Tính khách quan của tiếp nhận văn học


CHUYÊN ĐỀ: CÁCH LÀM BÀI LLVH: TIẾP NHẬN VĂN HỌC

ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lý do chọn đề tài

Tác phẩm văn chương là một hiện tượng độc đáo được sáng tạo theo quy luật của tình cảm, là kết quả của "nỗi thống khổ và sự giải thoát". Tác phẩm văn chương tiềm ẩn bao điều về cuộc sống, con người... và khả năng khơi gợi ở người đọc những rung cảm sâu xa. Song để phát hiện, khám phá cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương, sống với nó quả là điều không mấy dễ dàng và không phải ai cũng làm được. Có lẽ vì vậy mà bao thế hệ các thầy cô giáo dạy văn, nhất là các thầy cô dạy các em học sinh giỏi môn Ngữ văn luôn băn khoăn, trăn trở về vấn đề tiếp nhận văn học.

Nhiều năm trở lại đây, vấn đề tiếp nhận tác phẩm không chỉ là mối quan tâm của lí luận văn học mà còn là đối tượng của rất nhiều khoa học nghiên cứu văn học. Nếu như vai trò sáng tạo của nhà văn có lịch sử nghiên cứu khá đầy đặn thì vai trò của người đọc, bản chất của quá trình tiếp nhận văn học dẫu đã được ―canh tác‖ ít nhiều vẫn còn là mảnh đất khá màu mỡ, mời gọi khám phá. 

Hơn thế, vấn đề tiếp nhận văn học cũng là một trong những phương diện kiến thức trọng tâm được dùng để ra đề thi cho đối tượng học sinh giỏi quốc gia môn Ngữ văn lớp 12 THPT. Vì những lí do trên, chúng tôi đã chọn và nghiên cứu về đề tài:

Tiếp nhận văn học.

2. Đối tượng nghiên cứu

Vấn đề tiếp nhận văn học trong dạy và học môn Ngữ văn ở nhà trường THPT.  

3. Mục đích nghiên cứu

-  Tái tạo hệ thống kiến thức lí thuyết về tiếp nhận văn học.

-  Xây dựng hệ thống đề và đáp án về tiếp nhận văn học áp dụng ôn luyện cho kì thi học sinh giỏi quốc gia môn Ngữ văn lớp 12 THPT.

4.      Phương pháp nghiên cứu:

Trong chuyên đề này người viết sử dụng những phương pháp cơ bản như:

• Thu thập và xử lý thông tin.

• Phân tích, tổng hợp, so sánh.

• Ra đề, xây dựng ma trận, đáp án.

5.        Cấu trúc chuyên đề:

Phần nội dung sáng kiến kinh nghiệm có cấu trúc như sau:

Phần I: Lí thuyết tiếp nhận văn học

Phần II: Hệ thống đề và đáp án ôn luyện về tiếp nhận văn học.

Phần III: Hệ thống đề ôn tập về nhà.

PHẦN NỘI DUNG

 I.  LÍ THUYẾT TIẾP NHẬN VĂN HỌC

1. Khái niệm

Theo từ điển thuật ngữ văn học: Tiếp nhận văn học là quá trình chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mỹ của tác phẩm văn học, bắt đầu từ cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tình cảm, quan niệm nghệ thuật, tài nghệ của nhà văn … đến sản phẩm sau khi đọc: Cách hiểu, ấn tượng, trí nhớ, ảnh hưởng trong hoạt động sáng tạo bản dịch.

Theo SGK Ngữ văn 12, tập 2: Tiếp nhận văn học là quá trình người đọc hòa mình vào tác phẩm, rung động với nó, đắm chìm trong thế giới nghệ thuật được dựng lên bằng ngôn ngữ, lắng nghe tiếng nói của tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp, tài nghệ của người nghệ sĩ sáng tạo. Bằng trí tưởng tượng, kinh nghiệm sống, vốn văn hóa và bằng cả tâm hồn mình, người đọc khám phá ý nghĩa của từng câu chữ, cảm nhận sức sống của từng hình ảnh, hình tượng, nhân vật, dõi theo diễn biến của câu chuyện, làm cho tác phẩm từ một văn bản khô khan biến thành một thế giới sống động, đầy sức cuốn hút. Như vậy, tiếp nhận văn học là hoạt động tích cực của cảm giác, tâm trí người đọc nhằm biến văn bản thành thế giới nghệ thuật theo tâm trí mình.

Cần phân biệt tiếp nhận và đọc. Tiếp nhận rộng hơn đọc, vì trước khi có chữ viết và công nghệ in ấn, tác phẩm văn học đã được truyền miệng. Ngày nay, khi tác phẩm văn học chủ yếu được in ra, nhiều người vấn tiếp nhận văn học không phải do đọc bằng mắt mà nghe bằng tai, như nghe chính tác giả đọc thơ, nghe ―đọc truyện đêm khuya trên đài phát thanh …

2. Tính chất tiếp nhận văn học

2. 1. Tiếp nhận là giai đoạn cuối cùng của quá trình sáng tác

Nếu ví tác phẩm nghệ thuật là đứa con tinh thần của nhà văn, nhà văn phải thai nghén, mang nặng, đẻ đau thì hoàn thành văn bản tác phẩm chỉ ứng với lúc đứa con được sinh ra, đứa con chào đời. Còn sự sống, cuộc đời, số phận của nó như thế nào là chưa nói đến. Số phận đứa con sẽ được định đoạt như thế nào là tùy thuộc vào nó và xã hội chung quanh. Số phận của tác phẩm nghệ thuật như thế nào là tùy thuộc vào nó và người tiếp nhận nó. Chỉ đến khi được người đọc tiếp nhận thì hoạt động sáng tạo nghệ thuật mới hoàn tất. Một tác phẩm nghệ thuật được viết xong nhưng nằm im trong ngăn kéo của nhà văn hoặc không được ai đoái hoài tới thì chưa phải là tác phẩm nghệ thuật thực sự. Sơ đồ của quá trình sáng tác - giao tiếp của văn chương như sau: Nhà văn - Tác phẩm - Bạn đọc.

Như vậy, có ba giai đoạn của quá trình sinh tồn sản phẩm văn chương: Giai đoạn một là giai đoạn hình thành ý đồ sáng tác, giai đoạn hai là giai đoạn sáng tác. Ðây là giai đoạn ý đồ sáng tác cộng với tài năng sáng tạo được vật chất hóa trong chất liệu ngôn ngữ, thành tác phẩm. giai đoạn ba là giai đoạn tiếp nhận của bạn đọc.

Ðây là giai đoạn văn bản tác phẩm thoát ly khỏi nhà văn để tồn tại một cách độc lập trong xã hội, trong từng người đọc.

2.2. Tiếp nhận văn học là một quá trình giao tiếp 

Tiếp nhận văn học là một quá trình giao tiếp. Sự giao tiếp giữa tác giả và người tiếp nhận là mối quan hệ giữa người nói và người nghe, người viết và người đọc, người bày tỏ và người chia sẻ, cảm thông. Bao giờ gười viết cũng mong người đọc hiểu mình, cảm nhận những điểu mình muốn gửi gắm, kí thác. Cao Bá Quát từng nói: ―Xưa nay , nỗi khổ của người ta không gì bằng chữ tình, mà cái khó ở đời không gì bằng sự gặp gỡ‖. Gặp gỡ, đồng điệu hoàn toàn là điều vô cùng khó khăn. Song dẫu không có được sự hoàn toàn, tác giả và người đọc thường vẫn có được sự tri âm nhất định ở một số khía cạnh nào đó, một số suy nghĩ nào đó. 

Đọc Truyện Kiều, người không tán thành quan điểm ―Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau của Nguyễn Du vẫn có thể chia sẻ với ông nỗi đau nhân thế; người không bằng lòng với việc tác giả để cho Từ Hải ra hàng vẫn có thể tâm đắc với những trang ngợi ca người anh hùng ―Chọc trời khuấy nước mặc dầu – Dọc ngang nào biết trên đầu có ai… 

2.3. Tính khách quan của tiếp nhận văn học    

Tiếp nhận văn chương là một hoạt động xã hội - lịch sử, mang tính khách quan. Tác phẩm sau khi thoát ly khỏi nhà văn thì nó trở thành một hiện tượng tinh thần, một khách thể tinh thần tồn tại một cách khách quan đối với người đọc. Người đọc tiếp nhận nó là một kiểu phản ảnh, nhận thức thế giới. Mà nhận thức nào cũng có phương diện chủ quan và phương diện khách quan của nó. Hơn nữa, một nhận thức đúng đắn là một nhận thức tiếp cận được với bản chất và quy luật của đối tượng. Nội dung của tác phẩm trước hết là do những thuộc tính nội tại của nó tạo nên, là cái vốn có chứa đựng trong bản thân tác phẩm. 

Có thể nói tác phẩm nghệ thuật gồm có hai phần, phần cứng và phần mềm.

Phần cứng là văn bản, là sự khái quát đời sống, là một hệ thống ý nghĩa, tiếp nhận phụ thuộc vào các tương quan đời sống xã hội, phụ thuộc vào lòng người đọc. Phần cứng tạo ra cơ sở khách quan của tiếp nhận. Trong phần cứng này, có nhiều phương diện để tạo ra tính khách quan cho tiếp nhận văn chương. Thứ nhất là hiện thực đời sống được phản ảnh. Thứ hai là chất liệu nghệ thuật xây dựng hình tượng phản ánh đời sống là trên cơ sở ngôn ngữ toàn dân, thứ ba là sự định hướng nội tại của tác phẩm vào việc tác động thẩm mĩ do nhà văn tạo nên. Nhà văn không giản đơn chỉ làm cái truyền đạt những hiểu biết đời sống, những quan sát, những phát hiện nghệ thuật của mình mà anh ta còn hướng tới việc thể hiện những cái đó sao cho chúng gây ấn tượng nhiều nhất đến công chúng độc giả. Ðây là thuộc tính tất yếu của tác phẩm ở cả nội dung và hình thức.

Phải thấy, Văn bản là một tổ chức có tính liên kết và mạch lạc. Văn bản có đặc điểm thể loại. Từ ngữ và hình ảnh có những ý nghĩa do truyền thống văn hóa dân tộc và thời đại quy định. Người đọc không thể bất chấp các đặc trưng biểu đạt của văn bản, không thể tùy tiện cắt xén câu văn hay áp đặt ý nghĩa. Như thế văn bản vẫn là phương thức tồn tại khách quan của tác phẩm, quy định hoạt động tiếp nhận của người đọc. Sự tiếp nhận phải phù hợp với dữ liệu khách quan của văn bản mới thực sự có giá trị. Do đó, cần khẳng định tính khách quan của tiếp nhận. Mọi người đọc đều có thể phát huy sự tìm tòi, cảm nhận của mình, song sự cảm nhận đó phải có cơ sở trong toàn bộ văn bản.

Chính cơ sở khách quan của việc tiếp nhận tác phẩm đã tạo ra ấn tượng chung đồng nhất ở mọi người đọc. Phần cứng của tác phẩm tạo ra phần nội dung tương đồng bất biến từ tác giả đến mọi người đọc. Rõ ràng là, độc giả hay khán giả sau khi cùng xem xong một tác phẩm nghệ thuật nào đó đều có một ấn tượng chung về một nhân vật nào đó. Trong dân gian những nhân vật nghệ thuật sau đây đã đi vào cuộc sống có ấn tượng tương đồng ở mọi người: Trương Phi, Tào Tháo; [Nóng như

Trương Phi, Ða nghi như Tào Tháo] Sở Khanh, Hoạn Thư [người nào lừa đảo phụ nữ được gán cho hiệu Sở Khanh, người phụ nữ nào hay ghen và ghen một cách cay độc thì được gán cho hiệu máu Hoạn Thư].  

2.4. Tính chủ quan của tiếp nhận văn học

Trong tính giao tiếp giữa tác phẩm và độc giả, cần chú ý tính chất cá thể hóa, tính chủ động, tích cực của người tiếp nhận. Ở đây, năng lực, thị hiếu, sở thích cá nhân đóng vai trò rất quan trọng; tùy theo lứa tuổi già hay trẻ, trình độ học vấn cao hay thấp, kinh nghiệm nhiều hay ít mà có kết quả tiếp nhận cụ thể, riêng biệt cho mỗi người. Thậm chí cùng một người, lúc nhỏ đọc tác phẩm ấy đánh giá khác, sau lớn lên đánh giá khác, về già lại đánh giá khác. Hơn thế, người đọc khi đến với tác phẩm văn học có nhiều tâm trạng vui buồn khác nhau, có trình độ văn hóa khác nhau, có thái độ định kiến hoặc vô tư, phóng khoáng khác nhau. Có bao nhiêu người đọc một tác phẩm  thì có bấy nhiêu ―dị bản‖ về tác phẩm ấy trong tâm hồn, xét về đậm nhạt, nông sâu, toàn diện hay phiến diện. Người thì hứng thú với các chi tiết này, người lại kể lể say sưa với các chi tiết nọ, và hình như ai cũng có cái lí của mình. Chẳng hạn, cùng đọc truyện Bà chúa tuyết của An-đéc-xen, trẻ em và người lớn đều thích thú nhưng cách hiểu của mỗi người lại không giống nhau. Vẫn là bài Thơ duyên của Xuân Diệu nhưng khi buồn đọc khác, khi vui đọc khác, khi đang yêu đọc khác, …

Tính khuynh hướng trong tư tưởng, tình cảm, trong thị hiếu thẩm mĩ càng làm cho sự tiếp nhận văn học mang đậm nét cá nhân và chính sự chủ động của người tiếp nhận đã làm tăng thêm sức sống của tác phẩm. Nhưng khẳng định tính chủ quan của tiếp nhận không có nghĩa là người đọc hoàn toàn tự do muốn hiểu văn bản thế nào cũng được.

2.5. Tính khuynh hướng xã hội của tiếp nhận văn học  

Tiếp nhận văn chương tuy mang dấu ấn cá nhân sâu sắc nhưng chưa bao giờ là hoạt động thoát ly khỏi điều kiện lịch sử xã hội. Hoạt động nghệ thuật luôn luôn là hoạt động mang tính khuynh hướng xã hội mạnh mẽ. Khuynh hướng xã hội, đời sống thực tế sẽ chi phối mạnh mẽ đến quá trình tiếp nhận văn chương của mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân đến với tác phẩm không chỉ đem đến cho nó cái tôi mà còn cái ta nữa.

Họ cắt nghĩa tác phẩm trên cơ sở lập trường giai cấp, lợi ích xã hội. Tiếp nhận Truyện Kiều, Nguyễn Khuyến suy ngẫm về xã hội đồng tiền trở thành cán cân công lí mà Nguyễn Du lên án:

Có tiền việc ấy mà xong nhỉ

Ðời trước làm quan cũng thế a?

Rõ ràng Nguyễn Khuyến đã nhìn Truyện Kiều từ điều kiện lịch sử mà ông đang sống. Vịnh Kiều nhưng lên án xã hội đương thời. Ðời trước làm quan cũng thế, cũng như đời nay. Ðó là tiền. 

Sau khi nhà văn hoàn tất văn bản tác phẩm thì, tác phẩm nghệ thuật bắt đầu trôi nỗi trong dòng đời và đón nhận số phận lịch sử của mình. Có tác phẩm vừa mới ra đời, liền được người đọc vồ vập ấp iu, nhưng sau đó bị lãng quên. Có tác phẩm, lúc mới ra đời thì bị hắt hủi, lãng quên nhưng sau đó lại được nâng niu trân trọng. Có tác phẩm đời sống của nó êm ả hoặc sáng chói lâu dài, có tác phẩm mờ mờ ảo ảo… Có tác phẩm cùng trong một thời đại nhưng bạn đọc, người ghét, kẻ yêu, người khen, kẻ chê. Lại có tác phẩm ý đồ nhà văn một đằng mà người đọc hiểu một nẻo. Truyện Kiều ở ta là một thí dụ. Ngày nay chúng ta xem Truyện Kiều là một kiệt tác văn chương dân tộc. Và thực sự Truyện Kiều đã làm nhiều thế hệ mê mẫn. Trong đó, có vua Tự Ðức:

Mê gì mê thú tổ tôm

Mê ngựa Hậu bổ, mê nôm Thúy Kiều.

Nhưng không phải đã không có thời , có người sợ Truyện Kiều

Làm trai chớ đọc Phan Trần

Làm gái chớ đọc Thúy Vân, Thúy Kiều.

Hiện tượng có những tác phẩm nào đấy mà số phận của nó sự thăng trầm qua các thời đại thì không phải lúc thăng là do công chúng thời đại đó thông minh còn lúc trầm là do công chúng thời đại đó dốt nát. Ðiều chính yếu là do xu hướng tư tưởng thời đại tác động đến. Việc tiếp nhận Thơ mới ở ta chẳng hạn. Khi phong trào Thơ mới ra đời, người đọc rầm rộ đón nhận, nhất là thanh niên, nhưng sau đó, khi đất nước tiến hành cuộc sống chiến chống Pháp, Mĩ thì Thơ mới đã trở nên cũ. Vì nó làm ủy mị con người kiên cường xông pha lửa đạn. Ngày nay, đất nước hoà bình xây dựng, người ta lại tiếp nhận Thơ mới như là nó vẫn mới. Ðúng như Kharavchenko nói: Mỗi thời đại riêng thường thích hợp với những sắc điệu khác nhau trong tác phẩm nghệ thuật với những phương diện khác nhau của khái quát hình tượng của nó.

