Vì sao Hoa Kì có nền kinh tế phát triển mạnh nhất the giới nhưng vẫn là nước nhập siêu

Giải thích vì sao nền kinh tế Hoa Kỳ nhập siêu nhưng Hoa Kỳ vẫn là cương quốc kinh tế số 1 thế giới?!

Share

Xem

Đề thi thử HSG 11 môn địa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [160.46 KB, 6 trang ]

KỲ THI THỬ CHỌN HSG LỚP 11 THPT NĂM HỌC 2012 - 2013
ĐỀ THI MÔN: ĐỊA LÍ 11
Dành cho học sinh các trường THPT không chuyên
Thời gian: 180 phút, không kể thời gian giao đề
Đề thi gồm 01 trang.
Câu 1 [2,5 điểm]
a. Nêu các thành tựu công nghệ chủ chốt của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại diễn ra vào cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI?
b. Nguyên nhân làm cho kinh tế các nước Mĩ La Tinh phát triển không ổn định? Theo em
để phát triển vững chắc kinh tế ở các khu vực Châu Phi, các nước Mĩ La Tinh, Tây Nam Á
và Trung Á, cần khai thác, sử dụng tài nguyên và lao động như thế nào?
Câu 2 [2,5 điểm]
a. Những khác biệt trong phân bố dân cư giữa miền Đông và miền Tây Trung Quốc? Tại
sao lại có sự khác biệt đó?
b. Hãy phân tích nội dung và lợi ích của việc thành lập thị trường chung châu Âu?
Câu 3 [2,0 điểm]
a. Tại sao gần đây Hoa Kì luôn nhập siêu? Điều ấy có mâu thuẫn gì với nền kinh tế hàng
đầu thế giới không?
b. Nguyên nhân sự phát triển kinh tế của Nga từ năm 2000?
c. Tại sao Nhật Bản mưa nhiều?
d. Vì sao Trung Quốc coi hiện đại hóa công nghiệp là nhiệm vụ hàng đầu?
Câu 4 [3,0 điểm]
Cho bảng số liệu:
GDP của Trung Quốc, Hoa Kì và thế giới, giai đoạn 1995 - 2004
[Đơn vị:tỉ USD]
Năm 1995 1997 2001 2004
Trung Quốc 697,6 902,0 1159,0 1649,3
Hoa Kì 6954,8 7834,0 10171,4 11667,5
Thế Giới 29357,4 29795,7 31283,8 40887,8
a. Tính tỉ trọng GDP của Trung Quốc và Hoa Kì với GDP thế giới.
b. Hãy vẽ biểu đồ thích hợp nhất thể hiện tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc, Hoa Kì


và thế giới.
c. Dựa vào biểu đồ và bảng số liệu hãy rút ra nhận xét và giải thích cần thiết.
Hết
[Thí sinh được sử dụng Átlat địa lí Việt Nam, cán bộ coi thi không giải thích gì thêm]
Họ và tên:……………………………………………Số báo danh:…………………………
ĐÁP ÁN ĐỀ THI THỬ CHỌN HSG LỚP 11 THPT NĂM HỌC 2012 - 2013
MÔN: ĐỊA LÍ 11
Dành cho học sinh các trường THPT không chuyên
Thời gian: 180 phút, không kể thời gian giao đề
Câu Ý Nội Dung Điểm
1
a
Các thành tựu công nghệ chủ chốt của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại diễn ra vào cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ
XXI:
- Công nghệ vật liệu: tạo ra những vật liệu chuyên dùng mới với
những tính năng đáp ứng yêu cầu của con người trong sản xuất và
đời sống như vật liệu composit, vật liệu siêu dẫn, gốm tổng hợp,
sợi thủy tinh…
- Công nghệ năng lượng: tăng cường sử dụng các dạng năng
lượng: hạt nhân, mặt trời, gió, thủy triều, địa nhiệt, sinh học…
Giảm tình trạng ô nhiễm môi trường.
- Công nghệ sinh học: Dựa trên cơ sở những khám phá trong lĩnh
vực sinh vật học, di truyền học, gồm công nghệ vi sinh, kĩ thuật
gen, kĩ thuật nuôi cấy tế bào…từ đó tạo ra bước tiến mới trong
nông nghiệp [với các giống mới], trong chuẩn đoán và điều trị
bệnh…
- Công nghệ điện tử và tin học: Tạo các vi mạch, chip điện tử có
tốc độ cao, kĩ thuật số hóa, truyền thông đa phương tiện…chi phối
toàn bộ những phương tiện kĩ thuật hiện đại trong sản xuất, thông


tin…
1,0 đ
0,25
0,25
0,25
0,25
b Nguyên nhân làm cho kinh tế các nước Mĩ La Tinh phát triển
không ổn định? Theo em để phát triển vững chắc kinh tế ở các
khu vực Châu Phi, các nước Mĩ La Tinh, Tây Nam Á và Trung
Á, cần khai thác, sử dụng tài nguyên và lao động như thế nào?
* Nguyên nhân làm cho kinh tế các nước Mĩ La Tinh phát triển
không ổn định:
- Thu nhập giữa người giàu và người nghèo chênh lệch rất lớn.
- Cuộc cải cách ruộng đất không triệt đã tạo điều kiện cho các chủ
trang trại chiếm giữ phần lớn đất canh tác, dân nghèo không có đất
canh tác kéo ra thành phố kiếm sống, dẫn đến hiện tượng đô thị
hóa tự phát.
- Tình hình chính trị không ổn định.
- Chưa xây dựng được đường lối phát triển kinh tế - xã hội độc lập,
tự chủ, phụ thuộc vào tư bản nước ngoài.
1,5 đ
0,25
0,25
0,25
0,25
* Để phát triển kinh tế vững chắc ở các khu vực Châu Phi, Mĩ
La Tinh, Tây Nam Á và Trung Á, cần khai thác và sử dụng hợp
lí tài nguyên và lao động:
- Khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên: tiết kiệm, hợp lí, tăng
cường chế biến trước khi xuất khẩu…


