Vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế hiện nay

Loading Preview

Sorry, preview is currently unavailable. You can download the paper by clicking the button above.

Những khoảng trống này có thể không mang lại lợi nhuận cho các định chế tài chính tư nhân, nhưng cần thiết cho quá trình phát triển và thịnh vượng chung của tổng thể nền kinh tế, cả ở phạm vi quốc gia và toàn cầu. Hoặc cũng có thể do các dự án phát triển này đòi hỏi quy mô vốn quá lớn và thời gian hoàn vốn tương đối lâu, các định chế tài chính tư nhân riêng lẻ không sẵn sàng chấp nhận những rủi ro này cho nên đã không thực hiện, trong khi những cơ chế hợp tác giữa các định chế tư nhân chưa đủ mạnh để tham gia đồng tài trợ cho những dự án này. Rất nhiều dự án phát triển quy mô lớn đã mang lại những ảnh hưởng ngoại ứng tích cực cho xã hội, do vậy tỷ suất lợi tức xã hội lớn hơn tỷ suất lợi tức tư nhân. 

Kênh dẫn vốn cho các dự án phát triển dài hạn của đất nước

Các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, đã nhận thức ngày càng đầy đủ hơn tầm quan trọng của việc phát triển bền vững. Việc chuyển đổi mô hình kinh tế để hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững đòi hỏi một nguồn vốn đầu tư dài hạn khổng lồ, mà điều này tương đối khó có thể đáp ứng nếu chỉ thuần túy dựa trên các nguồn vốn khu vực tư nhân. 

Việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng, vào những lĩnh vực được lựa chọn mang tính chiến lược quốc gia mà chúng ta rất khó trông chờ vào những trái ngọt trong ngắn và trung hạn là điều rất cần thiết. Nó sẽ khắc phục được những điểm nghẽn trong tăng trưởng đang xuất hiện ngày càng nhiều trong những năm gần đây của nền kinh tế.

Ngân hàng Thế giới [WB], Ngân hàng Phát triển châu Á [ADB] cũng như Ngân hàng Phát triển ở các châu lục khác đã cung cấp một nguồn tín dụng rất lớn đến các quốc gia đang phát triển để thực hiện các mục tiêu phát triển dài hạn ở phạm vi quốc gia hay khu vực; song vẫn là không đủ cho nhu cầu về nguồn vốn của các quốc gia đang phát triển. Chính vì vậy, Ngân hàng Phát triển của từng quốc gia do Chính phủ thành lập và quản lý, thậm chí là cả Ngân hàng Phát triển thuần túy tư nhân như Ngân hàng Grameen ở Bangladesh đã lần lượt ra đời để đóng vai trò là kênh dẫn vốn cho các dự án phát triển dài hạn của đất nước. 

Phần lớn các ngân hàng phát triển quốc gia đều là các định chế quan trọng trong việc cung cấp nguồn tài chính cũng như hỗ trợ quốc gia chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Mức độ tham gia của các định chế tài chính này rất rộng, trong rất nhiều lĩnh vực từ các dự án cơ sở hạ tầng lớn tới việc hình thành và mở rộng các ngành công nghiệp nặng, và gần đây là hỗ trợ phát triển đổi mới sáng tạo, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ, tài trợ các dự án năng lượng sạch, và thậm chí còn mở rộng hoạt động ra cả các quốc gia khác. 

Các ngân hàng phát triển cũng đóng vai trò giúp ổn định kinh tế, vận hành theo hướng chống chu kỳ kinh tế… Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng phát triển đã chịu tác động rất nhiều từ quá trình tự do hóa tài chính, đặc biệt là sau những lần khủng hoảng tài chính toàn cầu và khu vực. Vai trò cung cấp nguồn tài chính dài hạn cho các dự án quy mô lớn của ngân hàng phát triển quốc gia mặc dù vẫn còn rất quan trọng nhưng cũng đã suy giảm đáng kể trong hai thập niên trở lại đây.