3. Người đọc trong quá trình tiếp nhận văn học

3.1. Vai trò của người đọc  

Lấy mối quan hệ tác giả - tác phẩm - bạn đọc làm căn cốt, xưa nay có nhiều ý kiến khác nhau về yếu tố trung tâm của hoạt động văn học. Trước đây, có một quan niệm đã trở thành quán tính trong nghiên cứu phê bình: lấy tác giả cùng cá tính sáng tạo làm trung tâm. Nó xem nhẹ vai trò của bạn đọc và quá trình tiếp nhận. Ý tưởng của nghệ sĩ là nòng cốt, là ―chỉ dẫn của Chúa‖ để soi đường cho những tín đồ văn chương mải miết đi tìm chân lí. Tiếp nhận được xem như một nỗ lực phóng chiếu tinh thần nghệ sĩ vào tác phẩm, truy tìm ánh xạ tâm hồn nhà văn trong bề mặt ngôn ngữ, văn bản.

Theo đó, phê bình cố gắng lần tìm theo lối người viết đã đi để dựng lại một tác phẩm văn học duy nhất trong ý đồ sáng tạo. Hướng nghiên cứu phổ biến và lí tưởng một thời là tiếp cận trực tiếp với tác giả, khai thác địa đồ nhà văn đã phác thảo, lí giải tác phẩm bằng chỉ dẫn trực tiếp. Vấn đề đặt ra: làm cách nào để tìm hiểu các tác phẩm khuyết danh, các sáng tác của các nhà văn không đồng thời với chúng ta hay nhà văn đã mất? Nếu tác giả không để lại bất kì chỉ dẫn nào ngoài văn bản thì có nghĩa chiếc chìa khoá đi vào văn bản mãi mãi bị vùi lấp.

Xem tác phẩm văn học ―như một quá trình, các nhà nghiên cứu đã phục nguyên vai trò của bạn đọc. Khi tác phẩm kết thúc thì cuộc sống của nó mới bắt đầu. Với lí thuyết tiếp nhận, khi tác phẩm kết thúc đó chỉ là sự kết thúc của văn bản. Văn bản nghệ thuật chỉ là xác chữ, kí tự. Người đọc nó đã trút bỏ đời sống kí tự, hiện lên đời sống hình sắc. Người đọc huy động cảm giác, trí tưởng tượng để cảm nhận tác phẩm khiến tác phẩm sống trong sự đọc. Người viết và người đọc như là đối tượng song sinh, tác phẩm viết ra phải có người đọc mới hình thành sự đối thoại. 

Ngay từ xưa, Heghen trong Triết học tinh thần đã yêu cầu việc xem xét tác phẩm trong hệ thống "tác giả — tác phẩm — người đọc" vì ông cho rằng sự tồn tại của tác phẩm chỉ tồn tại trong ba yếu tố quan hệ hữu cơ với nhau ấy thôi. Còn người Trung Quốc xưa, lại cho rằng tác phẩm tồn tại trong lòng của ng-ời tri kỉ chứ không trên trang giấy; vì thế việc viết văn là việc của tấm lòng. Chính vì thế, tác phẩm chỉ thực sự tồn tại khi người ta ý thức được về nó mà thôi. Người đọc là người cứu tác phẩm ra khỏi hầm mộ của sách, giúp nó sống lại và bước đi giữa cuộc đời và hồn người. Tác phẩm tái sinh trong lòng bạn đọc.Vì thế, mỗi tác phẩm là một tiếng mời gọi tha thiết tấm lòng bạn đọc đến với mình, tri âm với mình để mình có được một đời sống mới. Sức sống của tác phẩm không nằm ở lối ra lệnh của nhà binh hay truyền giáo của tu sĩ mà nằm ở trường nhìn, trường cảm của từng cá nhân đọc khác nhau.

Mặt khác, trong quá trình sáng tạo của nhà văn, độc giả có vai trò nhất định, chi phối quá trình sáng tạo và chi phối cả nội dung, hình thức của tác phẩm. Trong quá trình tiếp nhận, độc giả có vai trò đồng sáng tạo. Tác phẩm là một bộ mã, nhà văn là người kĩ mã, bạn đọc giải mã. Ở Việt Nam, quan niệm về quá trình tiếp nhận và vai trò của bạn đọc đã được thấu thị qua những lăng kính khoa học đáng tin cậy. Dễ dàng nhận thấy những luận điểm đó khá gần gũi với nhận định của J.Paul.Sartre. Tác phẩm văn học như con quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện trong vận đông. Muốn làm cho nó xuất hiện, cần phải có một hoạt động cụ thể là sự đọc. Và tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục. Ngoài sự đọc ra, nó chỉ còn là những vệt đen trên giấy trắng. 

Cần nhận thức đúng giá trị của người đọc và vai trò của tác giả từ đó thấy được đọc là một sự sáng tạo. Nếu người đọc không có khả năng cảm nhận làm sống dậy thế giới hình sắc đằng sau con chữ thì có nghĩa cũng không cảm nhận được giá trị của tác phẩm. Tuy nhiên không thể cường điệu vai trò của người đọc lên địa vị trung tâm của hoạt động văn học bởi vì một lẽ giản đơn là chưa có sáng tác thì dứt khoát không thể có tiếp nhận.

3.2. Các loại hình người đọc

Loại hình học người đọc văn chương chia ra nhiều loại người đọc khác nhau:

Ðứng về phía người tiếp nhận, người ta chia người đọc ra bốn loại. Thứ nhất là người đọc tiêu thụ. Ðây thường là loại người đọc đọc  ngấu nghiến cốt truyện, ham thích tình huống éo le gay cấn, nhiều khúc mắc cạm bẫy. Loại này đọc lướt nhanh vào giờ nhàn rỗi, tìm thú giải trí, có những đánh giá dễ dãi. Thứ hai là, loại đọc điểm sách. Loại  người này có ý thức tìm ở văn chương những thông tin mới về cuộc sống, đạo đức … để thông báo cho độc giả của các báo. Thứ ba là loại người đọc chuyên nghiệp - những người giảng dạy nghiên cứu phê bình ở các trung tâm nghiên cứu.

Thứ tư là những người sáng tác - nhà văn, nhà thơ đọc theo cảm hứng bất chợt hoặc để tham gia viết những trang phê bình ngẫu hứng.

Ðứng ở góc độ sáng tác người ta chia người đọc ra làm ba loại. Thứ nhất:

người đọc thực tế. Tức là những người đọc, người tiếp nhận sáng tác tồn tại một cách cụ  thể, cá thể. Họ là những người A, người B nào đó trong đời sống, tiếp nhận văn chương theo cá tính, theo sở thích cá nhân. Như vậy, trước mắt người sáng tác có biết bao nhiêu người đọc thực tế. Nhưng nhà văn không viết để đáp ứng cho từng người cụ thể mà viết cho người đọc nói chung. Thứ hai: người đọc giả thiết. Ðây là loại độc giả của từng tác giả. Loại này tồn tại trong tác giảsuốt quá trình sáng tác từ nảy sinh ý đồ cho đến kết thúc. Nhà văn có chủ đích hướng tới họ là chủ yếu. Thứ ba: người đọc hữu hình hay người đọc bên trong là loại người đọc tồn tại bên trong tác phẩm như một nhân vật luôn đối diện và đối thoại với nhà văn, nhưng không phải nhân vật mà là hiện thân của người đọc bên ngoài tác phẩm. Tố Hữu viết bài thơ Kính gửi cụ Nguyễn Du, suốt bài thơ tác giả nói với cụ Nguyễn cụ thể nhưng thực tế Tố Hữu chủ yếu viết cho người đọc thực tế hôm nay, nói với người hôm nay. Trong thơ Tố Hữu dạng nhân vật này thường hay xuất hiện dưới đại từ em như một đối tượng thân thiết gần gũi để tâm sự:

-  Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan

-  Em ạ ! Cu-ba ngọt lịm đường

-  Ðứng ở góc độ thời gian, người ta chia người đọc ra làm ba loại: Thứ nhất: người đọc hiện tại, tức loại người đọc đang sống đồng thời với tác giả, họ thực sự tiếp nhận tác phẩm của tác giả và lên tiếng khen chê trực tiếp với tác giả. Trong số người đọc hiện tại, có thể chia ra làm nhiều lớp theo cách khác nhau: người đọc bình thường; người đọc của người đọc - nhà phê bình; người đọc thiếu nhi, thanh niên, công nhân, nông dân, trí thức… Thứ hai: người đọc quá khứ. Ðây là loại người đọc không thể và không bao giờ tiếp nhận tác phẩm cả. Nhưng nhiều khi nó quyết định thành bại của tác phẩm. khi Tố Hữu viết Kính gửi cụ Nguyễn Du thì đây phải là bức thư gửi cụ Nguyễn Du nào đó đang sống thực sự ở đâu đó, mà là gửi cho linh hồn cụ Nguyễn Du. Và chính Nguyễn Du lúc sinh thời cũng đã có loại người đọc như thế. đó là Tiểu Thanh [xem bài thơ Ðộc Tiểu Thanh ký.  Nhân vật nàng trong màu tím hoa sim của Hữu Loan cũng lại là một người đọc quá khứ. Thứ ba: người đọc tương lai.

Loại người đọc này chưa tồn tại thực tế sẽ có thể, hoặc không thực sự đọc tác phẩm nhưng vẫn xuất hiện trong quá trình làm tác phẩm của tác giả, và có khi là chủ đích hướng tới của nhà văn. Nhà văn muốn gởi thế kỉ mai sau, muốn nói chuyện với người

300 năm sau như Nguyễn Du đã nói:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

Stendhal thì chờ người đọc nửa thế kỉ sau.

Lại có cách chia người đọc theo ý thức hệ. Cách này, chia người đọc ra làm 2 loại. Thứ nhất: người đọc bạn bè, đây là loại người đọc chỉ hướng, cùng quan điểm xã hội, lập trường tư tưởng. Phần lớn các tác giả có đông đảo bạn đọc loại này. Ðây là loại bạn đọc chí cốt mà Tố Hữu đã nói: Tôi buộc hồn tôi với mọi người. để hồn tôi với bao hồn khổ.Thứ hai: loại người đọc đối thủ. Loại người đọc này trái với chí hướng, lập trường giai cấp xã hội của mình. chẳng hạn cụ Ngáo trong bài thơ Hởi cụ Ngáo của Tố Hữu.

3.3. Có nhiều cách đọc trong tiếp nhận văn học

Cách đọc kiểu tri âm: là tiếp nhận tác phẩm theo đúng ý đồ của tác giả. Sự cắt nghĩa và hiểu tác phẩm ở người đọc trùng khít với ý định của tác giả ký gởi vào tác phẩm từ giữa ý đồ tác giả, ý đồ của người lý giải nằm trong cùng một vòng tròn đồng tâm. Tri âm là biểu hiện tột cùng của sự hiểu biết, cảm thông lẫn nhau. Tiếp nhận theo kiểu này là tiếp nhận mang tính chủ quan, người ta quan niệm rằng tác phẩm được viết là để dành riêng cho những người sánh văn chương, có khả năng đi sâu tìm hiểu dụng tâm, dụng ý, nỗi lòng của tác giả, chứ không phải viết ra cho đông đảo độc giả công chúng ngoài xã hội thưởng thức, tiếp nhận. Quan điểm tiếp nhận theo kiểu tri âm đòi hỏi sự gặp gỡ, đồng điệu tuyệt đối giữa người sáng tác và bạn đọc, nhưng trên thực tế việc này rất khó khăn.

Cách đọc kiểu ký thác: Là sự tiếp nhận mà người đọc mượn tác phẩm để biểu lộ nỗi lòng của mình đối với cuộc đời. Do đó, tác phẩm văn chương được coi như là một phương tiện để người đọc giải bày tấm lòng, gửi gắm những quan niệm nhân sinh, những cảm xúc về thế cuộc hoặc những vấn đề bức thiết của cuộc sống mà trong một chừng mực nào đó người đọc không có điều kiện để nói ra một cách trực diện.

Tiếp nhận theo kiểu tri âm và ký thác gặp nhau ở tính đồng cảm giữa tác phẩm và bạn đọc.

4. Quá trình tiếp nhận văn học 

Bạn đọc đã chuyển hóa ―văn bản thứ nhất‘‘ của tác giả thành ―văn bản thứ hai‘‘ của chính mình. Tác phẩm văn học đã từ ―vật tự nó‘‘ biến thành ―vật cho ta‘‘. Thông thường, cũng như trong mối quan hệ giữa sáng tác với đời sống, giữa hai loại văn bản này nhiều nhất chỉ có sự thống nhất chứ không thể có đồng nhất hoàn toàn, vì phải trải qua những khâu chuyển dịch như sau:

4.1. Tái hiện để mà tái tạo

Các bộ môn nghệ thuật khác, chất liệu là vật chất, cho nên hình tượng của nó là trực tiếp. Họa sĩ vẽ một bức tranh, nhạc sĩ tấu một khúc nhạc, ta nghe thấy ngay. Văn học là nghệ thuật của ngôn từ, chất liệu của nó chỉ là kí hiệu của vật chất, cho nên hình ảnh của nó là gián tiếp. Nguyễn Du mô tả Thúy Kiều cùng tiếng đàn của nàng: ―Làn thu thủy, nét xuân sơn‖, ―Trong như tiếng hạc bay qua‖, v.v… chúng ta không nghe thấy gì cả. Như thế, muốn thưởng thức tác phẩm văn học, người đọc tất yếu phải trải qua khâu ―tái hiện‖. Không những thế, các kí hiệu ngôn từ trong tác phẩm văn học không phải ―đồng hiện‖, mà được triển  khai theo hình tuyến từ đầu đến cuối văn bản, như thế sự tái hiện ở đây là liên tục. Chính trong quá trình tái hiện liên tục này, chúng ta mới nghe thấy dần hình tượng nhà văn mô tả, nhưng là hình tượng được diễn lại trong đầu óc của người đọc, chứ không phải như bức tranh hoặc khúc nhạc bên ngoài. Nói văn học mang tính hình tượng gián tiếp là như vậy. Nghĩa là nó phải kinh qua sự tưởng tượng của người đọc ngay giây phút đầu tiên của quá trình thưởng thức tiếp nhận, một điều hầu như không đặt ra với một số bộ môn nghệ thuật khác. Mà đã nói đến tưởng tượng là tất yếu sẽ kèm theo một thuộc tính tất yếu là sự sáng tạo. Sự sáng tạo trong sự tiếp nhận của độc giả văn học được nhấn mạnh hơn so với công chúng một số bộ môn khác là vì vậy. Cộng với các vấn đề động cơ, tâm thế và tầm đón chung cho công chúng, có thể thấy sự tái hiện mang tính chất sáng tạo hay sự tái tạo trong việc đọc văn học theo các mặt như sau:

Trước hết là phải tái tạo lại hình tượng. Trong khi đọc tác phẩm văn học, độc giả vừa bám vào sự mô tả trong văn bản, vừa liên tưởng với loại người tương tự ngoài đời, đồng thời cũng dựa vào cảm nghĩ và lý giải của mình, mà hình dung, tưởng tượng về nhân vật nào đó. Kết quả là mỗi người mỗi khác. ―Một nghìn bạn đọc, thì có một nghìn Hamlét‖ như người phương Tây thường nói. Hình dung mỗi người mỗi khác, cũng có nghĩa là không giống sự hình dung với chính tác giả. Lỗ

Tấn nói: ―Chúng ta học Hồng lâu mộng, từ chữ nghĩa hình dung ra con người Lâm Đại Ngọc… nhưng e rằng sẽ hình dung thành một nữ lang thời thượng, cắt tóc ngắn, mặc lụa là Ấn Độ, thân hình mảnh dẻ, dáng cô độc, hoặc là một dáng vẻ khác, tôi khó đoán định được. Nhưng nếu thử so sánh với bức tranh trong Hồng lâu mộng đồ vịnh ba bốn mươi năm trước thì hoàn toàn khác; bức tranh đó vẽ Lâm Đại Ngọc trong lòng độc giả thời ấy‖ [Lỗ Tấn toàn tập, tập V, tr.430]

Hai là thay đổi lại theo tình cảm khác. Tác phẩm văn học thành công nào cũng chan chứa tình cảm, đủ các sắc thái vui, buồn, giận, thương, v.v…, tất nhiên trong đó sẽ nổi lên một trạng thái tình cảm chủ đạo. Nhưng người đọc thường chỉ thích và nhớ nhất những trạng thái tình cảm nào phù hợp với sự xúc động thường ngày của bản thân. Chị Trần Thị Lý thoát khỏi manh vuốt của giặc ra miền Bắc, được đồng bào đồng chí quý trọng và hết lòng chăm sóc. Bài Người con gái Việt Nam của Tố Hữu đã biểu hiện lại những tình cảm cao đẹp này. Nhưng tình cảm trong thơ cũng đạt đến độ điển hình. Nghĩa là phải cô kết những tình cảm chung nói trên thành một cảm xúc rất riêng tư, không giống với một ai, không một ai dám thổ lộ như thế. Đó là tấm lòng và giọng điệu của một người anh trai trong  Người con gái Việt Nam. Mà chính cái riêng này mới nói lên cái chung được nhiều nhất. Thực chất là lỗi xưng hô ― Tôi … em trong bài thơ này là như vậy. Nhưng chúng ta đã từng nghe các chàng trai cười khúc khích khi ngâm nga ―Cho tôi hôn bàn chân em lạnh ngắt, Cho tôi nâng bàn tay em nắm chặt‖,v.v... thậm trí không nhớ trong bài thơ nào, tác giả là ai? Đúng sai, có thể bàn, nhưng ai cấm được hiện tượng này?