- Trong sử dụng lao động: Nâng cao dân trí, đào tạo nghề, phân bố
hợp lí dân cư và lao động, phát triển các ngành sử dụng nhiều lao
động…
0,25
0,25
2
a
Những khác biệt trong phân bố dân cư giữa miền Đông và
miền Tây Trung Quốc? Tại sao lại có sự khác biệt đó?
* Những khác biệt trong phân bố dân cư giữa miền Đông và
miền Tây Trung Quốc:
- Miền Đông: đông đúc, mật độ dân số cao, có nhiều thành phố
đông dân trên 5 triệu người như Thượng Hải, Bắc Kinh, Thiên Tân,
Trùng Khánh, Vũ Hán, Quảng Châu…Chủ yếu là các dân tộc đa số
như người Hán.
- Miền Tây: số lượng ít, thưa thớt, mật độ dân số thấp, ít thành phố,
sống rải rác theo các thung lũng bồn địa…Chủ yếu là các dân tộc
thiểu số.
* Sự khác biệt trọng phân bố dân cư giữa miền Đông và miền
Tây là do:
- Điều kiện tự nhiên giữa hai miền có sự khác biệt: Miền Đông có
nhiều thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt hơn [Khí hậu cận nhiệt và
ôn đới gió mùa, đất đai màu mỡ, nguồn nước dồi dào…], miền Tây
khí hậu khắc nghiệt, nằm sâu trong lục địa…
- Điều kiện kinh tế - xã hội cũng có sự khác biệt: Trong khi ở miền
Đông kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng tốt, giao thông vận tải thuận
tiện…còn miền Tây thì ngược lại. Đồng thời miền Đông có lịch sử
khai thác lâu đời, là cái nôi của nền văn minh cổ đại.
1,0 đ
0,25


0,25
0,25
0,25
b Hãy phân tích nội dung và lợi ích của việc thành lập thị trường
chung châu Âu?
* Nội dung của việc thành lập thị trường chung Châu Âu:
- Tự do di chuyển: mọi công dân trong EU đều có quyền tự do đi
lại, tự do cư trú, tự do chọn nơi làm việc.
- Tự do lưu thông dịch vụ: các dịch vụ như dịch vụ vận tải, thông
tin liên lạc, ngân hàng, kiểm toán, du lịch…được tự do hoạt động
trong các nước EU.
1,5 đ
0,25
0,25
0,25
- Tự do lưu thông hàng hóa: các sản phẩm sản xuất hợp pháp của
một nước thuộc EU được tự do lưu thông và bán trong toàn thị
trường chung châu Âu mà không phải chịu thuế giá trị gia tăng.
- Tự do lưu thông tiền vốn: các hạn chế đối với giao dịch thanh
toán bị bãi bỏ, các nhà đầu tư có thể lựa chọn khả năng đầu tư có
lợi nhất và mở tài khoản tại các ngân hàng trong EU.
* Lợi ích của việc thành lập thị trường chung Châu Âu:
- Xóa bỏ những trở ngại trong phát triển kinh tế trên cơ sở thực
hiện bốn mặt tự do lưu thông.
- Thực hiện chung một số chính sách thương mại với các nước
ngoài EU. Tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng cạnh tranh
của EU với các trung tâm kinh tế trên thế giới.
0,25
0,25
0,25


3
a
Tại sao gần đây Hoa Kì luôn nhập siêu? Điều ấy có mâu thuẫn
gì với nền kinh tế hàng đầu thế giới không?
Gần đây Hoa Kì luôn nhập siêu vì: Hoa Kì đang chủ yếu đầu tư sản
xuất và mở các công ti ở nước ngoài để tận dụng nguồn tài nguyên
và nhân công giá rẻ ở các nước đó. Các công ti của Hoa Kì ở nước
ngoài sau khi sản xuất sẽ cung cấp lại hàng hóa cho Hoa Kì nhưng
vẫn ở dưới dạng hàng hóa xuất khẩu.
Chính vì vậy mặc dù Hoa kì phải nhập khẩu hàng hóa từ nước
ngoài nhưng thực chất phần lớn là hàng hóa của Hoa Kì. Như vậy,
việc Hoa Kì nhập siêu không có gì mâu thuẫn với nền kinh tế đang
đứng ở vị trí hàng đầu thế giới.
0,5 đ
0,25
0,25
b
Nguyên nhân sự phát triển kinh tế của Nga từ năm 2000?
Năm 2000 Liên bang Nga bắt đầu vào thời kì mới với những quyết
sách đúng đắn, năng động: Đưa nền kinh tế từng bước thoát khỏi
khủng hoảng, tiếp tục xây dựng nền kinh tế thị trường, mở rộng
ngoại giao, coi trọng Châu Á, ổn định đồng Rúp, kiềm chế lạm
phát, nâng cao đời sống nhân dân…
0,5 đ
c
Tại sao Nhật Bản mưa nhiều?
Nhật Bản mưa nhiều vì là đất nước quần đảo, bốn mặt giáp biển, có
dòng biển nóng cưrôsivô và hoạt động mạnh mẽ của gió mùa bị
chặn lại bởi địa hình núi…
0,5 đ