Ngân hàng Phát triển Việt Nam và vai trò trong thực hiện chính sách tín dụng của Nhà nước

Ngân hàng Phát triển Việt Nam [VDB] được thành lập theo Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg ngày 19/5/2006 trên cơ sở tổ chức lại Quỹ Hỗ trợ Phát triển [thành lập năm 1999] để thực hiện chính sách tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. 

Trong cả giai đoạn 2006-2020, số vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước tài trợ cho các dự án qua VDB chiếm 1,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và khoảng 0,5% GDP. Tuy nhiên, tỷ trọng và quy mô có xu hướng giảm. Cụ thể, năm 2015, số vốn được giải ngân là gần 26 nghìn tỷ đồng và dư nợ tín dụng đầu tư cuối năm khoảng 143 nghìn tỷ đồng, nhưng đến năm 2020, thì số vốn giải ngân là 872 tỷ đồng và dư nợ cuối năm là gần 92 nghìn tỷ đồng. 

Một số nguyên nhân chính dẫn tới việc thu hẹp vai trò hoạt động của VDB trong những năm gần đây có thể kể đến, như:

- Những thay đổi trong quy định về đối tượng được sử dụng vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước theo hướng thu hẹp; đồng thời các ưu đãi về điều kiện cho vay nguồn vốn này như lãi suất vay, tài sản bảo đảm đã bị giảm dần nên quy mô nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước qua VDB giảm. 

- Những khó khăn từ nguồn ngân sách Nhà nước cũng khiến Chính phủ không thể phân bổ đủ nguồn lực tài chính cho VDB hoạt động như kỳ vọng. 

- Thẩm quyền quyết định của VDB đối với các vấn đề phát sinh trong hoạt động tín dụng đầu tư như xác định kế hoạch tăng trưởng tín dụng và huy động vốn hằng năm... cũng bị hạn chế hơn so với thời gian trước. Cụ thể, quy mô cho vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thông qua Kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển được giao cho VDB hằng năm. Quy mô phát hành trái phiếu để huy động vốn phục vụ hoạt động tín dụng được quyết định thông qua hạn mức bảo lãnh của Chính phủ cấp cho VDB hằng năm. Lãi suất cho vay đối với các dự án được thực hiện theo lãi suất do Bộ Tài chính quyết định, việc cho vay vượt 70% tổng mức đầu tư của dự án phải được Thủ tướng Chính phủ quyết định. Các dự án có nhu cầu vay vốn quá 15 năm hoặc không đáp ứng đủ yêu cầu chung về bảo đảm tiền vay phải được Thủ tướng Chính phủ quyết định. Các biện pháp xử lý rủi ro vốn TDĐT của Nhà nước như khoanh nợ, xóa nợ gốc, xóa nợ lãi, bán nợ phải được quyết định bởi Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc Thủ tướng Chính phủ.

Để nâng cao hiệu quả hoạt động của VDB trong vai trò là định chế tài chính cung cấp nguồn tín dụng đầu tư và xuất khẩu của Nhà nước để đạt được các mục tiêu phát triển trong thời gian tới, nên có những cải cách theo hướng:

- Cần thiết lập mô hình quản trị của VDB theo hướng gia tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cơ chế thang đo đánh giá hiệu quả làm việc và cơ chế thu nhập tương xứng để thu hút được những người có năng lực tham gia quản trị và thúc đẩy khả năng sáng tạo của họ. Mô hình quản trị nên tiệm cận với các mô hình quản trị của ngân hàng khu vực tư nhân.

- Cần hoàn thiện lại hệ thống pháp lý, các quy định về trình tự thủ tục, chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước... để bảo đảm sự nhất quán giữa hai hệ thống Luật Ngân sách Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng, tránh cho những người chịu trách nhiệm ra quyết định của VDB ở tình huống không biết phải làm gì cho đúng luật. Đồng thời, cũng tránh tình trạng hình sự hóa các quyết định quản lý kinh tế bởi nó sẽ triệt tiêu năng lực sáng tạo và dám chấp nhận mạo hiểm của đội ngũ quản lý.