Ba là giải thích theo quan niệm khác. khi một bạn đọc, nhất là các nhà khoa học đã có một quan niệm riêng về con người và thế giới, thậm trí đã hình thành một chủ thuyết thì tất nhiên họ thường giải thích lại mọi việc trên đời, nhất là đối với những kiệt tác văn học nghệ thuật vì đây là ―những bức tranh nhân sinh thu gọn‖. Chúng ta biết nhiều cách phân tích về sự chần chừ của Hamlét. Gớt cho đó là mâu thuẫn giữa trí tuệ và sắc sảo, nhưng năng lực hành động quá hạn chế, v.v... Trái lại, căn cứ theo lý thuyết phân tâm của mình, S.Phrớt khẳng định: ―Hamlét có khả năng làm tất cả, chỉ trừ việc trả thù con người mà đối với nó là hiện thân của sự thực hiện những ham muốn của tuổi thơ bị bài ức. Lòng căm thù lẽ ra phải thúc đẩy ý muốn báo thù thì được thay thế ở y bằng sự than thân trách phận và những cắn rứt của lương tâm. Tất cả những điều này mách bảo với y rằng bản thân y nói thẳng ra, thì cũng chẳng hơn gì tên tội phạm mà y phải trừng trị.

Thật ra, sự tái tạo hay thay đổi còn diễn ra trong vô số cấp độ và bình diện, mà trên kia chỉ là sơ lược đôi nét. Sự thay đổi đó, thậm chí còn diễn ra ở một con người đọc một tác phẩm xác định nhưng trong những lúc khác nhau. Nếu đọc ―Hồng lâu mộng” trong lúc trai trẻ, làm sao mà không cảm thấy thú vị trước hết đối với cảnh vui chơi nô đùa giữa các công tử, tiểu thư với những a hoàn xinh đẹp. Nhưng khi đã nếm mùi của trường tình biển ái, thì sẽ không khỏi xót xa trước bi kịch của Bảo – Lâm. Lúc về già, đã trải nghiệm biết bao trầm luân cay đắng của cuộc đời, đọc lại ― Hồng lâu mộng ”, mới ngấm hết bao nỗi nhân tình thế thái, cuộc thịnh suy trong biển đời khổ ải. 

Tuy vậy, những kỷ niệm đọc, đọc một cách xúc động của một thời, vẫn sống mãi, và sẽ tham gia vào hiệ quả tiếp nhận của những lần đọc sau. Bởi vì khi đọc lại một tác phẩm mà ta xúc động trong thời gian qua, thì bao nhiêu không khí cảnh huống của thời ấy cũng đồng thời sống lại. Đó là lý do giải thích vì sao nhiều tác phẩm, bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu câu thơ, chẳng hạn trong sách giáo khoa, mà ta tiếp xúc thời Thơ ấu, ngẫm ra cũng bình thường thôi, nhưng nay đọc lại vẫn thấy thú vị.

4.2. Lý giải và ngộ nhận

Như trên đã nói, có thể thấy sự tiếp nhận bạn đọc, vừa có khả năng lý giải đúng, nhưng cũng có khả năng ngộ nhận ý đồ của tác giả. Trong lời tựa bản dịch AQ chính truyện ra tiếng nga viết năm 1925, Lỗ Tấn có nói rõ ý đồ sáng tác của mình như sau:‖ Tôi đã có lần thử xem tôi có khả năng miêu tả linh hồn người hiện đại trong nước chúng tôi hay không?... Muốn miêu ta linh hồn của quốc dân một nước trầm mặc như thế thì cũng là điều hết sức khó khăn ở Trung Quốc… Cho nên tôi cũng định bụng chỉ đưa ra vài điều tôi cảm giác và quan sát, buồn bã và cô quạnh, tạm viết ra đây thôi, coi như đó là nhân sinh của Trung Quốc, theo như con mắt tôi đã từng nhìn thấy [Gào thét, tr.197]. Sau này thì càng có nhiều người hiểu đúng tâm huyết đó của Lỗ Tấn. Nhưng lúc bấy giờ thấy ngôn ngữ, cử chỉ kỳ quặc của AQ, có người đã hỏi thẳng ông: ―Nói thật đi, trong bộ sách ấy anh định chửi người nào đây?. Ông đã phân trần rất có ý nghĩa: ―Nghe câu hỏi đó, tôi chỉ có thể tức tối và khổ tâm, vì tôi không thể nào cho người ta thấy rằng mình không đến nỗi hèn mạt như vậy[1]. Câu chuyện của ông Cao Nhất Hàm kể sau đây cho thấy rằng việc hiểu đúng ý đồ của tác giả cũng không phải là dễ, có khi phải trả một giá nào đó: ―Tôi còn nhớ, lúc tập AQ chính truyện đang cứ từng đoạn, từng đoạn lần lượt in ra, thì có nhiều người ra vẻ sợ hãi lắm. Họ những lo rằng một ngày kia đến lượt họ bị thóa mạ. Lại có một ông bạn tôi nói trước tôi rằng, trong câu chuyện AQ đăng hôm qua có một đoạn tỏi ra công kích ông ta. Rồi ông ta đoán ngay ra  rằng tác giả chính là người nọ mới biết được câu chuyện riêng ấy. Thế rồi, từ đó, ông ta nghi ngờ lung tung: bao nhiêu câu chuyện đem ra chửi trong AQ chính truyện đều là chuyện riêng của ông ta cả, và phàm những người có đi lại giao thiệp với tòa soạn tờ báo đăng AQ chính truyện đều bị tình nghi là tác giả. Mãi đến lúc ông ta dò ra tên thật tác giả, ông ta mới biết rằng té ra người đó với ông ta xưa nay chưa hề quen biết nhau. Lúc đó ông ta mới giật nảy mình và gặp ai, ông ta cũng tuyên bố: ―AQ chính truyện viết ra không phải công kích ông ta đâu‖ [Hiện đại bình luận, tập IV tr.89].

Nhưng không phải tất cả những ―hiểu sai, ngộ nhận ý đồ của tác giả đều hỏng cả. Ở đây cần phân biệt chính ngộ với phản ngộ. Chính ngộ, tuy không phù hợp với ý đồ tác giả nhưng vẫn có căn cứ trong tác phẩm. Điều đó chí ít có thể giải thích bằng đặc trưng của nghệ thuật. Nghệ sĩ nói chung, nhà văn nói riêng, không chứng minh mà mô tả. Hình ảnh mà họ đan dệt nên sinh động, đa diện. Nhìn ở góc độ khác, người đọc có thể phát hiện ra những khía cạnh mà vốn tác giả không nghĩ đến. Nguyễn Du tuyên bố ―Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau, nhưng người đọc qua ―Truyện Kiều lại thấy xã hội phong kiến chà đạp lên quyền sống con người. Hãy lấy ví dụ về một khía cạnh nhỏ, để nói vấn đề cụ thể hơn. Xuân Diệu, trong bài Biển , đã ví các chàng trai như những cồn sóng đại dương vỗ mãi vào bờ ―Như hôn mãi ngàn năm không thỏa - Bởi yêu bờ lắm lắm em ơi, và ví các cô gái với ―Bờ đẹp đẽ cát vàng- Thoai thoải hàng thông đứng – Như lặng lẽ mơ màng - Suốt ngàn năm bên sóng‖. Nhà thơ đã đọc câu thơ sau này vang lên với tiếng sóng bằng cách nhấn mạnh, kéo dài các âm vàng, hàng, ngàn, màng, v.v... Nhưng tại sao khi nói về các cô gái lại có tiếng sóng? Một bạn đọc cho rằng, mô tả cô gái hay nói cho đúng hơn là mô tả vẻ đáng yêu của họ. Mà đã là cô gái đáng yêu, thì các chàng trai chờn vờn quấn quýt xung quanh thì có gì lạ: Đây là thêm một cách khắc họa gián tiếp. Nghe xong, nhà thơ rất thích thú, và về sau cũng giải thích như vậy. Sức mạnh của văn học nghệ thuật, còn tính là nhờ sự tiếp nhận mang tính sáng tạo này. Nguyễn Du chỉ mô tả một nàng Kiều, nhưng có đến hàng triệu nàng Kiều không giống nhau trong hàng triệu thế hệ bạn đọc. Nói cho cùng, ý nghĩa xã hội của văn học nghệ thuật, tác dụng của nó đối với nhiều công chúng xét trên thực tế, chính là được diễn ra với sự ngộ nhận, nói đúng hơ là sự ―chính ngộ‖ liên tục này. Về điểm này cần cân nhắc lại một ý kiến của Mác: ―Hình thức lí giải không chính xác, lại chính là hình thức phổ biến, hơn nữa là hình thức thích hợp với sự ứng dụng phổ biến trong một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. [Thư gửi Látxan]

Vấn đề ở đây là bàn đến nhiều quan hệ khác nhau, nhưng một vế của những quan hệ đó lại là duy nhất, cố định. Tuy phát sinh nhiều quan hệ với B, C, D, v.v… và với vô cùng, nhưng A vẫn là A đấy thôi. Tác phẩm vẫn là tác phẩm đó. Nhưng nhân vật lại là con người này. Một ngàn chàng Hamlét, hiển nhiên là không hoàn toàn giống nhau, nhưng vẫn là Hămlét. Một triệu nàng Kiều, vẫn là Kiều. Cảm thụ hình ảnh nàng thế nào mà ra Hoạn Thư, Tú Bà thì như thế đã từ chính ngộ chuyển sang phản ngộ. Phản ngộ là sự tiếp nhận tùy tiện, thậm chí cắt xén, xuyên tạc, không có căn cứ trong tác phẩm.

Và nếu biểu hiện của ―chính ngộ‖ là muôn màu muôn vẻ, thì nguyên nhân của sự ―phản ngộ cũng hết sức phức tạp. Đó có thể là do động cơ, tâm thế, hoặc ―tầm đón kì quặc, hoặc quá ư cao siêu hay dưới mức tầm thường, v.v… Ở đây chỉ muốn lưu ý đến hai biên độ của nó. Đó là sự cố ý, hơn nữa là sự cố ý của ‗những thế lực chính trị chuyên chế hà khắc. Chẳng hạn như những chuyện ―kiêng húy hoặc ―văn tự ngục dưới một số triều đại phong kiến. Nhà thơ Tử Tuấn đời Thanh chỉ vì hai câu thơ ― Minh nguyệt hữu tình hoàn cố ngã – Thanh phong vô ý bất lưu nhân [Trăng sáng có tình còn nhìn ta – Gió mát vô ý không giữ người lại], mà bị thiệt mạng. Chẳng qua là vì trong câu thơ có chữ ―Thanh [trong ―Thanh phong thật ra chỉ có nghĩa là ―gió mát mà thôi], và chữ ―Minh [trong ―Minh nguyệt chỉ có nghĩa là ―trăng sáng―]. Lối tiếp nhận này thì không có gì để nói nữa.

Biên độ thứ hai là sự vô tình. Nhưng vô tình cũng có nhiều loại. Nhưng loại ―vô tình‖ phổ biến nhất là do thật tình không hiểu hết đặc trưng của văn học vốn là một lĩnh vực hết sức kỳ diệu và tinh tế của tâm hồn con người. Muốn tiếp cận nó phải từ nhiều bình diện, nhiều cấp độ, nhiều quan hệ, v.v…cho nên không có gì lạ ngay những người sành sỏi, cũng có khi vấp váp như thường. Hình ảnh Bác Hồ trong thơ Tố Hữu từ bài Hồ Chí Minh qua Sáng tháng năm đến Theo chân Bác, v.v… tất nhiên là có nhiều bước tiến triển. Nhưng không nên suy luận một cách dễ dãi để phần nào đánh giá thấp bài Hồ Chí Minh, cho nó chưa thật đúng với con người giản dị gần gũi với quần chúng bằng cách đối sánh,  chẳng hạn với những câu như ―Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường‖ trong bài Việt Bắc. Thật ra sự so sánh này là không cùng trên một bình diện. Câu thơ vừa rồi là được nhìn qua con mắt người dân Việt Bắc, không thể đem so sánh với những lời thơ trữ tình trực tiếp của thi sĩ trong bài Hồ Chí Minh. Tất nhiên câu ―Tiếng người thét mau lên gươm lắp súng― quả là không thật hợp với phong thái của Bác. Nhưng bên cạnh Bác còn xuất hiện với tư thái ―Người lính già đã quyết chí hy sinh‖, là ―tên Quân cảm tử, là người ―Cha, v.v… Vả chăng tính chân thật trong văn học không phải chỉ được đối chiếu với khách quan, với sự chân thành của nghệ sĩ mà còn phải được xét trên ―tầm đón của công chúng. Không phải ngẫu nhiên mà lời Quốc ca hồi ấy có câu: ―Thề phanh thây, uống máu quân thù, và câu chuyện mắt Bác có những hai con ngươi còn lan truyền mãi cả nước và suốt cả một thời gian sau đấy. Một chân dung toàn những nét nhân từ Giản dị về Bác sẽ có phần lạc lõng trong không khí huyền thoại và hung tráng thời ấy.

4.3. Trạng thái thông thường mà tốt đẹp trong mối quan hệ giữa sáng tác và tiếp nhận

Nói ―thông thường tức là bàn đến hai cực. Những sáng tác quá ư xoàng xĩnh, những công chúng hoàn toàn ―mù văn thì còn bàn để làm gì? Còn những đại kiệt tác, và những phê bình xuất chúng thì quý hóa quá, nhưng là của hiếm, rất hiếm. Tất cả ở đây chỉ xét ở mức trung bình lí tưởng, nghĩa là ở trong trạng thái thông thường phổ biến, nhưng không bao giờ tự thỏa mãn, và luôn luôn biết vươn lên cái tốt đẹp hơn.

Cũng không bàn sáng tác và tiếp nhận một cách cô lập, mà là trong sự tương tác với nhau. Nhìn thêm từ phía tiếp nhận, sẽ thấy rõ hơn sáng tác ko thể chỉ viết cho mình, hoặc cầu kì, bí hiểm, tắc tị, hoặc quá cao siêu vượt quá ―tầm đón nhận của công chúng. Sáng tác phải được hành chức như một lời tâm sự, một dịp tâm tình, một thông điệp thẩm mĩ, nó phải được công chúng tiếp nhận mới trở thành sản phẩm xã hội. Nếu không, nghĩa là người ta không muốn nghe, thậm chí rất muốn nghe, muốn xem nhưng không thể tiếp nhận được gì, thì tác phẩm chẳng qua chỉ là một bức thư ko địa chỉ. Ngược lại, nhưng cũng bị liệt ra khỏi tầm đón của công chúng là những sáng tác rất dễ hiểu, vì cũ kĩ nhàm chán, không ai them xem, rốt cục cũng bị ném trả về để rồi tự phong kín lại, trở thành một phế phẩm tinh thần, còn thua cả chất thải trong sản xuất vật chất. Như thế, để tạo tiền đề tốt đẹp cho sự tiếp nhận, thì sang tác phải nói như Viên Mai: ―Xuất nhân chi ý ngoại giả, nhưng tu tại nhân ý chi trung‖ [Cái nói ra phải hơi bất ngờ với người khác, nhưng rồi vẫ nằm trong ý của họ - Tùy Viên thi ngoại]. Nếu nói những điều ta hiểu ngay, mới lật trang đầu, mới liếc cảnh đầu, người ta đoán biết tất cả, lập tức sẽ gây nên cảm giác: ―Biết rồi, khổ lắm nói mãi‖. Đọc Những người khốn khổ của Vícto Huygô, mấy ai có thể đoán trước được rằng tên tù khổ sai vượt ngục còn thói ăn cắp kia lại có thể trở thành ông thị trưởng Mađơlen giàu đức độ vị tha, còn tên chó săn Giave, lương tâm bỗng trỗi dậy, nhảy xuống sông tự tử?

Tác phẩm phải nói những gì buộc công chúng phải ngẫm nghĩ mới hiểu, khi hiểu rồi mới cảm thấy mở mang, thú vị. Đây không hề mà cũng không nên là những thứ khó hiểu đến mức không thề nào hiểu được, hoặc cố hiểu ra rồi, thì thấy cầu kì, rỗng tuếch, vô vị. Hấp dẫn nhưng hiểu được. Hiểu được nhưng phải hấp dẫn. Đó là biện chứng trong phẩm chất của tác phẩm, nhìn từ phía tiếp nhận.

  Tương ứng với tác phẩm nói trên, trong sáng tác, công chúng phải làm sao cho động cơ, tâm thế, tựu trung lại là có một tầm đón tổng hợp trong từng trường hợp cụ thể, có thể không rơi vào tình trạng ―phản ngộ‖, hoặc thậm chí ―vô cảm. Ở đây có sự gặp gỡ giữa những ý kiến của Mác với lối nói dân gian ta: ―Cầm đàn mà gảy tai trâu, ―một bản nhạc hay nhất cũng không có ý nghĩa gì với một lỗ tai không thính nhạc, v.v... Nói theo ngôn ngữ của Giải thích học và Mỹ học tiếp nhận thì được một sự ―tiền lý giải [ lý giải thoạt nhiên, sơ bộ ] khả dĩ có thể ―đối thoại được với ý đồ của tác giả nhất là với hàm ý khách quan trong văn bản. Trong quá trình ―đối thoại đó, một mặt phải luôn luôn có ý thức mở rộng tầm đón để thấu hiểu cho hết hàm ý của văn bản. Điều này không hề mâu thuẫn mà còn đòi hỏi tính sáng tạo trong tiếp nhận, chí ít là không thể không phát huy óc tưởng tượng. Hơn nữa, hiểu đúng hàm ý của văn bản, nhất là với những tác phẩm ưu tú, chưa cần nói đến những kiệt tác, đâu phải dễ. Nó không hề là kết quả của những tầm đón xơ cứng, chai lỳ, mà phải là những tầm đón đầy tính chủ động sáng tạo. Vả chăng tính sáng tạo trong sự tiếp nhận chân chính, chỉ chấp nhận sự ―chính ngộ‖ chứ không dung thứ sự ―phản ngộ‖, nghĩa là có thể không trùng khớp với ý đồ của tác giả, nhưng không thể thoát ly văn bản.

