10 nhà lãnh đạo tàn bạo nhất mọi thời đại

Những vụ thảm sát (hay tàn sát, giết người hàng loạt hoặc thanh trừng chính trị) đã xảy ra tại một số quốc gia vào thế kỷ 20 và 21 theo chế độ Cộng sản. Các vụ thảm sát này chủ yếu là những vụ thanh trừng nhằm loại bỏ đối thủ chính trị, hoặc để cướp chính quyền cách trực tiếp hoặc gián tiếp để cai trị một đất nước, một dân tộc. Một số học giả cho rằng những sai lầm trong quan điểm chính trị và chính sách của chính quyền cộng sản là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những vụ giết người, được coi là "giết người thảm sát" (democide), "thanh trừng chính trị" (politicide), "thanh trừng giai cấp" (classicide), hay tội diệt chủng (genocide). Số lượng nạn nhân trực tiếp hoặc gián tiếp được ước tính lên đến hàng chục triệu, tùy theo nhiều nguồn khác nhau. Trong cuốn sách Le Livre noir du communisme, nhà sử học Martin Malia cho rằng có khoảng 85 đến 100 triệu người đã bị giết dưới chế độ Cộng sản[1] vì nhiều lý do khác nhau.

Tính đến nay, số lượng nạn nhân chính xác vẫn chưa được tiết lộ do sự che giấu của chính quyền các quốc gia, bao gồm cả các quốc gia cộng sản. Tại Liên Xô dưới thời Lenin và Stalin, ước tính đã có hơn 300.000 đến 600.000 người chết do các cuộc Khủng bố Đỏ (Красный террор) và Đại thanh trừng (Большой террор).[2][3] Tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thời Mao Trạch Đông, chiến dịch kinh tế Đại nhảy vọt đã khiến từ 18 đến 45 triệu người chết bởi nạn đói do nông nghiệp đình trệ[4][5] và cuộc Cách mạng văn hóa đã khiến cho hàng nghìn người trở thành nạn nhân tại Trung Quốc.[6] Ngoài ra, hơn 2 triệu người đã bị giết tại Campuchia dưới chế độ Khmer Đỏ (đã từ bỏ chủ nghĩa cộng sản để đi theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan). Ước tính số người chết rất khác nhau: Benjamin Valentino, Phó Giáo sư tại Dartmouth College, trích dẫn ước tính con số này của ba quốc gia là từ 21 triệu lên tới 70 triệu người.[7]

 

Các quốc gia theo chế độ cộng sản năm 1979–83, giai đoạn mà số lượng quốc gia cộng sản đạt mức cao nhất, tuy sau này đã bị suy thoái.

Các quốc gia theo chế độ cộng sản trong lịch sử là những quốc gia được định nghĩa đi theo đường lối xã hội chủ nghĩa theo các quan điểm chính trị của Karl Marx và Lenin (chủ nghĩa Marx-Lenin), Stalin (chủ nghĩa Stalin) hay Mao Trạch Đông (chủ nghĩa Mao).

Những vụ giết người có chủ đích mà không phải do chiến tranh dưới chế độ cộng sản đã được ghi nhận lại.[8][9] Nhiều thuật ngữ đã được sử dụng để mô tả những vụ giết người trên, cụ thể bao gồm:

  • Diệt chủng (Genocide)[8]
  • Thanh trừng chính trị (Politicide)[10]
  • Giết người thảm sát (Democide)[11]
  • Tội ác chống lại nhân loại (Crime against humanity)[12]
  • Thanh trừng giai cấp (Classicide)[13]
  • Khủng bố (Terror)[9]
  • Giết người hàng loạt (Mass killings)[14]
  • Communist Holocaust hay Red Holocaust[15] — nôm na có nghĩa là "Thảm họa Cộng sản", lấy cảm hứng từ Holocaust — vụ tàn sát người Do Thái trên lãnh thổ Phát xít Đức

Nhà sử học gốc Do Thái Daniel Goldhagen kết luận rằng chế độ cộng sản thế kỷ 20 "đã giết hại nhiều người hơn bất cứ chế độ nào khác".[16] Các học giả khác trong lĩnh vực nghiên cứu về cộng sản như Steven Rosefielde, Benjamin Valentino và R.J. Rummel cũng có những kết luận tương tự.[17][18] Rosefielde khẳng định rằng "Thảm họa Cộng sản" (Red Holocaust) đã gây ra cái chết cho nhiều người như Holocaust (cuộc tàn sát người Do Thái trên lãnh thổ phát xít Đức) và Tội ác chiến tranh Nhật Bản gây nên tại châu Á. Khi so sánh với chủ nghĩa tư bản, Rosefielde cũng nhận định: "dù không thể phủ nhận rằng chế độ tư bản đã tàn sát hàng chục triệu người dân xứ thuộc địa trong thế kỷ 20 mà hầu hết là do bóc lột và nạn đói, cũng không thể bằng những vụ thanh trừng có chủ đích của chế độ cộng sản".[18]

 

Biển tưởng nhớ 40.000 dân thường bị bắn chết tại Moskva, Nga trong "những năm kinh hoàng" thời Liên bang Xô Viết. Biển được dựng năm 1990.