d Trung Quốc coi hiện đại hóa công nghiệp là nhiệm vụ hàng đầu
vì:
- Trung Quốc có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển công
nghiệp: tài nguyên phong phú và đa dạng, nguồn lao động dồi dào,
giá rẻ.
0,5 đ
0,25
0,25
- Công nghiệp phát triển chưa đều, chậm tiến, công nghiệp là động
lực để thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển.
4
a
Tính tỉ trọng GDP của Trung Quốc và Hoa Kì với GDP thế
giới.
[Đơn vị: %]
Năm 1995 1997 2001 2004
Trung Quốc 2,4 3,0 3,7 4,0
Hoa Kì 23,7 26,3 32,5 28,5
Thế giới 100 100 100 100
0,25 đ
b
Vẽ biểu đồ thích hợp nhất thể hiện tốc độ tăng trưởng GDP của
Trung Quốc, Hoa Kì và thế giới.
- Xử lí số liệu [Đơn vị: %]:
Năm 1995 1997 2001 2004
Trung Quốc 100 129,3 166,1 236,4
Hoa Kì 100 112,6 146,3 167,8
Thế giới 100 101,5 106,6 139,3
- Biểu đồ thích hợp nhất là biểu đồ đường [với 3 đường biểu diễn].
- Yêu cầu: rõ ràng, chính xác, đúng khoảng cách năm, ghi đầy đủ


các đơn vị, số liệu, chú thích, tên biểu đồ…
[Thí sinh vẽ biểu đồ khác không cho điểm, thiếu mỗi yếu tố trừ
0,25 điểm].
1,25 đ
0,25
1,0
c Nhận xét và giải thích.
* Nhận xét:
- Giá trị GDP của hai nước và thế giới đều tăng qua các năm từ
năm 1995 – 2004 [DC].
- Tốc độ tăng trưởng GDP không đều giữa Trung Quốc, Hoa Kì và
thế giới. Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng GDP nhanh hơn Hoa
Kì và cả hai đều có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn mức tăng chung
của thế giới [DC].
- Tỉ trọng của GDP của hai nước so với thế giới cũng có sự chênh
lệch lớn:
+ Trung Quốc chiếm tỉ trọng GDP nhỏ so với thế giới nhưng đang
có xu hướng tăng [DC].
+ Hoa Kì có tỉ trọng rất lớn so với thế giới, nhưng có sự biến động
qua các năm: tăng từ 23,7% năm 1995 lên 32,5% năm 2001 [tăng
8,8%], nhưng từ năm 2001 đến 2004 giảm 4,0% xuống còn 28,5%
năm 2004.
* Giải thích:
- Trung Quốc là nước đang phát triển, xuất phát điểm thấp nên tỉ
1,5 đ
0,25
0,25
0,25
0,25
trọng GDP của Trung Quốc nhỏ so với GDP thế giới. Gần đây


Trung Quốc tiến hành công nghiệp hóa, cải tiến công nghệ, điều
chỉnh chính sách phù hợp với nền kinh tế thị trường nên có tốc độ
tăng trưởng GDP rất nhanh.
- Hoa Kì là nước phát triển hàng đầu thế giới, xuất phát điểm cao
nên tỉ trọng GDP của Hoa Kì lớn so với GDP thế giới. Nhưng gần
đây, Hoa Kì chậm cải tiến công nghệ, bị cạnh tranh bởi các nước tư
bản khác, chi phí nhiều cho quân sự, lâm vào khủng hoảng tài
chính nên tỉ trọng GDP có xu hướng giảm.
0,25
0,25
____________________________________Hết___________________________

Mục lục

  • 1 Lịch sử
    • 1.1 Thời kỳ thuộc địa và thế kỷ 18
    • 1.2 Thế kỷ 19
    • 1.3 Thế kỷ 20
    • 1.4 Đầu thế kỷ 21
  • 2 Dữ liệu
  • 3 GDP
    • 3.1 Tăng trưởng GDP
  • 4 GDP phân theo ngành
    • 4.1 Tỷ trọng GDP danh nghĩa
  • 5 Lao động
    • 5.1 Thất nghiệp
    • 5.2 Lao động chia theo khu vực
  • 6 Thu nhập và tài sản
    • 6.1 Các thước đo về thu nhập
    • 6.2 Sự bất bình đẳng trong thu nhập
    • 6.3 Giá trị ròng của hộ gia đình và bất bình đẳng giàu nghèo
    • 6.4 Sở hữu nhà ở
    • 6.5 Lợi nhuận và tiền lương [tiền công]
    • 6.6 Nghèo khó
  • 7 Hệ thống chăm sóc sức khoẻ
  • 8 Các ngành kinh tế
  • 9 Năng lượng, vận tải và viễn thông
  • 10 Thương mại quốc tế
  • 11 Tình trạng tài chính
  • 12 Tiền tệ và ngân hàng trung ương
  • 13 Luật pháp và chính phủ
    • 13.1 Quy định pháp lý
    • 13.2 Thuế
    • 13.3 Chi tiêu
    • 13.4 Ngân sách
  • 14 Văn hoá kinh doanh
  • 15 Dịch chuyển về dân số
  • 16 Kinh doanh
  • 17 Đầu tư mạo hiểm
  • 18 Hợp nhất và sáp nhập
  • 19 Nghiên cứu và Phát triển
    • 19.1 Tác động của suy thoái vào chi tiêu nghiên cứu
    • 19.2 Chi tiêu vào nghiên cứu của các công ty, tổ chức
    • 19.3 Chi tiêu vào nghiên cứu ở cấp độ bang
    • 19.4 Chi tiêu vào nghiên cứu của các tập đoàn đa quốc gia
    • 19.5 Xuất khẩu hàng hoá công nghệ cao và bằng sáng chế
  • 20 Những tập đoàn và thị trường danh tiếng
    • 20.1 Danh sách 10 tập đoàn lớn nhất Hoa Kỳ tính theo doanh thu
  • 21 Tài chính
  • 22 Số liệu thống kê
    • 22.1 GDP
    • 22.2 Lao động
    • 22.3 Sản xuất
    • 22.4 Tài sản và thu nhập
    • 22.5 Năng suất lao động
    • 22.6 Bất bình đẳng
    • 22.7 Chi tiêu y tế
    • 22.8 Thuế quan
    • 22.9 Cán cân thương mại
    • 22.10 Lạm phát
    • 22.11 Thuế liên bang
    • 22.12 Chi tiêu chính phủ
    • 22.13 Nợ công
    • 22.14 Thâm hụt ngân sách
  • 23 List of state economies
  • 24 Tham khảo