Tóm lại, sự diễn biến thông thường mà tốt đẹp của sự tiếp nhận những tác phẩm đích thực là văn học, bao giờ cũng được một tầm đón không chứa đựng mầm mống của sự ―phản ngộ và kết thúc bằng sự mở rộng và nâng cao của chính tầm đón ấy.

5. Ý nghĩa của tiếp nhận văn học

Sự tiếp nhận của bạn đọc đối với một tác phẩm văn học, dù hiệu quả cao nhất cũng có thể ở những mức độ khác nhau. Hiệu quả này , hiển nhiên không phải do giá trị vốn có của tác phẩm, mà còn do phẩm chất của chủ thể tiếp nhận, nói đúng hơn, là do sự sáng tạo của cả hai phía. Cũng hiển nhiên, sự phân độ bao giờ cũng là tương đối, giữa chúng thường có xuyên thấm giao thoa. Tuy nhiên, đỉnh cao của sự tiếp nhận,có thể thấy theo những nấc thang như sau:

5. 1. Đồng cảm

Đồng cảm theo nghĩa rộng, chỉ những xúc động tương đồng hoặc gần gũi của bạn đọc ở những giai cấp, dân tộc, thời đại khác nhau đối với cùng một tác phẩm.

Nhưng theo nghĩa trực diện ở đây, chỉ sự xúc động của bạn đọc đối với những tư tưởng, tình cảm lý tưởng và nguyện vọng được bộc lộ trực tiếp qua số phận của nhân vật hay nhân tình thế thái nói chung trong tác phẩm, khiến cho họ yêu ghét những gì mà chính tác giả yêu ghét. Đồng cảm cũng có thể mang những sắc thái nội dung khác nhau . 

Trước hết là sự đồng cảm về tư tưởng quan niệm. ở đây có sự tương thông về tư tưởng quan niệm giữa tác phẩm và người đọc. Mác đã nhiều lần trích dẫn câu sau đây về tác dụng của đồng tiền trong một vở kịch của Sếc-xpia: "Vàng, chỉ cần một chút thôi, là có thể đổi trắng thay đen, xấu thành đẹp,sai thành đúng, đê tiện thành cao quý, tên hèn nhát thành dũng sĩ, mục nát thành đầy sức sống. Ôi tên lừa bịp lấp lánh sáng này !". Điều này chứng tỏ một sự đồng cảm giữa Các Mác với Sếc-xpia. 

Lại có sự đồng cảm trực tiếp ngay về tình cảm. Điều này thường xảy ra  vì sự tương đồng về tình cảm giữa người đọc và nhân vật. Đọc đến cảnh bán con, bán chó trong "Tắt đèn" hoặc những câu trong "Truyện Kều" như: "Xưa sao phong gấm rủ là -

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường" ai mà không đồng tình thương cảm, mặc dù chưa trải qua cảnh ngộ đó bao giờ. Không đồng cảnh mà vẫn đồng cảm, có lẽ là do bất cứ một con người lương thiện nào cũng có "Trắc ẩn chi tâm" như Mạnh Tử đã từng khái quát. Và dù với bất cứ sắc thái nào khi có được sự đồng cảm là đã mở đầu cho sự tiếp nhận đạt đến đỉnh cao.

5.2. Thanh lọc            

Khái niệm "thanh lọc" bắt nguồn từ Aristot. Trong "Chính trị học" ông viết:

"Một số người rất dễ chịu tác động bởi một loại tình cảm nào đó, họ cũng có thể ở những mức độ khác nhau, chịu sự kích động của âm nhạc, được một sự khoan khoái nhẹ nhàng dễ chịu". Tiếp theo trong "Thi học", Ông cho rằng bi kịch "gây ra nỗi đau buồn và khiếp sợ, từ đó dẫn đến sự thanh lọc đối với những tình căm này‖. Trên cơ sở đó, dần dần, dẫn người ta hiểu thanh lọc là kết quả của việc người đọc thâm nhập được vào thế giới tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm, và từ trong xúc động, cảm thấy tâm hồn được điều tiết hài hòa và được mở rộng, nâng cao.

Như thế, nếu đồng cảm là người đọc đồng cảm với nội dung tác phẩm thì trong thanh lọc, người đọc chịu sự tác động trở lại đối với chính tâm hồn mình. Thanh lọc cũng có hai mặt tuy xuyên  thấu vào nhau, nhưng cũng có thể tạm phân biệt như sau: Một là sự cân bằng hài hòatrở lại về mặt tâm lý do sức mạnh tình cảm thẩm mỹ của tác phẩm đem lại. Quản Tử thời Xuân thu bên Trung Quốc đã có nhận xét: ―Chỉ nộ mạc dược thi. Khí ưu mạc nhược nhạc [Dứt được cơn giận thì không gì bằng thơ. Tiêu mối sầu thì không gì bằng âm nhạc]. Ăngghen cũng có nhận xét về tác dụng của văn học dân gian như sau: ―Sứ mệnh của câu chuyện dân gian là làm cho mỗi người nông dân sau một ngày lao  động vất vả, than thể rã rời, tối đến trở về, lại được khoan khoái, phấn chấn và an ủi,khiến anh ta quên hết mệt mỏi, có thể biến mảnh ruộng lam lũ của mình thành vườn hoa ngát hương. Sứ mệnh cảu câu chuyện dân gian là làm cho nơi làm việc của bác thợ thủ công cùng chiếc gác trọ như cái chòi lạnh lẽo của chú thợ học nghề mỏi mệt bất kham thành thế giới của thơ và tòa cung điện bạc vàng, để có  thểhình dung người tình ẻo lả của mình thành một nàng công chúa xinh đẹp [Chuyện dân gian Đức]. Hai là sự mở rộng và nâng cao tâm hồn và nhân cách bởi những tình cảm đạo đức của tác phẩm. Về điều này Điđơrô có đưa ra một khái quát: ―Chỉ có trong rạp kịch, nước mắt của người tốt kẻ xấu mới chan hòa được. Chỉ có ở đây, kẻ xấu… mới có thể tỏ ra căm ghét một nhân vật có tính cách như mình… kẻ xấu đó ra khỏi rạp, đã có thể phần nào không chạy theo làmđiều ác như thế nữa. Đây hiển nhiên là bàn về sân khấu, nhưng kịch bản của nó lại chính là văn học.

5.3. Bừng tỉnh

Trên cơ sở của sự đồng cảm và thanh lọc, nếu người đọc tiếp tục suy ngẫm, kết hợp chân lý của tác phẩm, liên hệ với thế thái nhân tình, bỗng nhận ra một khía cạnh nào đó về triết lý có ý vị nhân sinh, thì đó là bừng tỉnh. Hãy lấy một ví dụ rất đơn giản về bài ca da dân ca: ―Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng

Nhị vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn

Ta đồng cảm trước vẻ đẹp thanh khiết của sen. Ta được ―thanh lọc nếu cảm thấy quả là bản thân có hơi ―đen vì gần mực. Nhưng nếu trên cơ sở đó người đọc tiếp tục nghiền ngẫm trực diện với nhân tình thế thái, rất có thể bừng tỉnh nhận ra rằng: cây cỏ kia, mà còn được như vậy, huống chi con người sống trong cõi đời phức tạp này, nếu có ý chí và quyết tâm thì không những cần thiết, mà còn hoàn toàn có thể bảo toàn khí tiết và nhân cách của mình trong cảnh trần ai không bao giờ hết rác bụi này. Đọc hai câu thơ rất đỗi dung dị của Lý Bạch, nếu nghiền ngẫm thì sẽ cảm nhận được những ý vị sâu sắc gợi ra từ đó :

―Kim nhân bất kiến cổ thời nguyệt

Kim nguyệt dĩ tằng kiến cổ nhân

                               [Người ta không thấy được mảnh trăng xưa. 

Nhưng trăng nay thì đã thấy được người xưa]

Thì ra đối diện với một yếu tố, mà rất có thể là một yếu tố xiết bao nhỏ nhoi của vũ trụ bao la, đời người chỉ là thoáng chốc. Cho nên khôi hài thay cho những ai muốn lưu danh thiên cổ. Tất  nhiên, cũng có những vĩ nhân để mãi tiếng thơm cho  đời  sau, nhưng chính họ lại là những người hơn ai hết, chỉ biết sống sao cho xứng đáng, lo cứu đời và cứu người trước mắt mà thôi. Hãy đọc hêm đoạn văn sau đây của Pascan: ―Khi tôi xem xét cái khoảnh khắc nhỏ bé của cuộc đời tôi chơi vơi trong cái vĩnh viễntrước  kia và sau này, cái không  gian nhỏ bé mà tôi choán lấy, tôi  nhìn  thấy, chìm sâu trong không khí vô tận của những không  gian  mà tôi không biết và nó không  biết  tôi,  thì  tôi  rất  hoảng  hốt và ngạc nhiên rằng tại sao mình ở đây mà không phải ở  kia. Bởi vì  không hề có lí do nào cắt nghĩa tại sao mình lại không ở nơi kia, tại sao là bây giờ mà không phải lúc khác. Ai đặt tôi vào đây [Hai cõi vô cực].                                                                                                                                              

Quả vậy, con người  cũng chỉ là một sinh mệnh rất đỗi ngẫu   nhiên  trong  vũ trụ bao la với không gian, thời gian vô cùng  vô  tận này. Mà  cũng  chẳng  cần phải liên tưởng đâu xa. Mẹ  mình  yêu người  khác  hiển nhiên là  không có mình. Bố mình  yêu  người khác cũng vậy. Bố mẹ mình lấy nhau, ái ân trong  lúc khác, cũng sẽ không  phải mình. Nói thế để thấy những tư tưởng ―tự  kỷ trung  tâm,  hoặc ―tự  sùng bái‖ là buồn  cười. Rồi những thói  hám danh  hám lợi, chạy vạy, bon chen, luồn cúi,  lúc  cần  lại  thẳng tay làm hại người khác, không   những   đáng  phỉ  nhổ mà  còn chẳng qua là đóng những vai  hề sống sượng,  v.v…

Những kiệt tác, sản phẩm tinh thần của những đại văn hào kiêm tư tưởng gia, vốn ẩn tàng những chân lý sâu sắc về cuộc đời, chỉ cố công là phát hiện ra được. Ví dụ Phauxt của Gớt hàm chứa những lớp nghĩa rất đa dạng  nhưng nếu ai nghiên cứu sâu, cũng  đều  phát hiện ra điều  này: càng dấn thân vào cuộc sống, thì càng được bù đắp và hưởng thụ. Tuy nhiên, nói chung, bừng tỉnh thấm  đượm tính  tích cực sáng tạo rõ nhất  trong  hoạt động tiếp nhận. Chính ở đây thường bộc lộ những điều mà chưa chắc vốn tác giả đã nghĩ vậy, và cũng do đó sư ̣ ―bừng tỉnh vẫn rất khác nhau ở mỗi người, là điều dễ hiểu .

5. 4. Ghi tac  ̣

Ghi tạc tức là ghi lòng tạc dạ, nhớ đời. Nhưng đây không hề là môt cấp đô cao hơn, mà chỉ là chiều sâu hơn. Cũng có thể chỉ là đồng cảm thanh lọc và bừng tỉnh đó thôi, nhưng vì xúc động mãnh liệt, để lại xúc động sâu sắc mai không phai mờ, thì đó là ghi tạc .Tất nhiên đa đồng cảm, thanh lọc , bừng tỉnh, thì cũng không thể chóng quên, nhưng ghi tạc thì lâu bền hơn. 

 II. HƯỚNG DẪN LUYỆN ĐỀ BÀN VỀ VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN VĂN HỌC

Đề: 1 

Nhà phê bình Hoài Thanh viết: Thích một bài thơ, theo tôi nghĩ, trước hết là thích một cách nhìn, một cách nghĩ, một cách xúc cảm, một cách nói, nghĩa là trước hết là thích một con người.

[Tuyển tập Hoài Thanh, tập II, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1982]

Anh [chị] suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên? 

GỢI Ý ĐÁP ÁN

1. Giải thích

-  Thích là trạng thái, sắc độ cảm xúc yêu mến, nghiêng về cảm tính, khoái cảm. 

-  Thích một bài thơ có nghĩa là tác phẩm ấy phải có sức hấp dẫn riêng. Có nhiều yếu tố để gợi ra đam mê nghệ thuật, trước hết là một cách nghĩ, một cách xúc

cảm tức sức hấp dẫn về nội dung; một cách nói hay sức hấp dẫn từ hệ thống các ph-ơng tiện biểu đạt. Tựu trung lại là thích một con ng-ời. Con người ở đây không đơn thuần hay đồng nhất với con người ngoài đời mà đó là một cá tính văn chương, một gương mặt nghệ thuật riêng.  

-  Chữ một điệp lên như một nốt nhấn, làm nổi bật tính duy nhất, riêng có của tác phẩm nghệ thuật. Một con ng-ời thực chất là phong cách nghệ thuật. 

=> Ý kiến của Hoài Thanh khẳng định: thích một bài thơ trước hết là thích một con người, thích phong cách của nhà thơ đó. Phong cách ấy phải thể hiện ở cả hai phương diện nội dung và hình thức. Phong cách ấy phải độc đáo [một cách], và chỉ khi đạt tới sự độc đáo về cả bốn phương diện [cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm, cách nói] thì mới có khả năng tạo nên khoái cảm thẩm mĩ cho người đọc. Đồng thời ý kiến còn đề cập đến vấn đề tiếp nhận văn học [mối quan hệ giữa người đọc và tác phẩm, tác giả],

2. Bình luận 

a, Tại sao thích một bài thơ... trước hết là thích một con người, một phong cách?

-  Xuất phát từ yêu cầu của sáng tạo nghệ thuật nói chung và thơ nói riêng: một bài thơ hay là bài thơ có cách nhìn, cách nghĩ, cách xúc cảm, cách nói mới mẻ, độc đáo. [Có thể liên hệ đến ý kiến của Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Nam Cao... để làm sáng tỏ điều này]. 

-  Xuất phát từ đặc trưng của thơ ca: thơ là tiếng nói trữ tình. Mỗi bài thơ phải thể hiện một cách chân thực vẻ đẹp tâm hồn, cá tính của chủ thể sáng tạo. ý kiến của Hoài Thanh gần gũi với ý kiến của Buy-phông: ―Phong cách chính là người‖.

b.       Nhận định của Hoài Thanh nêu lên sự gặp gỡ tri âm giữa người sáng tác và người tiếp nhận văn học:

-  Đây là một nhận định đúng đắn, sâu sắc. Một bài thơ hay phải là một giá trị độc đáo, một kết tinh của tình cảm thẩm mĩ. Một người yêu thích văn chương phải là người có tâm hồn nhạy cảm, biết rung động, biết khám phá giá trị độc đáo của tác phẩm, từ tác phẩm mà nhận ra phong cách của nhà văn.

-  Ý kiến trên đây cho thấy nguyên tắc thẩm mĩ của Hoài Thanh: ―lấy hồn tôi để hiểu hồn người‖. Hoài Thanh từng nói, với bài thơ hay ông thường ngâm đi ngâm loại, thường ―triền miên‖ trong đó. Như vậy, người tiếp nhận phải có khả năng nhập thân và đồng sáng tạo cao độ.

-  Tuy nhiên, thích và đồng sáng tạo không có nghĩa là bình tán, suy diễn tùy tiện, gượng ép mà phải trên cơ sở hiểu được bản chất, quy luật sáng tạo nghệ thuật, hiểu được mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức của tác phẩm văn học.

3. Đánh giá

-  Qua nhận định của Hoài Thanh giúp bạn đọc thức nhận được điều làm nên vẻ đẹp, sức hấp dẫn của một thi phẩm có nhiều yếu tố như tính dân tộc, tính nhân loại… nhưng điều tiên quyết vẫn là gương mặt nghệ thuật riêng, Mỗi nhà thơ phải có một dạng ―vân chữ‖ không trộn lẫn.

-  Gửi đến bài học sâu sắc cho người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật và bài học tiếp nhận cho bạn đọc thơ.

Đề 2: 

Có ý kiến cho rằng: Khi tác phẩm kết thúc, ấy là lúc cuộc sống của nó mới thực sự bắt đầu.

Anh [chị] hãy bình luận ý kiến trên.

GỢI Ý ĐÁP ÁN

1.  Giải thích 

-  Khi tác phẩm kết thúc là khi tác giả đã hoàn thành tác phẩm cũng là khi người đọc đã đọc xong tác phẩm.

-  ấy là lúc cuộc sống của nó mới thực sự bắt đầu nghĩa là, lúc bấy giờ tác phẩm mới thực sự sống đời sống của nó trong tâm trí người đọc, tác phẩm mới thực sự nhập vào đời sống thông qua người đọc.

=> Ý kiến đề cập đến vấn đề tiếp nhận văn học. Nó đề cao vai trò của chủ thể tiếp nhận là người đọc. 

