hình, đánh giá đúng thực trạng tính chiến đấu của từng chi bộ, đảng bộ, từng cán bộ, đảng viên, từ đó xác định chủ trương, kế hoạch, nội dung, biện pháp xây dựng, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức đảng làm tốt công tác kiểm tra, giám sát. Cấp uỷ, tổ chức đảng cần quan tâm việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về nâng cao tính chiến đấu của các TCCSĐ, phải coi đây là một trong những giải pháp rất quan trọng, góp phần nâng cao trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng. Việc sơ kết, tổng kết phải được tiến hành thành nền nếp; thông qua sơ, tổng kết, các chi uỷ, chi bộ đánh giá được chất lượng, mức độ, hiệu quả của tính chiến đấu trong sinh hoạt và hoạt động, biểu dương, khen thưởng những tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc, kiên quyết đấu tranh, phê phán những biểu hiện sai trái, tiêu cực.

Ngoài ra, cần chú ý tổng kết, đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm để tiếp tục thực hiện Quy định số 15-QĐ/TƯ của BCH TƯ Đảng [khóa X] về đảng viên làm kinh tế tư nhân và thực hiện thí điểm việc kết nạp những người là chủ DN tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng. Đây là những chủ trương mới được nêu từ ĐH X và ĐH XI của Đảng, thể hiện bước phát triển mới trong tư duy lý luận về xây dựng Đảng của Đảng ta, phù hợp với bản chất và tính tiền phong của Đảng. Trong giai đoạn hiện nay, khi Đảng ta khẳng định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, đảng viên cần phải đi đầu trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động và nhiều của cải vật chất cho xã hội. Cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân là Đảng tạo cơ hội, điều kiện để đảng viên phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu trên mặt trận kinh tế, đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển đất nước. Kết nạp những doanh nhân chân chính, đủ tiêu chuẩn vào Đảng là góp phần làm tăng sức mạnh, năng lực lãnh đạo kinh tế của Đảng nói chung và các TCĐ có đảng viên là chủ DN tư nhân nói riêng, thông qua đó giúp Đảng hoàn thành được sứ mệnh vẻ vang với giai cấp, nhân dân và dân tộc.

Tóm lại, nâng cao tính chiến đấu của TCCSĐ là một trong những nhiệm vụ quan trọng, nhằm giáo dục, rèn luyện Đảng ta ngang tầm yêu cầu cách mạng mới, xây dựng Đảng ta là đạo đức, là văn minh, góp phần thực hiện hiệu quả cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng và học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

4/. Liên hệ thực tiễn Đảng bộ cơ quan:

Video liên quan

Chủ Đề