Lịch sửSửa đổi

Bài chi tiết: Lịch sử Hoa Kỳ

Thời kỳ thuộc địa và thế kỷ 18Sửa đổi

Lịch sử kinh tế Hoa Kỳ bắt đầu từ giai đoạn di dân và định cư của người Anh dọc trên bờ biển phía đông nước Mỹ ngày nay trong thế kỷ 17 và 18. Cuộc di dân và định cư này hình thành nên các thuộc địa của Anh ở Mỹ hay còn được gọi là Mười ba thuộc địa, các thuộc địa này đã dành được độc lập từ tay Đế quốc Anh vào cuối thế kỷ 18 và nhanh chóng phát triển từ nền kinh tế thuộc địa sang nền kinh tế tập trung vào sản xuất nông nghiệp.

Thế kỷ 19Sửa đổi

Công ty sản xuất và chế tạo Washburn và Moen ở Worcester, Massachusetts, 1876

Trong 180 năm, nền kinh tế Mỹ đã phát triển thành một nền kinh tế công nghiệp hoá hợp nhất với quy mô khổng lồ, chiếm tới một phần năm sản lượng nền kinh tế toàn cầu. Kết quả là mức thu nhập GDP bình quân đầu người trước kia thấp hơn nay đã vượt qua Anh Quốc cũng như các quốc gia khác. Nhờ chính sách duy trì mức trả tiền công rất cao giúp nền kinh tế thu hút được hàng triệu người nhập cư từ khắp nơi trên thế giới.

Trong những thập niên đầu 1800, nước Mỹ chủ yếu canh tác nông nghiệp với hơn 80% dân số làm nông. Hầu hết các lĩnh vực sản xuất mới ở giai đoạn đầu của sơ chế nguyên liệu thô với các sản phẩm từ gỗ, dệt may, làm giầy dép. Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đã đóng góp vào tốc độ tăng trưởng và mở rộng kinh tế nhanh chóng trong suốt thế kỷ 19. Những vùng đất rộng lớn trù phú giúp nông dân tiếp tục mở rộng sản xuất canh tác, nhưng các lĩnh vực như sản xuất công nghiệp, dịch vụ, vận tải và lĩnh vực khác cũng đã phát triển với tốc độ cao hơn nhiều. Vì thế mà đến năm 1860 tỷ lệ dân số làm nông nghiệp tại Mỹ đã giảm từ 80% xuống còn xấp xỉ 50%.[62]

Trong thế kỷ 19, những đợt suy thoái kinh tế thường diễn ra tiếp sau các cuộc khủng hoảng tài chính. Cuộc khủng hoảng 1837 nối tiếp sau nó thời kỳ suy thoái 5 năm, với hàng loạt nhà băng đóng cửa và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.[63] Vì những thay đổi lớn của nền kinh tế qua nhiều thế kỷ, mức độ thiệt hại của suy thoái kinh tế trong thời kỳ hiện đại khó lòng so sánh được với những đợt suy thoái trước đây.[64] Thời kỳ suy thoái sau chiến tranh thế giới thứ 2 [WWII] có vẻ ít nặng nề hơn so với trước, nhưng nguyên nhân thì chưa được làm rõ.[65]

Thế kỷ 20Sửa đổi

Giếng dầu ở Los Angeles, California, 1905

Những phát minh và cải tiến kỹ thuật đầu thế kỷ đã mở ra canh cửa cho việc nâng cao mức sống của người dân Mỹ. Nhiều công ty đã tăng trưởng lớn nhờ tận dụng lợi thế kinh tế nhờ quy mô và sự phát triển của thông tin liên lạc để mở rộng mạng lưới ra khắp quốc gia. Việc tập trung phát triển này đã gây ra những lo ngại về nạn độc quyền sẽ kéo theo sự tăng giá cả hàng hoá và giảm sản lượng, tuy nhiên rất nhiều những công ty này đã thành công trong việc cắt giảm mạnh chi phí và tăng sản lượng dẫn đến giá hàng hoá được tiếp tục giảm xuống. Nhiều tầng lớp công nhân làm thuê đã được hưởng lợi trực tiếp từ những công ty phát triển này, cụ thể là hưởng những mức tiền công cao nhất thế giới.[66]

Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn nhất thế giới tính theo GDP từ những năm 1920.[43] Nhiều năm tiếp theo sau cuộc Đại khủng hoảng 1930, khi mà những hậu quả của suy thoái trở nên nghiêm trọng nhất thì chính phủ đã có những hành động nhằm điều chỉnh nền kinh tế, bằng việc tăng chi tiêu chính phủ hoặc cắt giảm thuế nhằm kích thích người dân tăng chi tiêu tiêu dùng, và bằng việc tăng lượng cung tiền, chính phủ cũng thành công trong việc khuyến khích chi tiêu. Những ý tưởng về công cụ tốt nhất nhằm ổn định nền kinh tế đã thay đổi đáng kể từ giữa những năm 1930 và 1980. Từ kế hoạch chính sách mới [New Deal của tổng thống Franklin D. Roosevelt] năm 1933, tới sáng kiến xã hội vĩ đại của tổng thống Lyndon B. Johnson] năm 1960, các nhà làm chính sách đã dựa chủ yếu trên chính sách tài khoá để tác động tới nền kinh tế.

Những chiếc máy bay ném bom Consolidated B-24 Liberator tại Consolidated-Vultee Plant, Fort Worth, Texas, 1943

Trong suốt giai đoạn chiến tranh thế giới của thế kỷ 20, Hoa Kỳ đã có những bước đi khôn ngoan hơn tất cả những quốc gia còn lại khi mà không có cuộc chiến nào của Chiến tranh thế giới thứ nhất [WWI] và một phần nhỏ của Chiến tranh thế giới thứ hai [WWII] xảy ra trên lãnh thổ Mỹ. Trong thời kỳ cao điểm của WWII, gần 40% GDP Hoa Kỳ đóng góp cho chiến tranh. Những quyết định về ngành sản xuất được phục vụ cho mục đích quân sự và gần như tất cả những yếu tố đầu vào được phân bổ cho nỗ lực chiến tranh. Nhiều loại hàng hoá được cố định phân phối, giá và tiền lương được kiểm soát và nhiều loại hàng hoá tiêu dùng lâu bền không còn được sản xuất. Một phần lớn lực lượng lao động được điều động vào quân đội, trả lương giảm một nửa và gần một nửa trong số này trở về với tình trạng bị thương.[67]

Học thuyết kinh tế mới của nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes đã mang lại cho các chính trị gia vai trò tiên phong định hướng nền kinh tế, khi mà chi tiêu chính phủ và thuế được kiểm soát bởi Tổng thống và Quốc hội. Hiện tượng tăng trưởng nhảy vọt về dân số đã diễn ra trong thời kỳ 1942-1957, có nguyên nhân từ sự trì hoãn hôn nhân và sinh con trong trước đó trong suốt thời kỳ suy thoái kinh tế, tiếp sau là sự thịnh vượng tăng lên, nhu cầu về nhà ở cho các hộ gia đình tại nông thôn [cũng như nhà ở tại thành thị] và sự lạc quan mới về tương lai. Sự tăng nhảy vọt đạt đỉnh vào năm 1957, sau đó tăng chậm lại.[68] Một thời kỳ tăng cao lạm phát, lãi suất và thất nghiệp sau năm 1973 đã làm giảm đi sự tự tin trong việc sử dụng các chính sách tài khoá để điều chỉnh tốc độ chung của nền kinh tế.[69]

Nền kinh tế Hoa Kỳ đã tăng trưởng với tốc độ bình quân 3,8% một năm từ 1946 đến 1973, trong khi mức thu nhập trung bình hộ gia đình tăng 74% [hoặc 2,1% một năm].[70][71]

Đợt suy thoái kinh tế tồi tệ nhất trong những thập kỷ gần đây xảy ra sau khủng hoảng tài chính 2007-08, khi GDP giảm 5% từ mùa xuân 2008 đến mùa xuân 2009. Những đợt suy giảm đáng kể khác xảy ra vào 1957-58, GDP giảm 3,7%; tiếp theo khủng hoảng dầu mỏ 1973, GDP giảm 3,1% từ 1973 đến 1975; và đợt suy thoái 1981-82 GDP giảm 2,9%.[72][73] Những giai đoạn sau có thể kể đến một số đợt suy thoái nhẹ như: suy thoái 1990-91, GDP giảm 1,3%; suy thoái 2001, GDP giảm 0,3%.[73] Xen kẽ với những đợt suy thoái là những giai đoạn tăng trưởng kinh tế. Có thể kể đến những thời kỳ kinh tế tăng trưởng ngoạn mục với tốc độ cao như: giai đoạn 1961-1969, GDP tăng 53% [5,1% một năm]; 1991-2000, GDP tăng 43% [3,8% một năm], và 1982-1990, GDP tăng 37% [4% một năm].[72]

Nhà hàng McDonald's ở Mount Pleasant, Iowa

Trong những năm 1970 và 1980, nhiều người Mỹ tin rằng nền kinh tế Nhật Bản sẽ vượt qua Mỹ, nhưng điều này đã không xảy ra.[74]

Từ những năm 1970, một vài nền kinh tế mới nổi đã bắt đầu thu hẹp khoảng cách với kinh tế Hoa Kỳ. Trong hầu hết các trường hợp, điều này xảy ra có nguyên nhân từ việc dịch chuyển các nhà máy sản xuất vốn trước kia đặt tại Mỹ tới các quốc gia này, nơi việc sản xuất được thực hiện với chi phí thấp hơn, đủ để bảo đảm các chi phí vận chuyển và đem lại lợi nhuận cao hơn. Trong các trường hợp khác, một vài quốc gia đã dần học được cách sản xuất ra những hàng hoá và dịch vụ giống như những loại trước kia chỉ được sản xuất tại Mỹ và một số quốc gia khác. Tăng trưởng về thu nhập thực tế của Hoa Kỳ đã chậm lại.