2. Bình luận 

-  Tác phẩm văn học là một văn bản ngôn từ. Nhưng đặc trưng của ngôn từ là tính mơ hồ đa nghĩa nên người ta gọi tác phẩm văn học là một "văn bản mở". "Văn bản mở" nghĩa là tác phẩm gồm hai phần: "phần cứng" là những con chữ bề mặt văn bản đang nằm im, "phần mềm" là hệ thống tư tưởng, ý nghĩa được xuất hiện trong quá trình tiếp nhận. Vì thế, cái gọi là "tác phẩm văn học" chỉ thực sự tồn tại khi nó biến thành cái "phần mềm" kia, còn nếu không nó trở thành "quyển sách". Mà rõ ràng, ý muốn của nhà văn là truyền đến bạn đọc những lẽ sống của đời chứ không phải để bán sách.

-  Ngay từ x-a, Heghen trong Triết học tinh thần đã yêu cầu việc xem xét tác phẩm trong hệ thống "tác giả — tác phẩm — người đọc" vì ông cho rằng sự tồn tại của tác phẩm chỉ tồn tại trong ba yếu tố quan hệ hữu cơ với nhau ấy thôi. Còn người Trung Quốc xưa, lại cho rằng tác phẩm tồn tại trong lòng của ng-ời tri kỉ chứ không trên trang giấy; vì thế việc viết văn là việc của tấm lòng. Chính vì thế, tác phẩm chỉ thực sự tồn tại khi người ta ý thức được về nó mà thôi. Người đọc là người cứu tác phẩm ra khỏi hầm mộ của sách, giúp nó sống lại và bước đi giữa cuộc đời và hồn người. Tác phẩm tái sinh trong lòng bạn đọc.Vì thế, mỗi tác phẩm là một tiếng mời gọi tha thiết tấm lòng bạn đọc đến với mình, tri âm với mình để mình có được một đời sống mới. Sức sống của tác phẩm không nằm ở lối ra lệnh của nhà binh hay truyền giáo của tu sĩ mà nằm ở trường nhìn, trường cảm của từng cá nhân đọc khác nhau.

-  Tuỳ từng tư tưởng, kinh nghiệm, thẩm mĩ của mỗi độc giả mà tác phẩm có muôn ngàn cuộc sống khác nhau. Vì thế, tác phẩm vừa là nó, vừa chẳng là nó. Sự thú vị trong đa dạng tiếp nhận cũng chẳng kém sự thú vị trong đa dạng sáng tạo. Vì thế sức sáng tạo của nhà văn, qua bạn đọc cứ nhân lên đến vạn lần. Và thế là nghệ thuật có sự sống vĩnh hằng vì nghệ thuật có hai con đường: sáng tạo hay là chết.

3. Chứng minh  

Thí sinh cần phải minh hoạ bằng các tác phẩm văn học mà mình nắm vững.

[Dưới đây là một vài ví dụ gợi ý]

-  Đôn-ki-hô-tê: Người Tây Ban Nha gọi chàng là kẻ điên rồ, người Pháp gọi là chú hề đáng thương, đến chủ nghĩa lãng mạn gọi Đôn-ki-hô-tê là người anh hùng còn sót lại, chủ nghĩa hiện thực lại coi là biểu tượng của sự suy vi một thời phong kiến đã qua. Vậy rõ ràng, những môi trường văn hoá khác nhau tạo ra những "phạm trù hiểu" không cùng hướng. Ta coi tác phẩm như cái đài nhiều dải tần, ai thích nghe sóng nào thì nghe, nhưng phải bắt đúng dải sóng nếu không chỉ có tạp âm thôi. Vì thế, sự "đúng — sai" trong tác phẩm là quy luật nội tại tất yếu của văn học, nó chỉ thúc đẩy sự sống của tác phẩm trường tồn mà thôi. Vậy thì lịch sử văn học, xét đến cùng, là lịch sử tiếp nhận văn học.

-  Vãn cảnh của Hồ Chí Minh. Chữ "lưỡng" là từ chìa khoá để khai mở bài thơ.

Xuân Diệu coi "lưỡng" ở đây là hai sự vô tình khép kín một đời hoa, còn Trần Đình Sử coi "lưỡng" là phó từ, còn chủ ngữ hàm ẩn"quyết định nghĩa" bài thơ là người tù Hồ Chí Minh, tự trách mình vô tình. Thú vị nhất là Nguyễn Khắc Phi khi đưa ra quan niệm "lưỡng vô tình" là sự trôi chảy liên tục, bất biến của thời gian đã làm cho người tù bất bình. 

-  VV...

4. Đánh giá

-  Khẳng định đây là một ý kiến đúng đắn, súc tích, chứa đựng những ý tưởng sắc sảo với hình thức diễn đạt gây ấn tượng. Nó đã chỉ ra được mối liên hệ thực tế giữa nghệ thuật và đời sống, giữa sáng tạo và tiếp nhận. Nó đề cập được vấn đề cốt lõi của vòng đời tác phẩm. Nó nhấn mạnh vai trò của người đọc tri âm và là người đồng sáng tạo, người quyết định đến đời sống thực sự của tác phẩm nghệ thuật.

-  Tuy nhiên , không thể phủ định hoàn toàn rằng số phận tác phẩm nằm ngoài khả năng quyết định của tác giả. Sự sống của tác phẩm, trước hết phải do chính nó và người làm ra nó quyết định. Vấn đề được đặt ra với người cầm bút muốn viết lên những tác phẩm có giá trị thực sự để phút mà tác phẩm kết thúc cũng chính là lúc sự sống của nó bắt đầu [chứ không phải là cuộc sống] thì việc kết hợp giữa cái tài và cái tâm là luôn luôn cần thiết. Như Nguyễn Du đã từng nói: Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.  

Đề 3:

Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của nhà văn nhưng chỉ thực sự sống bằng tâm trí của người đọc.

Bằng tri thức và trải nghiệm văn học của mình, bạn hãy bình luận ý kiến trên.

GỢI Ý ĐÁP ÁN

1. Giải thích

-  Nhân vật văn học là khái niệm dung để chỉ hình tượng các cá thể con người trong tác phẩm văn học – cái đã được nhà văn nhận thức, tái tạo, thể hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ.

-  Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của nhà văn: nhà văn là người lao tâm khổ trí sáng tạo ra hình tượng nhân vật nhưng đó mới là hình tượng bằng chất liệu ngôn ngữ.

-  chỉ thực sự sống bằng tâm trí của người đọc: người đọc mới là người biến hình tượng nhân vật ở dạng ngôn ngữ thành sinh thể trong tâm trí của mình.

=> Câu nói nêu lên vài trò của cả hai đối tượng là nhà văn và người đọc trong quá trình sáng tạo – tiếp nhận văn học, nhưng trọng tâm là đề cao vai trò của người đọc trong việc biến hình tượng từ những kí tự trên mặt giấy thành sinh thể tồn tại trong đời sống tinh thần của con người, của xã hội.

2. Bàn luận

-  Hình tượng nhân vật do nhà văn sáng tạo ra trong tác phẩm chỉ là loại sản phẩm thuộc về tiềm năng. Người đọc mới là người quyết định biến hình tượng nhân vật từ thế tiềm năng trong ngôn ngữ, trên trang sách thành hình tượng sống động. Ví thế, hình tượng nhân vật chỉ thực sự sống như một sinh thể trong tâm trí và bằng tâm trí người đọc.

-  Ý đồ của nhà văn chỉ là một khả năng tồn tại của hình tượng nhân vật trong tác phẩm. Mỗi người đọc, bằng nền tảng văn hóa, tâm lí, trình độ thụ cảm riêng lại tạo ra vô vàn khả năng khác, cách hiểu khác nhau, ý nghĩa khác nhau về hình tượng nhân vật. 

3. Chứng minh

-  Cần lựa chọn được một số hình tượng nhân vật tiêu biểu trong các tác phẩm văn học để phân tích làm sáng tỏ vai trò sáng tạo của nhà văn và giới hạn của hình tượng khi còn ở dạng ngôn ngữ.

-  Khẳng định người đọc có vai trò tạo ra sự sống cho hình tượng nhân vật khi đọc tác phẩm. Phân tích được những nhân tố dẫ đến vai trò quyết định của người đọc đối với sự sống của hình tượng nhân vật.

-  Gợi ý một số nhân vật: 

+ Nhân vật Thúy Kiều – trong Truyện Kiều của Nguyễn Du 

+ Nhân vật Chí Phèo – Nam Cao

+ Người vợ nhặt – Vợ Nhặt của Kim Lân

+ Đường Tăng  - Tây du kí của Ngô Thừa Ân

+ Đôn ki hô tê…

4. Đánh giá

-  Đây là nhận định đúng đắn. Tuy nhiên không được coi thường những ý đồ tư tưởng của nhà văn. Trong đời sống lí luận văn học, câu nói ―Tác giả đã chết‖ ý muốn đề cao vai trò của người đọc, nhưng ―Tác giả muôn năm‖ vì tác giả là người sáng tạo ra hình tượng nhân vật. Mặt khác, bản thân nhân vật cũng có sức sống nội tại của mình.

-  Việc đồng sáng tạo với nhà văn ở người độc không có nghĩa là bình tán, suy diễn tùy tiện, gượng ép mà phải trên cơ sở hiểu được bản chất, quy luật sáng tạo nghệ thuật, xuất phát từ văn bản tác phẩm, từ hình tượng nhân vật.

-  Câu nói có ý nghĩa dẫn dắt người đọc có thái độ tích cực trải nghiệm, tranh biện khi tiếp nhận tác phẩm văn chương nghệ thuật.

Đề 4: 

Bình luận quan niệm của J.Paul. Sartre: 

Tác phẩm văn học như con quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện trong vận động. Muốn làm cho nó xuất hiện, cần phải có một hoạt động cụ thể là sự đọc. Và tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục. Ngoài sự đọc ra, nó chỉ còn là những vệt đen trên giấy trắng.

GỢI Ý ĐÁP ÁN

1. Giải thích

-  Tác phẩm văn học như con quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện trong vận động. Tác phẩm văn học không phải là cái hoàn tất cố định sau quá trình thai nghén của nhà văn mà luôn luôn vận động biến đổi như ―con quay kì lạ‖. Tác phẩm chỉ hiện tồn ―trong vận động‖. Vận động là điều kiện thiết yếu để tác phẩm có thể xuất hiện, là đời sống đích thực của tác phẩm.

-  Muốn làm cho nó xuất hiện, cần phải có một hoạt động cụ thể là sự đọc. Và tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục. Ngoài sự đọc ra, nó chỉ còn là những vệt đen trên giấy trắng. Cơ chế cho sự vận động của văn bản nghệ thuật là ―sự đọc‖. ―Sự đọc‖ có ý nghĩa sống còn đối với sức sống của tác phẩm. Không được độc giả tiếp nhận, tác phẩm chỉ là những ―vệt đen trên giấy trắng‖ – những con chữ vật lí vô cảm, vô hồn. Nghĩa là coi văn bản được nhà văn sáng tạo ra mới chỉ ở dạng ―tiềm năng‖. Sự đọc là máu để biến một thể xác vật chất [văn bản] thành một sinh thể có xúc cảm, có vui buồn, có trăn trở.

=> Ý kiến của J.Paul.Sartre đề cập đến vấn đề tiếp nhận văn học. Ông quan niệm văn học là hoạt động giao tiếp, là một quá trình. Từ đó đề cao vai trò của chủ thể tiếp nhận là người đọc với đời sống văn học. 

2. Bàn luận

-  Quan niệm của Sartre là hoàn toàn có lí.

-  Dễ dàng nhận thấy dấu ấn triết học hiện sinh trong nhận định này. Sự vật hiện tượng tồn tại trong thế giới ở hình thức cá thể, hiện thực với sinh hoạt hàng ngày. Cho nên, tác phẩm văn học là một sản phẩm tinh thần, được cụ thể bằng dạng vật chất [văn bản ngôn từ], cũng chỉ có ý nghĩa trong đời sống của nó – sự đọc. Được viết ra từ những ẩn ức của nhà văn nhưng để hướng tới độc giả, nhân loại nói chung, tách khỏi sự đọc, tác phẩm chỉ là cái xác vô hồn.

-  Quá trình văn học được tạo thành từ quá trình sáng tác [của nhà văn] và quá trình tiếp nhận [của người đọc]. Nó có tính liên tục, quan hệ chặt chẽ, không tách rời bởi hạt nhân – văn bản. Trung tâm của quá trình văn học là văn bản. Nhà văn tạo ra văn bản đồng nghĩa với việc sáng tạo những tín hiệu thấm mĩ, thực hiện quá trình kí mã [chuyển ngôn ngữ tự nhiên thành ngôn ngữ nghệ thuật]. Đến lượt mình, độc giả thực hiện việc giải mã.

-  Ý đồ của nhà văn chỉ là một khả năng tồn tại của tác phẩm. Mỗi người đọc, bằng nền tảng văn hóa, tâm lí, trình độ thụ cảm riêng lại tạo ra vô vàn khả năng khác cho văn bản. Xét ở góc độ này, văn bản có tính độc lập tương đối với nhà văn và bạn đọc. Cái trục của ―con quay kì lạ‖ chính là những chỉ dẫn nghệ thuật thông qua hệ thống tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm.

-  Đời sống của tác phẩm không phải tính bằng thời gian nhà văn thai nghén ra nó. Có những sản phẩm nghệ thuật mới ra đời đã chết yểu và mãi mãi không phục sinh vì thiếu vắng độc giả. Lại có những tác phẩm cổ xưa vẫn dồi dào sức sống nhờ quá trình thụ cảm còn tiếp tục. 

3. Chứng minh

Cần phải minh hoạ bằng các tác phẩm văn học phù hợp để bàn trúng yêu cầu của đề. [Dưới đây là một vài ví dụ gợi ý]

-  Truyện Kiều của Nguyễn Du khai sinh cách đây mấy nghìn năm vẫn còn mời gọi khám phá, tạo ra biết bao cách cảm nhận và tranh luận khác nhau. Có thời, người ta đặt Truyện Kiều lên bàn cân tư tưởng phong kiến để đánh giá vị trí của tác phẩm.

Dùng quan điểm xã hội học, áp đặt những yếu tố bên ngoài để nhận xét mà không căn cứ vào ngôn từ, mọi nhận định cơ hồ đều đi vào phiến diện, bế tắc. GS Trần Đình Sử, dựa trên cơ sở ngôn ngữ học, phân tích các tín hiệu thẩm mĩ đã rút ra những luận điểm chính xác về Thi pháp Truyện Kiều,  gợi mở cho chúng ta thấy cách tiếp cận trục trụ của ―con quay kì lạ‖ chính là ngôn từ nghệ thuật.

-  Tính độc lập tương đối của văn bản khiến cho nhiều khi bạn đọc có thể phát hiện những nét mới ngoài ý đồ sáng tạo của nhà văn. Kim Lân từng bất ngờ khi trong kì thi ĐH, khối D, năm 2005, có một học sinh được điểm 10 khám phá ra một điều mà ông chưa bao giờ dụng công trong xây dựng phẩm chất anh cu Tràng [sự hiếu thảo với bà cụ Tứ]. Người đọc từ một bộ mã mà nghệ sĩ đã kí gửi – văn bản có thể giải theo nhiều cách khác nhau, tạo ra những khả năng thụ cảm phong phú.

-  Sáng tạo văn học đồng nghĩa với việc thiết kế những tín hiệu thẩm mĩ. Đó là những chỉ dẫn nghệ thuật người đọc dù tạo ra bao nhiêu khả năng cho tác phẩm vẫn phải tụ phát từ trục quay này. Chẳng hạn, tín hiệu thẩm mĩ ―mặt chữ điền‖ [Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc Tử] có thể hiểu là khuôn mặt của người con trai – tác giả hoặc khuôn mặt của người con gái soi qua trái tim nhớ thương da diết của thi sĩ. Dẫu hiểu theo cách nào cũng cần đặt trong hệ thống – nghĩa là gắn với văn cảnh ―Lá trúc che ngang mặt chữ điền‖ để thấy được nét đẹp của con người Vĩ Dạ và niềm hoài mong đau đáu của Hàn Mạc Tử.

-  Cặp hình tượng ―non – nước‖ ở ―Thề non nước‖ của Tản Đà mang tính đa nghĩa: vừa là hai vật thể thiên nhiên với qui luật muôn đời, vừa là người con trai và người con gái nhớ thương trong xa cách, vừa là đất nước bị cắt chia đầy xa xót nhưng tất cả đều mang một trạng thái cảm xúc chung.

4. Đánh giá

-  Khẳng định ý nghĩa của sự đọc không có nghĩa phủ nhận vai trò của nhà văn và quá trình sáng tạo. ―Con quay kì lạ dẫu biến ảo, vận động về đâu cũng cần có một trục trụ duy nhất để cân bằng. Ấy là những chỉ dẫn nghệ thuật, những tín hiệu thẩm mĩ mà nhà văn dày công xây dựng trong tác phẩm.

-  Văn bản thì duy nhất nhưng tác phẩm xét ở chừng mực nhất định là bất tận. Tác phẩm có thể chỉ được tạo ra trong một khắc, nhưng sinh mệnh của nó là bất tử [đối với các kiệt tác]. Độc giả chính là thước đo giá trị đích thực của một tác phẩm văn học. Quan niệm hiện sinh của J.Paul.Sartre xét cho cùng đã đạt đến bản chất tồn tại của tác phẩm văn học.

Đề 5:  

Nhà lý luận văn học Trung Quốc Lưu Hiệp cho rằng: “Phàm việc làm văn thì nội tâm có bị xúc cảm lời nói mới phát ra. Nhưng người xem văn thì [ngược lại]: trước xem lời văn rồi sau mới vào nội tâm tác giả. Nếu ta cứ theo sóng đi ngược lên tìm nguồn thì dù văn có kín đáo cũng sáng rõ. Đời xa không ai thấy mặt nhà văn, nhưng xem văn liền thấy tiếng lòng của họ”.