- Ngân hàng Phát triển Việt Nam cần sớm tham gia vào hệ thống xếp hạng tín dụng theo chuẩn mực quốc tế để làm cơ sở đánh giá mức độ an toàn trong hoạt động cho vay và có những điều chỉnh kịp thời nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của bản thân ngân hàng, đồng thời cũng góp phần tạo ra sự phát triển ổn định, tránh tình trạng tăng trưởng tín dụng quá nóng dẫn tới nhiều dự án kém hiệu quả được thực hiện và gây ra gánh nặng ngân sách nhà nước cũng như bất ổn kinh tế vĩ mô khi các dự án này thất bại.

- Ngân hàng Phát triển Việt Nam cần cải thiện dần mức độ tín nhiệm của mình để nâng cao khả năng huy động vốn từ những nguồn vốn khác, đặc biệt là sự tham gia của các tổ chức tài chính tư nhân trong và ngoài nước, thay vì chỉ trông cậy vào ngân sách nhà nước. Để đạt mục tiêu này, trước tiên Nhà nước cần tìm cách hỗ trợ VDB xử lý dứt điểm các khoản cho vay trước đây, đặc biệt là những khoản nợ xấu và các khoản cho vay dở dang để bảo đảm tính hiệu quả của dự án được tài trợ cũng như minh bạch và lành mạnh hóa bảng cân đối của ngân hàng. Một nguyên tắc không thể khác trong hoạt động ngân hàng là tính an toàn, khả năng bảo toàn vốn để bảo đảm trước tiên là sự tồn tại của ngân hàng, và VDB cũng cần tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc này. Do đó, việc cho vay các dự án cần được thẩm định một cách nghiêm ngặt, số lượng dự án và quy mô cho vay mỗi dự án cần phải nằm trong tầm kiểm soát để bảo đảm sự an toàn, tránh gây ra những tổn thất lớn.

- Các lĩnh vực cho vay của VDB nên được tham khảo theo các lĩnh vực cho vay của các ngân hàng phát triển thế giới và khu vực như Ngân hàng Thế giới hay Ngân hàng Phát triển châu Á bởi đó là những lĩnh vực đã được các chuyên gia quốc tế kiểm chứng và đánh giá là mang lại hiệu quả cao cho sự phát triển bền vững và bao trùm của nền kinh tế.

Việc cải cách VDB là điều hết sức cần thiết để tránh lặp lại sai lầm trong những năm trước đây của nhiều ngân hàng phát triển ở các quốc gia khác. Đây là những bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam tham khảo trong việc tổ chức hoạt động VDB trong những năm tiếp theo. Định hướng cơ bản của quá trình cải cách này là hướng tới việc thực thi các nguyên tắc thị trường, tôn trọng các nguyên tắc hoạt động căn bản của một ngân hàng, dù cho đó là ngân hàng phát triển, để trước tiên bảo đảm sự tồn tại của ngân hàng, và sau đó là tiếp tục phát triển nó một cách bền vững để đóng góp vào sự phát triển bền vững chung của cả nền kinh tế.

PGS,TS HỒ ĐÌNH BẢOTS NGUYỄN VIỆT HƯNG
Khoa Kinh tế học - Trường đại học Kinh tế quốc dân

Bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Lễ kỷ niệm 70 năm thành lập Ngân hàng quốc gia Việt Nam, nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

  • Phát huy tốt vai trò huyết mạch của nền kinh tế

Thưa các vị đại biểu, các vị khách quý,

Thưa các đồng chí,

Hôm nay, trong không khí toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức phấn đấu, nỗ lực triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; tích cực chuẩn bị cho cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026; kỷ niệm 46 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, tôi rất vui mừng đến dự Lễ kỷ niệm 70 năm thành lập Ngân hàng quốc gia Việt Nam, nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - một ngành kinh tế có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, là huyết mạch của nền kinh tế. Trước hết, tôi xin được thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, thân ái gửi tới các vị đại biểu, các vị khách quý, các đồng chí, và qua các đồng chí đến toàn thể anh chị em cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ngành Ngân hàng cả nước qua các thời kỳ lời chào thân ái, lời thăm hỏi chân tình và lời chúc mừng tốt đẹp nhất.