Đầu thế kỷ 21Sửa đổi

Xem thêm: Đại suy thoái và en:COVID-19 recession

Nền kinh tế Hoa Kỳ đã trải qua cuộc khủng hoảng năm 2001 với sự phục hồi về việc làm chậm chưa từng có khi số lượng việc làm không thể hồi phục về như mức vào tháng 2 năm 2001 cho mãi đến tận tháng 1 năm 2005.[75] Cuộc khủng hoảng này đi kèm với bong bóng bất động sản và bong bóng nợ được cho rằng là đang ngày một nhiều lên bởi tỷ lệ nợ của các hộ gia đình trên GDP đã tăng lên mức kỷ lục từ 70% vào quý 1 năm 2001 lên 99% vào quý 1 năm 2008. Những người muốn sở hữu nhà ở phải đi vay để trả tiền cho những căn nhà đang có nguy cơ rơi vào tình trạng bong bóng làm tăng mức nợ của họ lên trong khi GDP đang tăng trưởng một cách thiếu ổn định. Khi giá nhà ở giảm vào năm 2006, giá trị của các trái phiếu có tài sản thế chấp giảm mạnh khiến tiền gửi tại các hệ thống ngân hàng phi lưu ký đồng loạt bị khách hàng rút ra một cách không có kiểm soát, hiện tượng này hay còn gọi là Đột biến rút tiền gửi, các hệ thống ngân hàng phi lưu ký này thậm chí còn có thời kỳ từng phát triển vượt trội hơn so với các loại hình ngân hàng lưu ký được kiểm soát. Rất nhiều công ty cho vay thế chấp và các ngân hàng phi lưu ký khác [ví dụ: Các ngân hàng đầu tư] thậm chí đã phải đối mặt với cuộc khủng hoảng còn tồi tệ hơn vào giai đoạn 2007-2008 khi mà cuộc khủng hoảng ngân hàng lên đến đỉnh điểm vào năm 2008 đã buộc tập đoàn Lehman Brothers phải tuyên bố phá sản cùng với việc nhiều tổ chức tài chính khác phải kêu gọi sự cứu giúp.[76]

Tổng thống Donald Trump và những nhà lãnh đạo hàng đầu ngành công nghiệp ô tô của Mỹ, 2017

Dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Bush[2001-2009] và Obama[2009-2017], các chương trình cứu trợ tài chính và gói kích thích tăng trưởng kinh tế mang tên Keynesian đã được áp dụng thông qua các khoản chi lớn từ ngân sách chính phủ đồng thời Cục Dự trữ Liên Bang duy trì chính sách các khoản vay với lãi suất gần như là không đồng. Các biện pháp kể trên đã khôi phục được nền kinh tế khi mà các hộ gia đình đã gần như trả được hết nợ trong giai đoạn 2009-2012, điều chưa từng xảy ra kể từ năm 1947[77] đã tạo ra một rào cản đáng kể cho tiến trình hồi phục.[76] GDP thực tế tính đến trước năm 2011,[78] giá trị tài sản ròng của các hộ gia đình trước quý 2 năm 2012,[79] bảng lương phi nông nghiệp trước tháng 5 năm 2014[75] và tỷ lệ thất nghiệp trước tháng 9 năm 2015[80] đều đạt được những con số tích cực nhất trong giai đoạn trước khủng hoảng [cuối năm 2007]. Những chỉ tiêu trên tiếp tục đạt được những con số kỷ lục của giai đoạn sau suy thoái ở những ngày sau đó, đánh dầu thời kỳ phục hồi dài thứ 2 trong lịch sử Hoa Kỳ cho đến tháng 4 năm 2018.[81]

Nợ nắm giữ bởi công chúng - 1 chỉ tiêu đo lường nợ quốc gia, đã tăng lên trong suốt thế kỷ 21 từ con số 31% GDP vào năm 2000 lên thành 52% vào năm 2009 và năm 2017 đã đạt mức 77%, khiến Hoa Kỳ trở thành quốc gia có tỷ lệ nợ quốc gia trên GDP cao thứ 43 trong tổng số 207 quốc gia. Sự bất bình đẳng trong thu nhập đạt đỉnh vào năm 2007 và giảm xuống trong thời kỳ Đại khủng hoảng , mặc dù vậy Hoa Kỳ vẫn là quốc gia có sự chênh lệch về thu nhập cao thứ 41 trên tổng số 156 quốc gia vào năm 2017 [74% các quốc gia có phân phối thu nhập bình đẳng hơn Hoa Kỳ].[82]

Dữ liệuSửa đổi

Bảng dưới đây trình bày các chỉ số kinh tế quan trọng của Hoa Kỳ giai đoạn 1980-2019.[83]