[Văn tâm điêu long/ thiên Tri âm; NXB Văn học; H; 1999; trang 274] 

Anh chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua một số tác phẩm văn học tiêu biểu.

GỢI Ý ĐÁP ÁN

1. Giải thích:  

-  Làm văn và xem văn. Thực chất là hai quá trình quan trọng của đời sống văn học: quá trình sáng tạo và tiếp nhận văn học. ở đó khái niệm ―văn‖ tức là tác phẩm văn học là trung tâm. Làm văn là quá trình của người sáng tác, nhà văn. Xem văn là quá trình tiếp nhận của người đọc.

-  Người làm văn thì xúc cảm lời nói mới phát ra: Nội dung của tác phẩm văn chương là nội dung cảm xúc, nhất là thơ. Người làm thơ có xúc động, cảm xúc thì lời nói mới phát ra. Văn bản văn học là sự thể hiện tình cảm, tư tưởng của người nghệ sĩ trên mặt giấy. Cảm xúc trong thơ phải mãnh liệt, tràn đầy. Rất nhiều người đề cao vai trò của cảm xúc với việc làm văn. Thơ phát khởi phát từ lòng người, Hãy xúc động hồn thơ cho ngòi bút có thần…  

-  Ngược lại, người xem văn, trước xem ngôn ngữ, rồi hiểu người; rẽ sóng tìm nguồn để thấy tiếng lòng của người làm văn. Quy trình của tiếp nhận: trước phải xem văn. Nghĩa là phải xuất phát từ văn bản ngôn từ; ngôn ngữ là cái lớp rào cản đầu tiên khi tiếp xúc văn bản văn học. Văn bản văn học gồm thế giới hình tượng và các lớp nội dung ý nghĩa được ẩn tàng bên trong van bản ngôn từ. Không thể hiểu văn nếu không giải mã văn bản ngôn từ. Đó là hệ thống kí hiệu được mã hóa để chuyển tải thông điệp thẩm mĩ của người làm văn, nghệ sĩ ngôn từ. Xúc cảm trước cuộc đời, trước số phận con người được nghệ sĩ thể hiện kín đáo trong trang văn, sau văn. Nội dung cảm xúc của tác phẩm văn học ít khi phơi lộ trên bề mặt của văn bản ngôn từ ngôn từ, mà thường được gửi gắm kín đáo đằng sau câu chữ. Người xem văn phải biết rẽ sóng tìm nguồn, làm hành trình ngược dòng văn sẽ bắt gặp tiếng lòng tác giả:

Đời xa không ai thấy mặt nhà văn, nhưng xem văn liền thấy tiếng lòng của họ.

-  Phải thấy có khi rẽ sóng mà không thấy nguồn, không tìm được mặt thi nhân. Nhưng nếu thực sự rung động, sống hết mình với tác phẩm, chắc chắn người xem văn sẽ bắt gặp phần nào tiếng lòng của họ. Tri âm hoàn toàn là điều lí tưởng, là mong ước, nhưng khó thay: “Bách niên ca tự khổ / Vị kiến hữu tri âm”. [Tự làm khổ cả trăm năm vì thơ / Mà vẫn chưa thấy có người hiểu mình].  Khó nhưng không phải không có. Chuyện Bá Nha Tử Kì đâu chỉ là chuyện đời xưa. Đó là câu chuyện của muôn đời về tri kỉ tri âm. Trần Phồn và điển chiếc giường cũng là nói chuyện ấy. Mắt xanh cũng là điển chỉ sự thấu hiểu nhau của những người tri kỉ. Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên và cả dân tộc thấu hiểu nỗi lòng Nguyễn Du? Thanh Thảo tri âm với nghệ sĩ cách ngàn trùng cây số? Những tấm lòng đồng cảm vượt không gian và thời gian.

=> Ý kiến của Lưu Hiệp thật đúng đắn và xác đáng khi bàn về quá trình sáng tạo của nhà văn và quá trình tiếp nhận của người đọc.

2. Chứng minh

 Chọn một số tác phẩm tiêu biểu, phân tích để làm sáng tỏ hai vấn đề lời nhận định đề cập đến là làm văn và xem văn:

     + Độc Tiểu Thanh kí – Nguyễn Du

     + Đàn ghi ta của Lor ca – Thanh Thảo

      + Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu

   +… 3. Đánh giá

-  Ý kiến đúng đắn, xác đáng, thể hiện cái nhìn sâu sắc của nhà lí luận văn học

Lưu Hiệp.

-  Tuy nhiên, phải thấy cái gốc của văn chương là tình cảm, cảm xúc. Vì thế, để sáng tạo nên một tác phẩm văn học chân chính, nhà văn phải có tầm vóc tư tưởng, tình cảm lớn.

-  Trong quá trình tiếp nhận, người đọc cần ―lấy hồn tôi để hiểu hồn người‖, có con ―mắt xanh‖ để tri âm nhưng bên cạnh đó cần có trình độ thẩm thấu văn chương mới hiểu được hết giá trị của văn chương.

Đề 6:

Mọi tác phẩm dù được sáng tạo theo một thi pháp nào cũng mở ra theo các

cách đọc. Mỗi cách đọc mang đến cho tác phẩm một đời sống mới.

Anh chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua một số tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn THPT.

GỢI Ý ĐÁP ÁN

1. Giải thích

-   Tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân hoặc một tập thể sáng tạo nhằm thể hiện những khái quát về cuộc sống, con người; biểu hiện tâm tư, tình cảm, thái độ ...của chủ thể trước thực tại bằng hình tượng nghệ thuật.

-   Thi pháp có hai cách hiểu. Thứ nhất, đó là các nguyên tắc, biện pháp chung để làm cho một văn bản trở thành một tác phẩm nghệ thuật. Thứ hai, thi pháp là các nguyên tác, biện pháp nghệ thuật cụ thể để tạo nên giá trị đặc sắc của một tác phẩm, tác giả, trào lưu.

-   Cách đọc: là cách tiếp nhận văn học của người đọc, người đọc dùng trí tưởng tượng, kinh nghiệm sống và cả tâm hồn của mình để chiếm lĩnh giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm văn chương.

=> Ý kiến khẳng định: bất cứ tác phẩm nào cũng là tác phẩm mở cho các sự đọc, các người đọc khác nhau. Tác phẩm sinh ra từ ý thức [tâm lý] người viết và sống dậy trong tâm lý [ý thức] người đọc. Sức sống của tác phẩm nằm ở trường nhìn, trường cảm của từng cá nhân đọc khác nhau.

2. Bình luận

-  Ý kiến đúng đắn và xác đáng

-  Tác phẩm văn học là một văn bản ngôn từ. Nhưng đặc trưng của ngôn từ là tính mơ hồ đa nghĩa nên người ta gọi tác phẩm văn học là một "văn bản mở". "Văn bản mở" nghĩa là tác phẩm gồm hai phần: "phần cứng" là những con chữ bề mặt văn bản đang nằm im, "phần mềm" là hệ thống tư tưởng, ý nghĩa được xuất hiện trong quá trình tiếp nhận. Từ xưa Phương Đông đã có mệnh đề: Thi tại ngôn ngoại và văn hữu dư ba. Cái phần ngôn ngoại và dư ba này không tồn tại trên văn bản mà do ngữ cảnh tạo ra trong tưởng tượng và cảm xúc của người đọc. Vì thế, cái gọi là "tác phẩm văn học" chỉ thực sự tồn tại khi nó biến thành cái "phần mềm" kia, còn nếu không nó trở thành "quyển sách chết". 

-  Ng-êi Trung Quèc x-a cho r»ng t¸c phÈm tån t¹i trong lßng cña ng-êi tri kØ chø kh«ng trªn trang giÊy; v× thÕ viÖc viÕt v¨n lµ viÖc cña tÊm lßng. Chính vì thế, tác phẩm chỉ thực sự tồn tại khi người ta ý thức được về nó mà thôi. Người đọc là người cứu tác phẩm ra khỏi hầm mộ của sách, giúp nó sống lại và bước đi giữa cuộc đời và hồn người. Tác phẩm tái sinh trong lòng bạn đọc. Tuỳ từng tư tưởng, kinh nghiệm, thẩm mĩ của mỗi độc giả mà tác phẩm có muôn ngàn cuộc sống khác nhau. Vì thế, tác phẩm vừa là nó, vừa chẳng là nó. Sự thú vị trong đa dạng tiếp nhận cũng chẳng kém sự thú vị trong đa dạng sáng tạo. Vì thế sức sáng tạo của nhà văn, qua bạn đọc cứ nhân lên đến vạn lần. Và thế là nghệ thuật có sự sống vĩnh hằng vì nghệ thuật có hai con đường: sáng tạo hay là chết.

-  Vai trò của người đọc là rất quan trọng đối với sức sống của một tác phẩm song cho rằng phải có nó mới có TPVH thì đó là một lập luận khiên cưỡng. Văn bản tác phẩm có thể tạo ra các dị bản khác nhau trong tiếp nhận của người đọc song, đó là các dị bản tiếp nhận từ một văn bản ổn định duy nhất là tác phẩm văn học. Cũng như mọi giao tiếp ngôn ngữ, giao tiếp ngôn ngữ nghệ thuật qua tác phẩm văn học bao gồm khâu phát ngôn của tác giả thành ra diễn ngôn của tác phẩm rồi đi vào tiếp nhận diễn ngôn đó của độc giả. Đây là quá trình tâm lý có sự đồng nhất, thống nhất mà cũng có sự sai biệt, mâu thuẫn. Chính điều này tạo ra cái mà chúng ta gọi là sức sống của tác phẩm văn học trong đời sống xã hội vô cùng phong phú, phức tạp, đa dạng giữa các nhà văn, nhà thơ – các tác giả với công chúng người đọc, người phê bình văn học.

3. Chứng minh

Chọn một số tác phẩm tiêu biểu, phù hợp phân tích để làm sáng tỏ ý kiến

[Đưới đây là một vài gợi ý]

-  Truyện Kiều của Nguyễn Du

+ Nguyễn Công Trứ coi Kiều là kẻ tà dâm, không đáng nhận sự thương xót.

Dưới cái nhìn khắt khe của lễ giáo phong kiến ông viết:

                           Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa,                             Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm.

+ Hoài Thanh: Truyện Kiều là tiếng nói đau đớn, hiểu đời của một trái tim lớn.

+ Tố Hữu : Truyện Kiều kết tinh của lời non nước, tiếng ru, tiếng thương có sức vọng đến ngàn đời.

+…

-  Bài thơ: Lặng lẽ đêm của Y Phương:

                                                   Trên đầu ta

                                                   Trăng khe khẽ sáng

Sương khe khẽ lắng

Mây khe khẽ trôi

Dưới lưng ta

Chiều khe khẽ thở

Trong ngực ta

Khe khẽ NGƯỜI.

=> Khi đọc bài thơ, có người đã dựa vào điệp từ ―khe khẽ‖ lặp lại năm lần để coi đó là nhãn tự, là phép ẩn dụ về sức sống nhỏ nhoi, yếu ớt, thoi thóp của sự vật. Bài thơ vẽ nên một bức tranh trăng, sơn mây. Đọc kĩ bài thơ nhiều người lại cho rằng, danh từ ―NGƯỜI‖ mới là nhã tự làm bừng sáng bài thơ, bởi với chữ người ấy ta nhận ra một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm đến vô cùng để cảm nhận bức tranh đa chiều với vẻ đẹp của trăng, sương, mây, sự vận động của sự vật lặng lẽ, khẽ khàng, nhưng trong trái tim lại là sự sống tiềm ẩn mạnh mẽ.

- Đôn-ki-hô-tê: Người Tây Ban Nha gọi chàng là kẻ điên rồ, người Pháp gọi là chú hề đáng thương, đến chủ nghĩa lãng mạn gọi Đôn-ki-hô-tê là người anh hùng còn sót lại, chủ nghĩa hiện thực lại coi là biểu tượng của sự suy vi một thời phong kiến đã qua.

4. Đánh giá

-  Sức sống của tác phẩm văn chương không chỉ tạo nên bởi quá trình tiếp nhận mà con ở sức sống nội tại của tác phẩm do người nghệ sĩ tạo ra.

-  Người nghệ sĩ cần sáng tạo nên những tác phẩm văn chương chân chính, một tác phẩm văn chương giống như ―tảng băng trôi‖ để tạo nên sức hấp dẫn, đánh thức niềm khát khao khám phá của người đọc.

-  Bạn đọc không nên suy diễn tùy tiện, phải bắt nguồn từ văn bản. Phải thấy, khi đọc một văn bản văn học, người đọc đã thực hiện một quá trình kép: vừa sáng tạo ra tác phẩm vừa kiến tạo nên con người mình.

Đề 7:

Có ý kiến cho rằng: Tiếp nhận văn học đòi hỏi người đọc sống với tác phẩm bằng toàn bộ tâm hồn mình để cảm nhận bức thông điệp thẩm mĩ mà tác giả gửi đến người đọc.

Anh/chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

GỢI Ý ĐÁP ÁN

1. Giải thích

-  Văn học là tiếng nói tư tưởng, tình cảm, suy nghĩ của nhà văn trước cuộc đời. - Nói đến tác phẩm văn học là nói đến câu chuyện của tâm hồn [tình cảm, ước mong sâu kín của nhà văn nhắn gửi với bức thông điệp thẩm mĩ], là điệu hồn tác giả đi tìm điệu hồn độc giả. Vì vậy tiếp nhận văn học đòi hỏi người đọc sống với tác phẩm bằng toàn bộ tâm hồn mình để cảm nhận bức thông điệp thẩm mĩ mà tác giả gửi đến người đọc.

-  Bức thông điệp thẩm mĩ: Là tình cảm, tâm hồn, ước mong sâu kín của tác giả gửi đến người đọc thông qua hình tượng nghệ thuật.

2. Bàn luận

-  Ý kiến đúng đắn và xác đáng.

-  Xuất phát từ đặc trưng của văn học. Bản chất của văn học là sự sáng tạo.

Người nghệ sĩ khai thác cuộc sống, nhưng cuộc sống ấy đi vào mỗi trang văn, trang thơ lại mang một dấu ấn riêng. Thơ văn là một thế giới thuộc về phần tâm hồn của người nghệ sĩ, nó là những biến thái tinh vi của tình cảm,  là khát khao hạnh phúc, là những ước vọng lớn lao v.v…Văn học là sự phản ánh cuộc sống thông qua chủ thể nhà văn, nhà thơ nên mỗi tác phẩm bao giờ cũng thể hiện tư tưởng tình cảm, gửi gắm những thông điệp của tác giả…

-  Tại sao tiếp nhận văn học đòi hỏi người đọc phải sống với tác phẩm bằng toàn bộ tâm hồn mình? Bởi chỉ khi nhập vào thế giới hình tượng trong tác phẩm, chỉ khi để trái tim rung lên theo những nhịp sống trong tác phẩm, ta mới cảm nhận được những buồn vui trăn trở, khát vọng của nhà văn; mới thấy được những số phận, cảnh đời, mới hiểu được giá trị thật sự của tác phẩm văn học đó.

3. Chứng minh

Chọn một số tác phẩm tiêu biểu, phù hợp phân tích để làm sáng tỏ ý kiến

[Đưới đây là một vài gợi ý]

-  Truyện Kiều – Nguyễn Du: Nhận ra số phận đau khổ của kiếp hồng nhan bạc mệnh; sự tác oai, tác quái của xã hội đồng tiền đã vùi dập, chà đạp tình yêu, hạnh phúc, quyền sống và nhân phẩm cao đẹp của con người. Nhận ra nỗi đau đứt ruột của nhà nhân đạo lớn, tài năng kiệt xuấ của Đại thi dào dân tộc.

-  Vội vàng – Xuân Diệu: Có người nông nổi cho rằng bài thơ là lời giục giã cho cách sống hưởng thụ, gấp gáp nhưng ta nhận thấy bức thông điệp thẩm mĩ Xuân

Diệu muốn gửi đến bạn đọc là lòng yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt, là sự thức gọi mỗi người hãy sống sao cho xứng đáng để không bao giời phải nuối tiếc, xót xa vì những ngày tháng đã sống hoài, sống phí.

-  Tống biệt hành – Thâm Tâm: Có người cho Li Khách là người khổng lồ không tim, sắn sang coi người thân như hư vô, nhỏ bé để mạnh bước trên đường thực hiện lí tưởng. Nhưng thực ra, đằng sau dáng vẻ kiên quyết, dứt khoát của li khách ta nhận ra nỗi buồn thương day dứt ―Ta biết người buồn chiều hôm trước…Ta biết người buồn sáng hôn nay‖. Mặc dù thế, anh vẫn đi theo tiếng gọi của ―chí nhớn‖ . Để an ủi người ở lại, anh mong mỏi người thân hãy coi mình như hạt bụi, như lá rơi, như hơi rượu tan biến vào hư vô. Đó là vẻ đẹp thực sự của li khách - dáng vẻ của dũng khí và tâm hồn nồng ấm rất con người.

-  Bước vào trang văn của nhà văn Mĩ Ô – hen – ri, mấy ai trong chúng ta không khỏi bồi hồi xúc động trước cảnh ngộ của cô họa sĩ trẻ Giôn – xi, phải từng ngày từng giờ bám lấy sự sống bằng một tia hi vọng mong manh – ―chiếc lá cuối cùng‖. Nhưng bằng trái tim giàu lòng yêu thương đồng loại, cụ Bơ –men đã hi sinh cuộc đời mình để cứu rỗi một linh hồn đang dần lụi tàn trong một thân xác yếu ớt, tưởng chừng  như không giờ cứu chữa được. Kiệt tác cuối đời của cụ - ―chiếc lá cuối cùng‖ chính là bức thông điệp màu xanh mà nhà văn Ô – hen – ri muốn đem đến cho bạn đọc: Hãy sống và yêu thương, xã hội luôn cần tình yêu và lòng nhân đạo cao cả. Bởi tình yêu thương sẽ cứu sống muôn triệu trái tim khổ đau bất hạnh trên cõi đời này.