Qua những thước phim tư liệu và bài Diễn văn quan trọng của đồng chí Thống đốc Ngân hàng Nhà nước vừa rồi, chúng ta phần nào đã thấy được lịch sử phát triển vẻ vang, truyền thống anh hùng và sự đóng góp to lớn của ngành Ngân hàng Việt Nam đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng, phát triển đất nước ta.

Trải qua 70 năm kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15/SL, ngày 6/5/1951 thành lập Ngân hàng quốc gia Việt Nam, các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của ngành Ngân hàng đã luôn luôn cố gắng, nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, không quản ngại gian khổ, hy sinh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ vững chắc nền tiền tệ độc lập, tự chủ của quốc gia, thực hiện tốt sứ mệnh cung cấp nguồn lực tài chính, tín dụng, dịch vụ ngân hàng phục vụ sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và sự nghiệp đổi mới, hội nhập, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển đất nước nhanh và bền vững, góp phần quan trọng cùng với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân làm nên cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước ta như ngày nay. Nổi bật là:

- Trong suốt chặng đường 24 năm [1951 - 1975] đầy gian khổ, cam go tham gia, phục vụ hai cuộc kháng chiến vĩ đại giành độc lập của dân tộc, các thế hệ cán bộ ngân hàng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tập trung mọi nguồn lực phục vụ sản xuất, chiến đấu, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chi viện cho chiến trường miền Nam, viết nên "Huyền thoại con đường tiền tệ", đóng góp vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Trong giai đoạn gian khổ, khó khăn, khốc liệt này, hàng trăm cán bộ Ngân hàng đã trực tiếp lên đường chiến đấu và không ít đồng chí đã anh dũng hy sinh; nhiều cán bộ đã hăng hái lên đường sang giúp các nước bạn Lào và Campuchia anh em trong giai đoạn 1968 - 1975.

Những hy sinh, đóng góp to lớn của các thế hệ cán bộ Ngân hàng trong chiến tranh đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận bằng nhiều phần thưởng cao quý. Các tổ chức tiền tệ đặc biệt của ngành Ngân hàng phục vụ kháng chiến [N2683, B29 và C32] đã vinh dự được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

- Sau khi đất nước được thống nhất, ngành Ngân hàng đã luôn luôn phát huy tốt vai trò là hệ thống huyết mạch cung cấp vốn tín dụng cho nền kinh tế quốc dân, có nhiều đóng góp quan trọng vào việc khắc phục hậu quả chiến tranh, huy động và phân bổ nguồn lực tài chính để khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong suốt quá trình 35 năm đổi mới, ngành Ngân hàng đã luôn chú trọng xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, chuyển đổi từng bước vững chắc từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hai cấp, ngày càng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; từng bước phát triển lớn mạnh, tách bạch rõ ràng chức năng quản lý, điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước với chức năng cung ứng vốn tín dụng, dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm ngày càng phù hợp hơn với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò huyết mạch của nền kinh tế.

Ngân hàng Nhà nước đã ban hành và triển khai thực hiện nhiều chính sách, biện pháp sáng tạo, có tính khả thi cao để quản lý, vận hành có hiệu quả thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng an toàn, ổn định, góp phần quan trọng vào việc kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước. Hệ thống các tổ chức tín dụng phát triển ngày càng đa dạng về loại hình, không ngừng lớn mạnh về quy mô vốn và tài sản; từng bước đổi mới, áp dụng mô hình quản trị tiên tiến, hiện đại, tiệm cận với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, thực hiện ngày càng tốt hơn, hiệu quả hơn vai trò huy động và cung ứng vốn tín dụng, dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế.

- Trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, đất nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn, nhất là tình trạng bất ổn vĩ mô đầu nhiệm kỳ khoá XI và suy thoái kinh tế thế giới do tác động của đại dịch COVID-19 cuối nhiệm kỳ khoá XII, đến nay vẫn đang diễn biến hết sức phức tạp, chưa rõ hồi kết. Trong bối cảnh đó, ngành Ngân hàng đã không ngừng nỗ lực phấn đấu, thực hiện có hiệu quả nhiều chính sách, biện pháp phù hợp với thực tế tình hình, đạt được nhiều kết quả rất quan trọng: Điều hành chủ động, linh hoạt hơn các công cụ chính sách tiền tệ, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các nhu cầu thanh khoản, ổn định và thông suốt các thị trường tiền tệ, ngoại hối, giảm mặt bằng lãi suất thị trường, cung cấp đầy đủ, kịp thời nguồn vốn tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ phục hồi nền kinh tế sau đại dịch...

Với tất cả những thành tích nêu trên, ngành Ngân hàng đã vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng [năm 2006]; ba lần Huân chương Hồ Chí Minh vào các năm 1996, 2011, 2016; và nhiều phần thưởng cao quý khác. Nhân dịp kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập ngành Ngân hàng, hôm nay các đồng chí lại vinh dự được nhận Huân chương Lao động hạng Nhất vì đã có những thành tích xuất sắc trong công tác từ năm 2016 đến năm 2020.

Thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tôi xin nhiệt liệt chúc mừng, cảm ơn và biểu dương những thành tích đã đạt được, những đóng góp to lớn và sự nỗ lực phấn đấu của các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động toàn ngành Ngân hàng trong suốt 70 năm qua.

Thưa các vị đại biểu và các đồng chí,

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định: Phấn đấu đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, nước ta "Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp"; đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, nước ta trở thành "nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao"; và đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước, nước ta sẽ "trở thành một nước phát triển, có thu nhập cao".

 Để thực hiện được những mục tiêu, nhiệm vụ vẻ vang, cao cả nhưng cũng rất nặng nề đó, toàn hệ thống chính trị và toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trong đó có ngành Ngân hàng với vai trò là huyết mạch của nền kinh tế, cần phải tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; nỗ lực phấn đấu, phát huy thật tốt những kết quả và bài học kinh nghiệm thành công cũng như chưa thành công đã đúc rút được; nghiêm túc, quyết liệt khắc phục bằng được những hạn chế, yếu kém còn tồn đọng để nắm bắt thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn nữa trong thời kỳ mới.

Trong những năm tới, dự báo tình hình thế giới và khu vực sẽ còn tiếp tục có nhiều thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường. Do tác động của đại dịch COVID-19, thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng nhiều mặt. Kinh tế thế giới và thương mại toàn cầu gặp nhiều khó khăn. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, mang lại cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia.

Trong khi đó, dù đạt được những thành tựu rất quan trọng, đáng tự hào, nhưng đất nước ta, trong đó có ngành Ngân hàng, vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và còn không ít những hạn chế, yếu kém cần sớm được khắc phục. Sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang chuyển sang giai đoạn phát triển mới, ngày càng đi vào chiều sâu với yêu cầu cao hơn; nặng nề, khó khăn, phức tạp hơn so với trước. Vì vậy, tôi đề nghị, trong thời gian tới, ngành Ngân hàng cần tiếp tục phát huy những thành quả lớn lao mà các thế hệ đi trước đã để lại, nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức đạo đức nghề nghiệp, nỗ lực đổi mới mạnh mẽ tư duy để tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức; khắc phục các tồn tại, hạn chế, bất cập; phấn đấu nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước và bảo đảm an ninh, an toàn, hiệu quả hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng, thực hiện ngày càng tốt hơn nhiệm vụ kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và huy động, đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng, dịch vụ ngân hàng cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhân dịp này, tôi xin lưu ý, nhấn mạnh thêm một số vấn đề, mong được các đồng chí quan tâm:

Một là, ngành Ngân hàng và toàn thể cán bộ, đảng viên, nhân viên trong Ngành cần nghiêm túc quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện thật tốt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, nhất là các chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội nói chung và về đổi mới, phát triển ngành Ngân hàng nói riêng. Đặc biệt chú ý "Tiếp tục điều hành đồng bộ, linh hoạt các chính sách vĩ mô. Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng, phối hợp hài hoà với các chính sách khác nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững, ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối" [Văn kiện Đại hội XIII, tập 2, trang 100].