Năm GDP danh nghĩa
[tỷ Đô-la Mỹ] GDP bình quân
[Đô-la Mỹ] Tăng trưởng GDP
[thực tế] Tỷ lệ lạm phát
[%] Tỷ lệ thất nghiệp
[%] Ngân sách cân đối
[theo% GDP][84] Nợ chính phủ do công chúng nắm giữ
[theo% GDP][85] Tài khoản vãng lai
balance
[theo% GDP]
2020 [dự báo] 20,934.0 57,589 −3.5% 0.62% 11.1% −n/a% 79.9% −n/a%
2019 21,439.0 64,674 2.2% 1.8% 3.5% −4.6% 78.9% −2.5%
2018 20,611.2 62,869 3.0% 2.4% 3.9% −3.8% 77.8% −2.4%
2017 19,519.4 60,000 2.3% 2.1% 4.4% −3.4% 76.1% −2.3%
2016 18,715.0 57,878 1.7% 1.3% 4.9% −3.1% 76.4% −2.3%
2015 18,224.8 56,770 3.1% 0.1% 5.3% −2.4% 72.5% −2.2%
2014 17,521.3 54,993 2.5% 1.6% 6.2% −2.8% 73.7% −2.1%
2013 16,784.9 52,737 1.8% 1.5% 7.4% −4.0% 72.2% −2.1%
2012 16,155.3 51,404 2.2% 2.1% 8.1% −5.7% 70.3% −2.6%
2011 15,517.9 49,736 1.6% 3.1% 8.9% −7.3% 65.8% −2.9%
2010 14,964.4 48,311 2.6% 1.6% 9.6% −8.6% 60.8% −2.9%
2009 14,418.7 46,909 −2.5% −0.3% 9.3% −9.8% 52.3% −2.6%
2008 14,718.6 48,302 −0.2% 3.8% 5.8% −4.6% 39.4% −4.6%
2007 14,477.6 47,955 1.9% 2.9% 4.6% −0.8% 35.2% −4.9%
2006 13,855.9 46,352 2.9% 3.2% 4.6% −0.1% 35.4% −5.8%
2005 13,093.7 44,218 3.3% 3.4% 5.1% −1.2% 35.8% −5.7%
2004 12,274.9 41,838 3.8% 2.7% 5.5% −2.3% 35.7% −5.1%
2003 11,510.7 39,592 2.8% 2.3% 6.0% −2.8% 34.7% −4.1%
2002 10,977.5 38,114 1.8% 1.6% 5.8% −1.7% 32.7% −4.1%
2001 10,621.9 37,241 1.0% 2.8% 4.7% 1.2% 31.5% −3.7%
2000 10,284.8 36,433 4.1% 3.4% 4.0% 2.3% 33.7% −3.9%
1999 9,660.6 34,602 4.8% 2.2% 4.2% 1.3% 38.3% −3.0%
1998 9,089.2 32,929 4.5% 1.5% 4.5% 0.8% 41.7% −2.4%
1997 8,608.5 31,554 4.4% 2.3% 4.9% −0.2% 44.6% −1.6%
1996 8,100.1 30,047 3.7% 2.9% 5.4% −1.3% 47.0% −1.5%
1995 7,664.1 28,763 2.7% 2.8% 5.6% −2.1% 47.7% −1.5%
1994 7,308.8 27,756 4.0% 2.6% 6.1% −2.8% 47.8% −1.7%
1993 6,878.7 26,442 2.7% 3.0% 6.9% −3.7% 47.9% −1.2%
1992 6,539.3 25,467 3.6% 3.0% 7.5% −4.5% 46.8% −0.8%
1991 6,174.1 24,366 −0.1% 4.2% 6.9% −4.4% 44.1% 0.0%
1990 5,979.6 23,914 1.9% 5.4% 5.6% −3.7% 40.9% −1.3%
1989 5,657.7 22,879 3.7% 4.8% 5.3% −2.7% 39.4% −1.8%
1988 5,252.6 21,442 4.2% 4.1% 5.5% −3.0% 39.9% −2.3%
1987 4,870.2 20,063 3.5% 3.6% 6.2% −3.1% 39.6% −3.3%
1986 4,590.1 19,078 3.5% 1.9% 7.0% −4.8% 38.5% −3.2%
1985 4,346.8 18,232 4.2% 3.5% 7.2% −4.9% 35.3% −2.7%
1984 4,040.7 17,099 7.2% 4.4% 7.5% −4.6% 33.1% −2.3%
1983 3,638.1 15,531 4.6% 3.2% 9.6% −5.7% 32.2% −1.1%
1982 3,345.0 14,410 −1.8% 6.2% 9.7% −3.8% 27.9% −0.2%
1981 3,211.0 13,966 2.6% 10.4% 7.6% −2.5% 25.2% 0.2%
1980 2,862.5 12,575 −0.2% 13.5% 7.2% −2.6% 25.5% 0.1%

Mục lục

  • 1 Nguồn gốc
  • 2 Những đặc điểm của một siêu cường
  • 3 Thời kỳ Chiến tranh Lạnh
  • 4 Những siêu cường hiện nay
    • 4.1 Hoa Kỳ
  • 5 Sự tranh luận về Liên minh châu Âu
    • 5.1 Cơ cấu Liên minh châu Âu
  • 6 Những siêu cường tiềm năng đang nổi lên
    • 6.1 Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa
    • 6.2 Cộng hòa Ấn Độ
    • 6.3 Liên bang Nga
    • 6.4 Cộng hòa Liên bang Brasil
  • 7 Tham khảo

Nguồn gốcSửa đổi

Thuật ngữ "siêu cường" được sử dụng để miêu tả các quốc gia có vị thế lớn hơn vị thế cường quốc ngay từ đầu thập niên 1930, nhưng nó chỉ mang nghĩa đặc trưng để chỉ Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết sau Chiến tranh thế giới thứ hai[8].