-  vv… 

4. Đánh giá

-  Đây là ý kiến sâu sắc và đúng đắn cho người tiếp nhận để có thể cảm nhận được chiều sâu tư tưởng thẩm mĩ của tác phẩm văn chương – hay nói cách khác là phần chìm của ―tảng băng trôi‖ nghệ thuật.

-  Bài học sáng tạo và tiếp nhận: Nhà văn cần thấy vai trò và trách nhiệm khi sáng tạo văn học nghệ thuật. Viết những tác phẩm bằng tâm huyết và tài năng của mình. Bạn đọc cần có sư tri âṃ , đồng cảm với tác phẩm , với nhà thơ, nhà văn để có thể sẻ chia những tinh cà ̉m đồng điêụ . Khi ấy, bạn đọc vừa cảm thụ được vẻ đẹp của tác phẩm nghệ thuật, vừa kiến tạo nên con người mình.

Đề 8:

      Mi-lan Kan-de-ra khẳng đinh: 

Khi đặt bút viết một tác phẩm, nhà văn thường tìm hiểu và đặt ra rất nhiều câu hỏi. Chiều sâu của tác phẩm thể hiện ở khả năng đặt ra câu hỏi về mọi vấn đề trong xã hội. Chính người đọc sẽ tìm được câu trả lời chính xác theo cách riêng của mình.

Bằng tri thức và trải nghiệm văn học của mình, bạn hãy bình luận ý kiến trên.

GỢI Ý ĐÁP ÁN

1. Giải thích

-  Trong nhận định của Mi-lan, kết quả về sự tìm hiểu thực tế của nhà văn là câu hỏi và chính điều này tạo ra chiều sâu cho tác phẩm. Nó cho thấy tác giả phẩm văn học không phản ánh hời hợt, dễ dãi ở bề mặt cuộc sống mà thực sự là những kiếm tìm, những trải nghiệm, những suy tư về hiện thực.

-  Trên cơ sở những câu hỏi đó của nhà văn, người đọc sẽ tìm ra câu trả lời cuar riêng mình. Đó là cách thức, là con đường mà tác phẩm đi vào trong đời sống, trong tiếp nhận của người đọc. 

 => Ý kiến đề cập đến phương thức nhận thức hiện thực độc đáo của văn học – nhận thức thông qua việc đặt câu hỏi. Chỉ ra sự tương tác của nhà văn, tác phẩm và người đọc. Nhà văn không thay người đọc để đưa ra câu trả lời, nhà văn chỉ là người đặt câu hỏi và người đọc sẽ hoàn tất câu trả lời. Đó là tinhs chất cơ bản của tiếp nhận văn học.

2. Bình luận và chứng minh 

a. Tại sao việc đặt ra câu hỏi lại quyết định chiều sâu của một tác phẩm văn

học khi nó phản ánh hiện thực?

* Vì tìm hiểu thực tế đời sống thực chất là một quá trình với nhiều chặng khác nhau:

-  Ở chặng thứ nhất, nhà văn thâm nhập thực tế và ghi nhận những sự kiện: Dẫn chứng: [Nam Cao ghi nhận sự kiện người nông dân bị bần cùng hóa [Lão Hạc], họ bị bứt ra khỏi làng xã quen thuộc, bị vứt vào những vùng đồn điền [con trai Lão Hạc], bởi nếu không rời bỏ xã hội làng xã họ sẽ phải sống cô độc như Lão Hạc, phải mất con, bán chó và chết thê thảm. Nam Cao còn ghi lại sự tha hóa của người nông dân  về nhân phẩm [Chí Phèo]. Những sự kiện không phải ngẫu nhiên, đơn lẻ như: chết vì miếng ăn, vì cái đói, sự lưu manh hóa trở đi trở lại trong các tác phẩm của ông như một quy luật tàn nhẫn.]

-  Ghi lại những sự kiện đó, truy tìm nguyên nhân của những sự kiện đó. 

+ Dẫn chứng 1: [Ở điểm kết thúc tác phẩm của Nam Cao đầy ắp những câu hỏi. Có những câu hỏi trực tiếp: Thế lực nào đã đẻ ra Chí Phèo? Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho hết những vết sẹo trên gương mặt này? [Chí Phèo]. Có những câu hỏi gián tiếp toát ra từ toàn bộ thế giới hình tượng của tác phẩm. Vì sao Chí lại đánh đổi mạng sống để làm người lương thiện? Vì sao nhân vật của Nam Cao lại nhiều nước mắt đến thế…Những câu hỏi như thế dẫn chúng ta vào tầng vỉa khác nhau của đời sống hiện thực. Đó chắc chắn là những câu hỏi đã từng tra vấn nội tâm Nam Cao một cách căng thẳng. Chính những câu hỏi như thế làm nên chiều sâu của tác phẩm.]

+ Dẫn chứng 2: Hành trình của Nguyễn Minh Châu viết về số phận của người đàn bà hàng chài cũng đặt ra những câu hỏi tương tự; Vì sao người đàn bà có thể chấp nhận một cuộc sống như thời trung cổ đến thế? Tại soa cuộc sống đã hòa bình mà con người vẫn khổ như vậy? Người chồng vũ phu là đáng giận hay đáng thương?

=> Rõ ràng những câu hỏi trực tiếp hoặc gián tiếp trong tác phẩm văn học là cách thức mà nhà văn khoan sâu vào những tầng vỉa trong cuộc sống, là con đường để nhà văn nhận thức, suy tư về bản chất của hiện thực. Những tác phẩm lớn, các câu hỏi đặt ra không chỉ có ý nghĩa với đương thời mà còn có ý nghĩa với muôn đời, gắn với nhiều thời đại, phổ quát cho cả loài người.

* Bằng cách nào nhà văn có năng lực đạt ra những câu hỏi như thế? Nhà văn phải đi rất sâu vào hiện thực, thậm chí phải đi qua những cảnh ngộ rất thơ mộng, đẹp đẽ như một tấm sưng mù [Phùng – Chiếc thuyền ngoài xa , Nguyễn Minh Châu], hoặc là phải trai qua một quá trình nhận thức [Ông giáo – Lão Hạc]. Quan trọng hơn, nhà văn phải có một tấm lòng luôn nhạy bén để thấu hiểu và cảm nhận bi kịch của con người.

b. Tại sao việc người đọc trả lời câu hỏi được nhà văn đặt ra trong tác phẩm

lại là điều quan trọng? 

-  Tác phẩm văn học là một không gian không phải chỉ có tiếng nói duy nhất của tác giả. Tác phẩm văn học là không gian đối thoại của tác giả với độc giả. Chính việc đưa ra những câu trả lời khiến người đọc tham dự một cách tích cực vào tác phẩm. Để đưa ra những câu trả lời thì người đọc cần đến kinh nghiệm sống, và vì thế người đọc đem lại cho tác phẩm những ý nghĩa mới, nhờ đó tác phẩm không ngừng được bổ sung, sáng tạo, được tiếp thêm sức sống. [Biện giải cho từng cách hiểu: Ai đẻ ra Chí Phéo? Người đàn bà hàng chài đáng thương hay đáng trách?...]

-  Ở mỗi thời đại khác nhau người ta quan tâm đến những câu hỏi khác nhau? Với tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, có thời kì người ta quan tâm đến câu hỏi: Ai cho tao lương thiện? Có thời đại lại quan tâm đến câu hỏi: Làm thế nào cho mất đi những vết sẹo trên gương mặt này?

-  Những câu hỏi của tác phẩm có trực tiếp và gián tiếp, câu hỏi trực tiếp là do nhà văn đưa ra, còn câu hỏi gián tiếp là do phần lớn người đọc đặt ra và chính người đọc sẽ tìm câu trả lời cho mình.

3. Đánh giá

-  Trong nhận định của mình, Ku-de-ra nói tác phẩm có thể đặt ra câu hỏi về mọi lĩnh vực trong cuộc sống. Điều đó đúng nhưng có lẽ những câu hỏi có ý nghĩa nhất mà văn học đem đến cho con người là những câu hỏi phản biện về những điều cồn tồn tại trong xã hội, những câu hỏi tự vấn về chính mình…Nhờ những câu hỏi ấy

mà văn học có sức thanh lọc, nâng đỡ tâm hồn con người.

-  Bài học sáng tạo và tiếp nhận…

Đề 9:

Đối thoại với văn chương, Cao Bá Quát nói: “Xưa nay, nỗi khổ của người ta không gì bằng chữ tình, mà cái khó ở đời không gì bằng sự gặp gỡ”. 

      [Sách giáo khoa Ngữ văn 12  tập 2, tr 188     NXB giáo dục năm 2008]

 Phát biểu những suy nghĩ của mình về nhận định trên. Phân tích một số tác phẩm mà ng-ời nghệ sĩ đã khổ vì chữ tình để đạt tới sự gặp gỡ mà anh [chị] hiểu sâu sắc nhất.

GỢI Ý ĐÁP ÁN

1.                      Bài viết của thí sinh phải giải quyết tốt hai yêu cầu kiến thức cơ bản:

      + Yêu cầu thứ nhất là trình bày suy nghĩ của mình về nhận định.

 + Yêu cầu thứ hai là làm sáng tỏ nhận định ấy qua những tác phẩm người nghệ sĩ đã khổ  vì ―chữ tình‖ để đạt tới sự ―gặp gỡ‖. 2. Với yêu cầu thứ nhất, cần làm nổi rõ các ý sau:     

-  Nhận định trên nêu lên một quy luật có tính chất phổ quát muôn đời. Trước hết cần hiểu rõ ―nỗi khổ của người ta không gì bằng chữ tình‖. Chữ ―tình‖ ở đây chính là tình cảm, cảm xúc đối với đồng loại, nhân dân, đất nước và cũng là tình cảm của chính người nghệ sĩ mang thiên chức ―nhân đạo từ trong cốt tuỷ‖ [nói như Sê – Khốp].

-  Nỗi khổ không chỉ là đơn giản là chuyện sướng khổ theo nghĩa thông thường trên đời mà ―khổ‖ chính là nhà văn bằng thiên chức của mình đã cảm thông sâu sắc đến tận cùng mọi buồn vui sướng khổ của nhân loại nói chung, nhân dân mình, dân tộc mình nói riêng. Họ có thể đau đớn, vật vã giằng co đến chảy máu trước cảnh ngộ thân phận xót xa của người khác. Cũng có thể reo lên sung sướng trước niều vui dù là nhỏ nhoi của con người.

-  Như thế nỗi khổ lớn nhất xưa nay của người nghệ sĩ hoá ra lại là chuyện cảm thông chia sẻ, tri ân trước mọi cung bậc của tình cảm con người. Để nói lên được tất cả tình cảm ấy, người nghệ sĩ phải sống với cuộc đời , sống với con người, phải mở lòng đón nhận mọi vang động của cuộc đời. Và để có được sức cảm thông đó, người nghệ sĩ phải dấn thân, phải tự nguyện, nói như nhà văn Lỗ Tấn thì đại ý: Tôi ăn lá ăn cỏ để vắt ra là sữa nuôi người đạt được trình độ ấy thì nỗi khổ lớn nhất lại là niềm hạnh phúc nhất.

-  ―Cái khó ở trên đời không gì bằng sự gặp gỡ. Thực chất đây là sự giao tiếp giữa tác giả và người tiếp nhận, là mối quan hệ giữa người nói và người nghe, người viết và người đọc, người bày tỏ và người chia sẻ cảm thông. Người viết baogiờ cũng mong mỗi người đọc hiểu mình, cảm nhận được điều mình muốn gửi gắm kí thác. ―gặp gỡ chính là sự đồng điệu hoà hợp của những tâm hồn. ở mức độ thống nhất cao thì đó là đồng cảm xúc của người đọc.

 Hiểu như vậy thì cái ―khó lại là sự thành công sự tuyệt mĩ của tác phẩm. Tác phẩm  chỉ  thật  sự  có  giá  trị  khi được  đông  đảo bạn đọc đón nhận tìm thấy mình ở trong đó.

-  Mối quan hệ giữa cái ―khổ và cái ―khó của người nghệ sĩ chính là mối quan hệ giữa quá trình người nghệ sĩ sống, chiêm nghiệm, hoá thân trong cuộc sống dài để phản ánh chân thật những cảm xúc những suy tư, những trăn trở, niềm đau khổ vô cùng và hạnh phúc vô cùng của con người và truyền thông cho được tình cảm ấy đến với bạn đọc. Sự đón chờ, tiếp nhận hồ hởi của bạn đọc là tiêu chuẩn khắt khe nhất, nghiêm túc nhất đối với sự trường cửu của tác phẩm văn chương. Người nghệ sĩ nào làm được sứ mệnh ấy là nghệ sĩ lớn, tác phẩm nào đạt được sự hoà hợp ấy là tác phẩm bất hủ không sợ thời gian.

2.                      Yêu cầu thứ hai, cần làm tốt các ý sau:     

-  Khi làm sáng tỏ nhận định phải cân nhắc lựa chon những tác phẩm thật sự có giá trị của những nghệ sĩ thực sự vĩ đại hoặc uy tín.

-  Khi phân tích cụ thể phải chỉ ra được chỗ nhà văn ―lao tâm khổ tứ‖ cảm thông vô cùng với tình cảm con người, nói hộ cho tâm sự nỗi niềm con người để sản phẩm tinh thần của họ được bạn đọc đón nhận.

-  ở góc độ tiếp nhận của người đọc, cũng phải chỉ rõ được người đọc đã cảm thông, giao thoa đồng cảnh ngộ với người nghệ sĩ sâu sắc ở điểm nào, những tình cản gì. Nói  cách khác,  sợi  tơ lòng  kết dính người nghệ sĩ và bạn đọc là ở cách nhìn và tình cảm nào.

-  Khi phân tích minh hoạ, đề có phần nghiêng về tư tưởng tình cảm nhưng không vì thế mà xem nhẹ yếu tố hình thức, nghệ thuật của tác phẩm. Phải xem nội dung tốt, hình thức lại chuẩn mực thì đó là tác phẩm hoàn hảo.

-  Phân tích minh hoạ phải tuân theo một trình tự hợp lí, có thể mở rộng phạm vi tác phẩm minh hoạ qua mọi thời đại, mọi quốc gia miễn là người viết nói đúng, nói trúng vấn đề cần hiểu rõ và làm rõ.

Đề 10:

            Phải chăng, tiếng nói tri âm là khát vọng muôn đời của văn chương xưa nay? 

GỢI Ý ĐÁP ÁN

1. Vấn đề tiếng nói tri âm trong văn chương.

a. Khái niệm

Tri âm được hiểu là sự đồng điệu, thấu cảm.  “Xưa nay nỗi khổ của người ta không gì bằng chữ tình, mà cái khó ở đời không gì bằng sự gặp gỡ.”[ Hoa tiên truyện tự - Cao Bá Quát]. 

       b. Luận giải về tiếng nói tri âm trong văn học.

-  Sự tri âm giữa người đọc và người viết trước hết được bắt nguồn từ quy luật của sáng tạo nghệ thuật. Người nghệ sĩ cầm bút là để giải bày lòng mình. Nhà thơ mang ―tiếng nói điệu đồng đi tìm những tâm hồn đồng điệu‖. Nhà văn viết tác phẩm như ban phát phấn thông vàng đi khắp nơi, mong có ngươi theo phấn tìm về. Cho nên bạn đọc là một mắt xích không thể thiếu trong chu trình sáng tác - tiếp nhận tác phẩm. Bạn đọc cũng có suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc, có niềm vui và nỗi buồn, có cảnh ngộ và tâm trạng, nhiều khi bắt gặp sự đồng điệu với nhà văn, nhà thơ. Khi hai luồng sóng tâm tình ấy giao hoà thì tác phẩm sẽ rực sáng lên, trở thành nhịp cầu nối liền tâm hồn với tâm hồn, trái tim với trái tim. Phải chăng vì thế Lưu Quý Kì viết : “nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ. Người đọc mở ra bỗng thấy tâm tình của chính mình”. 

-  Xét về đối tượng phản ánh của văn học: Những cuộc đời bi kịch, đau thương, những số phận ngang trái thường dễ khơi gợi cảm xúc đồng cảm xót thương của con người, nhất là những người nghệ sĩ [ quy luật của cuộc sống: con người nhạy cảm, quan tâm nhiều hơn trước nỗi buồn hơn là niềm vui, trước bất hạnh hơn là hạnh phúc, trước mất mát, thiệt thòi hơn là được, may mắn]. Tiểu Thanh, Nguyễn Du, Lorca đã đi vào trong thơ của Nguyễn Du, Tố Hữu, Thanh Thảo bởi họ có chung số phận ấy.