Hai là, nhận thức đầy đủ, đúng đắn và sâu sắc hơn nữa vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của ngành Ngân hàng: Là kênh cung cấp vốn trọng yếu, huyết mạch của nền kinh tế; rất phức tạp, nhạy cảm; có tác động lớn đến ổn định kinh tế vĩ mô cũng như an ninh kinh tế, trật tự, an toàn xã hội. Từ đó, tập trung ưu tiên xây dựng và triển khai thực hiện thật tốt chiến lược, kế hoạch, các chương trình hành động và các mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm cụ thể, có tính khả thi cao, phù hợp với mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đến năm 2025, 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.

Ba là, tiền tệ, ngân hàng là một lĩnh vực rất quan trọng và cũng rất nhạy cảm, có tính hệ thống và ảnh hưởng lớn đến ổn định kinh tế vĩ mô. Vì vậy, các đồng chí cần đặc biệt quan tâm đến công tác đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách và công tác cán bộ để vừa nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước và nâng cao hiệu quả, bảo đảm chất lượng, an toàn hoạt động của toàn hệ thống; vừa nâng cao ý thức trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp, ý thức chấp hành pháp luật của người cán bộ ngân hàng để ngăn ngừa rủi ro, vi phạm trong hoạt động ngân hàng.

Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh việc rà soát, cập nhật, hoàn chỉnh và triển khai thực hiện Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu. Các tổ chức tín dụng phải không ngừng nỗ lực củng cố, chấn chỉnh và phấn đấu vươn lên, bắt kịp với xu hướng phát triển mới trong khu vực và trên thế giới, phấn đấu trở thành các tổ chức tín dụng ngang tầm khu vực và từng bước vươn ra thế giới.

Năm là, ngành Ngân hàng, đặc biệt là Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng nhà nước, cần làm tốt hơn nữa công tác xây dựng Đảng và kiện toàn bộ máy tổ chức, cán bộ thật sự trong sạch, vững mạnh, có đủ bản lĩnh, trí tuệ, phẩm chất chính trị và trình độ chuyên môn vững vàng, luôn đi đầu trong công cuộc đổi mới, phát triển của Ngành, của đất nước. Sớm nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích và bảo vệ những tổ chức và cá nhân dám đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Các đề xuất đổi mới phải được cấp uỷ, chính quyền bàn bạc, xem xét kỹ lưỡng, cho làm thí điểm theo thẩm quyền; cái gì đổi mới đúng thì phải được bảo vệ, tiếp tục triển khai; cái gì chưa đúng thì phải kịp thời chấn chỉnh, sửa chữa, rút kinh nghiệm. Tuyệt đối không chủ quan, tự mãn.

Tôi tin tưởng rằng, với truyền thống tốt đẹp, vẻ vang và với nhiệt huyết, quyết tâm đổi mới, bản lĩnh chính trị vững vàng cùng sự năng động, sáng tạo, trong thời gian tới ngành Ngân hàng Việt Nam nhất định sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, tiếp tục viết nên những trang sử mới hào hùng, góp phần quan trọng đưa Việt Nam ngày càng phát triển vững mạnh, xứng đáng với niềm tin, trọng trách mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Chúc ngành Ngân hàng Việt Nam tiếp tục đạt được những thành tựu mới, có bước trưởng thành mới, mạnh mẽ hơn nữa, vững chắc hơn nữa, hiệu quả cao hơn nữa, tiếp tục đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước thân yêu của chúng ta ngày càng thịnh vượng, hùng cường, đi lên chủ nghĩa xã hội, như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta và cũng là khát vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam ta.

Chúc các đồng chí và quý vị đại biểu mạnh khoẻ, hạnh phúc và thành công.

Xin trân trọng cảm ơn.

[*] Đầu đề do Báo CAND đặt.

Báo CAND

Video liên quan

Chủ Đề