Thuật ngữ theo nghĩa chính trị hiện nay đã được đưa ra trong cuốn sách Các Siêu cường do William Thornton Rickert Fox, một giáo sư về chính sách đối ngoại Hoa Kỳ tại Đại học Columbia, viết năm 1943. Fox sử dụng từ này để xác định một phạm trù mới về quyền lực ở mức cao nhất có thể đạt được trong một thế giới theo đó, như cuộc chiến tranh xảy ra khi đó đã chứng minh, các quốc gia có thể thách thức và chiến đấu với nhau trên tầm vóc quốc tế. Theo ông, [ở thời điểm đó] có ba quốc gia siêu cường: Hoa Kỳ, Liên bang Xô viết và Đế chế Anh.

Khủng hoảng Kênh đào Suez đã làm sáng tỏ một điều rằng, Đế chế Anh, về kinh tế đã bị tàn phá sau hai cuộc chiến tranh thế giới, không còn có thể cạnh tranh ở mức độ ngang bằng với Liên bang Xô viết và Hoa Kỳ mà không hy sinh bớt những nỗ lực tái thiết của mình, thậm chí khi cùng cộng tác với Pháp và Israel. Vì thế, Anh đã trở thành đồng minh mạnh nhất, thân cận nhất và quan trọng nhất của Hoa Kỳ, luôn sát cánh bên họ trong Chiến tranh Lạnh, chứ không còn tư cách một siêu cường nữa.

Nhờ đa phần các trận đánh trong Chiến tranh thế giới thứ hai đều diễn ra ngoài lãnh thổ của mình, nền công nghiệp Hoa Kỳ không bị phá huỷ, số lượng thương vong không lớn, trái ngược với tình hình của các quốc gia châu Âu hay châu Á. Trong chiến tranh, Hoa Kỳ đã xây dựng được một cơ sở hạ tầng công nghiệp và kỹ thuật vững mạnh có ảnh hưởng lớn giúp nước này có được sức mạnh quân sự hàng đầu trên phạm vi thế giới.

Sau chiến tranh, hầu như toàn bộ châu Âu phải trở thành đồng minh của Hoa Kỳ hoặc Liên bang Xô viết. Dù có những nỗ lực nhằm tạo lập các liên minh đa quốc gia hay các cơ quan luật pháp [như Liên hiệp quốc], dần dần Hoa Kỳ và Liên Xô ngày càng chứng tỏ rõ sức mạnh thống trị về chính trị và kinh tế của họ trong cuộc Chiến tranh Lạnh bắt đầu diễn ra, và họ có cái nhìn rất khác nhau về thế giới thời hậu chiến. Điều này được phản ánh qua các liên minh quân sự là khối NATO và Khối Warszawa. Các liên minh này cho thấy hai quốc gia đó là một phần của một thế giới lưỡng cực đang thành hình, trái ngược với thế giới đa cực trước đó. Ngoài hai siêu cường: Hoa Kỳ và Liên Xô, 3 cường quốc hàng đầu là: Anh, Pháp và Trung Quốc cũng đã thực hiện nhiều chương trình nhằm khẳng định vị thế "siêu cường" của riêng họ như chương trình phát triển vũ khí hạt nhân chẳng hạn. Ba cường quốc này đã nắm được vai trò "một bên tham gia trong vũ đài thế giới ", cũng như đứng trong hàng ngũ 5 cường quốc duy nhất sở hữu vũ khí hạt nhân thời điểm đó [Hoa Kỳ, Liên Xô, Anh, Pháp, Trung Quốc].

Ý tưởng cho rằng thời kỳ Chiến tranh Lạnh chỉ xoay quanh hai khối, hay thậm chí hai quốc gia, đã bị một số học giả thời hậu Chiến tranh Lạnh bác bỏ, họ đã chỉ ra rằng thế giới lưỡng cực chỉ tồn tại nếu ta bỏ qua không quan tâm tới toàn bộ những phong trào và những sự xung đột xảy ra mà không có sự ảnh hưởng từ bất cứ một bên được gọi là siêu cường nào. Hơn nữa, đa số các cuộc xung đột giữa các siêu cường đều là những cuộc "chiến tranh ủy nhiệm", là những sự kiện thường hay xảy ra hơn nhiều so với những vấn đề không can thiệp vốn phức tạp hơn rất nhiều so với những sự đối lập Chiến tranh Lạnh tiêu chuẩn.

Sau khi Liên bang Xô viết giải tán đầu thập niên 1990, thuật ngữ Siêu cường quốc [Hyperpower] bắt đầu được áp dụng để chỉ Hoa Kỳ, với vai trò siêu cường duy nhất còn tồn tại sau thời Chiến tranh Lạnh. Thuật ngữ này, được bộ trưởng Ngoại giao Pháp Hubert Védrine đưa ra trong thập niên 1990, tuy nhiên việc xếp hạng Hoa Kỳ như vậy vẫn còn đang gây tranh cãi. Một người phản đối lý thuyết này Samuel P. Huntington, ông ủng hộ lý thuyết cân bằng quyền lực đa cực.

Đã từng có những nỗ lực nhằm áp dụng thuật ngữ siêu cường cho những thực thể trong quá khứ như Đế chế Ba Tư, Đế chế La Mã, Đế chế Anh hay Nhà Hán [Trung Quốc]; tuy nhiên giá trị hiệu lực của chúng còn bị tranh cãi, vì thế chúng không được phổ biến rộng rãi.

Video liên quan

Chủ Đề