Tri âm còn là tìm đến cái đẹp để ngưỡng mộ, ngợi ca. Bản thân cái đẹp có sức chinh phục lớn lao với những người nghệ sĩ. Cái đẹp có từ trong cuộc đời nhân cách của con người, cái đẹp còn có trong giá trị của tác phẩm nghệ thuật. Trong cảm xúc của các nhà thơ sự cảm thông, xót thương phải đi liền với sự ngợi ca, ngưỡng mộ, tôn vinh. Qua các tác phẩm thơ chúng ta thấy Nguyễn Du, Tố Hữu, Thanh Thảo luôn muốn lưu giữ lại với muôn đời những vẻ đẹp mà đối tượng tri âm của họ sở hữu - Trên cơ sở lí luận tiếp nhận văn học: 

+ Khi nhà văn kết thúc trang viết cuối cùng của tác phẩm, thì lúc đó tác phẩm mới bắt đầu vòng đời của nó. Nói các khác quá trình hoạt động của tác phẩm không phải là một chu trình đóng kín, mà nó mở ra về phía đời sống. Và đối với những tác phẩm lớn thì cuộc đời của nó luôn luôn ẩn chứa những khả năng mới sẽ bộc lộ khi nó viễn du qua không gian và thời gian. Và khi đó sức sống của tác phẩm văn chương sẽ được bất tử hoá trong sợi dây tri âm linh diệu giữa tác giả và bạn đọc. Phải chăng vì vậy, M.Gorki đã viết: ―người tạo nên tác phẩm là tác giả nhưng người quyết định số phận của tác phẩm lại là độc giả‖. 

+ Tác phẩm văn chương chỉ sống được trong tấc lòng của những người tri kỉ - là bạn đọc nhưng không phải bạn đọc nào cũng hiểu được tác phẩm và thông điệp của tác giả. Tiếp nhận văn học phụ thuộc vào nhiều yếu tố: tâm lý và tâm thế tiếp nhận, môi trường văn hoá mà người đọc đang sống, đang tiếp thu, …. Chuyện khen hay chê trong văn chương là điều dễ thấy. Cho nên, ở bất kỳ thời đại nào, bất cứ nền văn học dân tộc nào cũng đều rất cần tiếng nói tri âm của bạn đọc dành cho tác giả. Nghĩa là bạn đọc ấy phải cảm thông, sẻ chia với những nỗi niềm tâm sự , nghĩ suy của người viết gửi gắm vào tác phẩm. 

-  Thực tiễn văn học: Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân Nguyễn Đăng Tuyển từng có lời bình Truyện Kiều như sau: “Thuý Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Như tử làm Truyện Thuý Kiều, việc tuy có khác nhau mà lòng thì là một, người đời sau thương người đời nay, người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài tình thật là một cái thông luỵ của bọn tài tử khắp trong gầm trời và suốt cả xưa nay vậy”. Chính bởi ý nghĩa đặc biệt của tiếng nói tri âm trong văn chương mà biết bao nhà thơ, nhà văn đã sáng tác những tác phẩm mà đối tượng lại chính là các nhà văn, nhà thơ. Bằng Việt viết về Pauxtôpxki, Ximônôp sung sướng khi tìm được tri âm là Tố Hữu : ―Ở đây tôi thấy thơ tôi, Sống trong bản dịch tuyệt vời của anh”, hay Thanh Thảo đã viết về Lor ca bằng những vần thơ với nỗi đau “bốc cháy như mặt trời”. Trường hợp của Nguyễn Du và Tố Hữu trong hai bài thơ ―Độc Tiểu Thanh kí‖ và ―Kính gửi cụ Nguyễn Du cũng không nằm ngoài mạch nguồn cảm hứng giàu giá trị nhân văn ấy . 

2. Tiếng nói tri âm trong văn học qua một số tác phẩm tiêu biểu.

a. Tiếng nói tri âm trong Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du

-  Hơn ai hết trong nền văn học Việt Nam, Nguyễn Du là người khổ vì chữ tình và khát khao sự gặp gỡ đến khắc khoải. Thi hào là một con người suốt đời đi tìm tri kỉ giữa cõi đời đen bạc.  Chắc hẳn đại thi hào sẽ ―ngậm cười chín suối‖ vì ―cả cuộc đời nay hiểu Nguyễn Du‖, vì có biết bao người như Huy Cận, Tế Hanh, Chế Lan Viên, …và đặc biệt là Tố Hữu đã làm thơ giãi bày, giải toả hộ người những uất hận kia. Bài thơ ―Kính gửi cụ Nguyễn Du‖ ra đời như bắt nhịp cầu tri âm đến những tâm sự của Tố Như trong ―Độc Tiểu Thanh kí‖, đồng thời cũng khẳng định ý nghĩa đặc biệt của tiếng nói tri âm trong văn chương.

-  Trước hết ―Độc Tiểu Thanh kí‖ là tiếng nói tri âm của một cá nhân dành cho một cá nhân, một lòng đau đi tìm một hồn đau, cất lên trong một không gian đa chiều của tiếng khóc – tiếng khóc là biểu tượng cho sự đồng cảm sâu sắc giữa hai con người khác thời đại và dân tộc. Có một khoảng không gian và thời gian diệu vợi, hun hút, ngăn cách hai người nhưng chính văn chương đã xoá nhoà biên giới địa lí, biên giới lịch sử để họ tìm đến với nhau. 

-  Khóc cho Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã khóc cho người, khóc cho một thiên tài kì nữ.

-  Nguyễn Du coi mình là người cùng hội cùng thuyền với người xưa, khóc cho Tiểu Thanh để rồi khóc cho chính mình. 

-  Bài ―Độc Tiểu Thanh kí‖ của Tố Như viết theo thể đường luật cô đúc, hàm súc nhưng phảng phất giọng điệu bi phẫn do rất nhiều thanh trắc, gợi cảm giác trĩu nặng, ngưng đọng.  

b. Tiếng nói tri âm trong Kính Gửi cụ Nguyễn Du của Tố Hữu

-  Nếu “Độc Tiểu Thanh kí” là tiếng nói tri âm của một cá nhân dành cho một cá nhân, sự đồng cảm sâu sắc giữa hai người khác thời đại và dân tộc, thì “Kính gửi cụ Nguyễn Du” là tiếng lòng tri âm của những con ngưòi cùng nguồn cội, cùng dân tộc. Hai trăm năm sau Nguyễn Du , Tố Hữu đứng trên đỉnh cao của thời đại, của dân tộc hướng về quá khứ cha ông với niềm xót xa, thương cảm. Biết bao nhà thơ khác đồng cảm với Nguyễn Du nhưng ở Tố Hữu, sự đồng cảm ấy thật sâu sắc, mênh mông. 

-  Nếu như Nguyễn Du chủ yếu tri âm với cuộc đời Tiểu Thanh thì Tố Hữu còn tri âm với cả thế giới nhân vật của tác phẩm Nguyễn Du. Tố Hữu không chỉ thương

Nguyễn Du mà còn thương nhân vật mà Nguyễn Du thương. 

-  Không chỉ hiểu bi kịch của Nguyễn Du, Tố Hữu còn chia sẻ, cảm thông với bi kịch tình đời của thi hào. Tố Hữu không chỉ tri âm với tư cách là một người nghệ sĩ với một người nghệ sĩ mà còn tri âm trên tinh thần trân trọng truyền thống, di sản của cha ông. Hiện thực thời đại mới cho phép tác giả đánh giá đầy đủ, sâu rộng và chính xác hơn sự nghiệp sáng tác của một thiên tài. Như vậy, vấn đề tri âm còn là vấn đề thời đại với thời đại, lịch sử với lịch sử.

-  Tấm lòng tri âm của Tố Hữu với Nguyễn Du không chỉ là sự đồng cảm, sẻ chia mà còn là sự trân trọng, biết ơn, lòng cảm phục, ca ngợi. ["Tiếng thơ ai động đất trời ... Tiếng thương như tiếng mẹ ru tháng ngày"]. Tố Hữu đánh giá rất cao giá trị sáng tác Nguyễn Du, đặc biệt nhà thơ đã khẳng định sự trường tồn bất diệt của tác phẩm "Truyện Kiều" trong lịch sử văn học dân tộc.

-  Không chỉ thấu hiểu, sẽ chia với cuộc đời, ngợi ca thơ Nguyễn Du, Tố Hữu còn tìm cách lý giải nỗi đau của Nguyễn Du. Ông cho rằng nỗi đau ấy không phải do trời mà chính là do xã hội vạn ác thời nguyễn Du gây nên:

-  Tố Hữu sử dụng thành công thể lục bát nhẹ nhàng, đằm thắm, trang trọng; hình thức tập Kiều, lẩy Kiều để chuyển tải giọng điệu lạc quan, hào hứng say mê. 

c. Tiếng nói tri âm trong Đàn ghi ta của Lor –ca [Thanh Thảo]

-  Thanh Thảo từng tâm sự rằng, ông rất ngưỡng mộ Lor-ca, rằng cuộc đời và sáng tác của người nghệ sĩ tài năng này đã gây cho ông nhiều xúc cảm và ấn tượng.

Bài thơ “Đàn ghita của Lor-ca”  bày tỏ tấm lòng tri âm, ngưỡng vọng sâu sắc của Than Thảo tới Lor-ca.

-  Thanh Thảo tri âm sâu sắc với nguyện ước của Lor-ca: “khi tôi chết hãy chon tôi với cây đàn ‖. Khát vọng đó thể hiện một tình yêu Tổ quốc nồng nàn và cũng là tình yêu nghệ thuật say đắm của Lor-ca.

-  Thanh Thảo đã thấu hiểu và ngưỡng vọng sâu sắc chân dung và bản lĩnh người - thơ của Lor-ca. Một chiến sĩ yêu tự do và cái đẹp. Một nghệ sĩ du ca lãng tử, hào hoa có tâm hồn phóng khoáng, khao khát cách tân nghệ thuật, khao khát chế độ dân chủ song Lor ca rất cô đơn.

-  Thanh Thảo bày tỏ nỗi bi phẫn trước cái chết oan khuất của Lor caDưới bút thơ tài hoa của ông, tiếng đàn ghita đã vỡ ra thành hình, thành sắc để phục sinh cái chết oan khuất của người nghệ sĩ thiên tài .

-  Với tấc lòng xót thương và suy tư về cuộc giã từ của Lor-ca, Thanh Thảo khẳng đinh: Lor-ca là một tâm hồn bất diệt, một nghệ sĩ chân chính. Nhân cách và tài năng nghệ thuật của ông sẽ sống mãi với muôn đời. Nhà thơ cũng gửi tới người đọc một thông điệp đầy tiến bộ: cái đẹp của nhân cách con người, cái đẹp của sự sáng tạo nghệ thuật chân chính sẽ có sức sống bất diệt. Đây cũng là con đường mà Thanh Thảo hằng theo đuổi.

-  Với thơ tự do mang phong cách tượng trưng - siêu thực, sáng tạo hình ảnh thơ theo lối lạ hoá, tài hoa, xoá bỏ những liên từ trong thơ, bài thơ không dấu câu, khụng viết hoa đầu mỗi dòng thơ tạo nên cấu trú ngữ pháp độc đáo, nhịp bất thường, những từ mô phỏng âm thanh của các nốt ghi-ta [ li-la] được ―cấy‖ vào bài thơ một cách tự nhiên… tất cả làm nên một kiệt tác.

3. Đánh giá

-  Nhà văn sáng tạo không chỉ vì độc giả của hiện tại mà nhà văn thiên tài còn phải đáp ứng được những yêu cầu của mọi thời đại, mọi thế hệ. Nhà văn muốn tạo ra sự đồng cảm, tri âm với độc giả thì tác phầm của họ phải nói được những vấn đề bức xúc của thời đại, con người, những vấn đề mang tầm phổ quát; để rồi qua tác phẩm, người đọc không chỉ hiểu tác phẩm, hiểu nhà văn, mà còn hiểu thời đại nhà văn đang sống. Rộng hơn, độc giả còn so sánh được thời đại nhà văn sống và thời đại hiện tại của chính mình. Thời đại nào cũng thế, những khao khát tri âm luôn là mong ước cháy bỏng, mãnh liệt của con người.

-  Muốn vậy, nhà văn cần phải có một cái Tài, cái Tâm cao cả. Người nghệ sĩ luôn cần một tấm lòng sống và yêu hết mình với cuộc đời, con người. Và người đọc hãy sống hết mình với tác phẩm để hiểu được thông điệp thẩm mĩ của tác giả, để chia sẻ, cảm thông với tác giả và trở thành người ―đồng sáng tạo‖ với nhà thơ, nhà văn. 

-  Trong văn học nghệ thuật, tìm được kẻ tri âm không phải là dễ. Liệu Bá Nha có được mấy Chung Tử Kì? Thánh thơ Đỗ Phủ mà cũng phải trăn trở: “Bác niên ca tự khổ - Vị kiến hữu tri âm” [Cả đời nói lên nỗi khổ của mình – Chưa từng thấy tri âm]. Như vậy tiếng nói tri âm giữa người đọc và người viết là điều văn học dân tộc nào, thời đại nào cũng hướng tới. Chẳng vậy mà nhà văn Bùi Hiển cho rằng : ―Ở nước nào cũng thế thôi, sự cảm thông sẻ chia giữa người đọc và người viết là trên hết‖. 

 III. HỆ THỐNG ĐỀ ÔN LUYỆN VỀ NHÀ

Đề 1:

Phải chăng, khi đọc một văn bản văn học, người đọc đã thực hiện một quá trình kép: vừa sáng tạo ra tác phẩm vừa kiến tạo nên con người mình?

Đề 2:

   Nhà văn Bùi Hiển đã phát biểu khẳng định ý nghĩa đặc biệt của tiếng nói tri âm trong văn chương: Ở nước nào cũng thế thôi, sự cảm thông sẻ chia giữa người đọc và người viết là trên hết. [Báo văn nghệ số ra ngày 10-2-2001]

 Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du và Đàn ghi ta của Lor – ca của Thanh Thảo để làm rõ tiếng nói tri âm ở mỗi bài.

Đề 3:

Bằng tri thức và trải nghiệm văn học của mình, bạn hãy bình luận ý kiến sau của M.Gorki: Người tạo nên tác phẩm là tác giả nhưng người quyết định số phận của tác phẩm lại là độc giả.

Đề 4:

Bình luận ý kiến sau của Hoàng Đức Lương: 

Đến như văn thơ, thì lại là sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị ngon, không thể đem mắt tầm thường mà xem, miệng tầm thường mà nếm được.

Đề 5:

Bình luận ý kiến của Hoàng Đức Lương

 Đối với thơ văn, cổ nhân ví như khoái chá, ví như gấm vóc; khoái chá là vị rất ngon trên đời, gấm vóc là màu rất đẹp trên đời, phàm người có miệng, có mắt, ai cũng quý trọng mà không vứt bỏ khinh thường. 

Bằng tri thức và trải nghiệm văn học của mình, bạn hãy bình luận ý kiến trên.

Đề 6:

Lưu Hiệp xưa đã nhận thấy: Người khẳng khái nghe điệu hiên ngang mà gõ nhịp, người kín đáo thấy văn hàm súc liền đi theo, kẻ sáng ý thấy văn đẹp thì động lòng, kẻ chuộng lạ thấy chuyện khác thường thì mê đắm.

Bằng tri thức và trải nghiệm văn học của mình, bạn hãy bình luận ý kiến trên. 

Đề 7: 

Potevnia cho rằng: Chúng ta có thể hiểu được tác phẩm thi ca chừng nào chúng ta tham gia vào việc sáng tạo ra nó.

Bằng tri thức và trải nghiệm văn học của mình, bạn hãy bình luận ý kiến trên.

Đề 8:

Lưu Quý Kì đã viết: Nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ. Người đọc mở ra bỗng thấy tâm tình của chính mình.

Bằng tri thức và trải nghiệm văn học của mình, bạn hãy bình luận ý kiến trên.

Đề 9:

 Suy nghĩ của anh/chị về tâm sự sau của nhà thơ Xuân Diệu: Vâng, đáng lẽ làm xong tôi giữ lấy

Vui gì đâu mà đưa đẩy dương tranh Nhưng cũng lạ! Mối tình đau khổ ấy

Để riêng tây, như có chỗ không đành.

[Gửi hương]

Đề 10

Trong tiểu luận Tiếng nói của văn nghệ Nguyễn Đình Thi có viết:

     Một bài thơ hay không bao giờ ta đọc qua một lần mà bỏ xuống được. Ta sẽ dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi, và đọc lại bài thơ. Tất cả tâm hồn chúng ta đọc…

Qua một bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới, anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận định trên.

Đề 11

G. Lanson [1857 - 1934] trong Lời nói đầu cuốn Lịch sử văn học Pháp có tên Văn học không phải là đối tượng của nhận thức đã khẳng định: Văn học không phải là đối tượng để nhận thức: đó là sự thực hành, sự thưởng thức. Người ta không thể biết nó, không thể học nó, mà người ta thực hành nó, nuôi dưỡng và yêu mến nó.

Hãy bình luận ý kiến trên.

Đề 12

Việc đọc cũng quan trọng như là việc viết. [K. Marx]

Bằng tri thức và trải nghiệm văn học của mình, bạn hãy bình luận ý kiến trên.

Đề 13

 Từ xưa đến nay, văn học chân chính tồn tại là dựa vào tác lòng tri âm của người đọc.

Bằng tri thức và trải nghiệm văn học của mình, bạn hãy bình luận ý kiến trên.

KẾT LUẬN

Tái tạo lại hệ thống kiến thức lí luận về tiếp nhận và xây dựng hệ thống đề và đáp án cho kiểu đề nghị luận bàn về tiếp nhận văn học áp dụng ôn luyện cho học sinh giỏi quốc gia môn Ngữ văn lớp 12 THPT là một vấn đề có ý nghĩa thiết thực đối với công tác dạy học Ngữ văn nói chung và bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn nói riêng. Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của chúng tôi trong việc giúp học sinh ôn tập về mảng kiến thức tiếp nhận văn học. Chuyên đề chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp. 


Video liên quan

Chủ Đề