Tổng thống Nga Medvedev viết trên blog của mình sáng 30 tháng 10 năm 2009, nhân dịp nước Nga kỷ niệm "Ngày Tưởng nhớ Đàn áp Chính trị", phóng viên nhật báo Ba Lan, Gzeta Wyborcza, tại Moskva đưa tin: "Tôi tin rằng, tưởng nhớ về bi kịch của dân tộc cũng thiêng liêng như tưởng nhớ về chiến thắng. Không có lý do gì để biện giải cho sự đàn áp chính trị". Medvedev viết rằng:

Chúng ta chỉ cần nghĩ - hàng triệu người đã chết vì khủng bố cùng những cáo buộc dối trá. Cho đến ngày hôm nay, có thể thấy, những tổn thất to lớn trên được biện minh bằng những mục đích cao hơn của nhà nước. Tôi tin rằng, không có sự phát triển, sự thành công, và tham vọng nào của đất nước, có thể đạt được bằng cái giá của bi kịch và mất mát. Không gì có thể được đặt trên giá trị cuộc sống con người. Và không bất cứ sự biện minh nào cho sự đàn áp chính trị là có thể chấp nhận được.[19]

Sau khi Liên Xô giải thể, bằng chứng từ các tài liệu lưu trữ của Liên Xô đã trở thành có sẵn, có chứa các hồ sơ chính thức của việc thực hiện khoảng 800.000 tù nhân dưới thời Stalin với một tội phạm chính trị hay hình sự, khoảng 1,7 triệu người chết trong trại cải tạo lao động của Liên Xô (gulag) và con số 390.000 ca tử vong trong quá trình tái định cư bắt buộc kulak - cho tổng số khoảng 2,7 triệu nạn nhân chính thức được ghi trong các loại này.[20]

Ước tính về số người chết tại Liên Xô dưới sự thống trị của Stalin vẫn là chủ đề tranh cãi của các học giả nghiên cứu Liên Xô.[21][22] Các kết quả được công bố thay đổi tùy vào các tiêu chí, phương pháp tính toán, ước tính và các tài liệu lịch sử. Một số nhà sử học đưa ra nhiều số liệu khác nhau cho các giai đoạn lịch sử khác nhau của Liên Xô.[23][24][25][26][27] Một số học giả, bao gồm chuyên gia viết tiểu sử Stalin Simon Sebag Montefiore, cựu thành viên Bộ Chính trị Alexander Nikolaevich Yakovlev và Jonathan Brent của Đại học Yale, công bố số người chết vào khoảng 20 triệu người.[28][29][30][31][32][33][34] Theo Stephen G. Wheatcroft, chế độ của Stalin có thể bị buộc tội gây ra "những cái chết có chủ đích" cho khoảng một triệu người, mặc dù số lượng người chết do "bỏ bê hình sự" và "sự khắc nghiệt" của chế độ là cao hơn đáng kể.[35] Tuy nhiên, một số chính sách của chế độ Stalin, không chỉ giết hại những người Liên Xô mà còn giết hại cả những người ngoại quốc trong khu vực Đông Âu và Mông Cổ.[36][37][38]

Adam Jones, học giả diệt chủng học cho rằng "có rất ít tài liệu ghi chép về việc thanh trừng trong giai đoạn 1917 khi những người đảng Bolshevik Liên Xô lên nắm quyền".[39]

Khủng bố Đỏ

 

Bích chương tuyên truyền chống cộng tại Ba Lan trong cuộc chiến tranh Ba Lan—Nga những năm 1920. Tiêu đề lớn viết: "Tự do kiểu Bolshevik".

Trong thời gian nội chiến Nga, hai bên tung chiến dịch chống khủng bố (Hồng quân và Bạch vệ). Các khủng bố đỏ lên đến đỉnh điểm trong việc hành quyết tổng cộng của hàng chục ngàn "kẻ thù của nhân dân" bởi cảnh sát chính trị, các Cheka.[40][41][42][43] Nhiều nạn nhân đã bị buộc trở thành "con tin của tư sản", bị vây bắt sẵn sàng để bị hành quyết trả thù cho bất kỳ hành động bị cáo buộc phản cách mạng.[44] Nhiều người bị giết chết trong và sau khi đàn áp cuộc nổi dậy, chẳng hạn như các cuộc nổi loạn Kronstadt và cuộc nổi loạn Tambov. Giáo sư Donald Rayfield phát biểu rằng "chỉ riêng sự đàn áp các cuộc nổi loạn tiếp theo tại Kronstadt và Tambov dẫn đến hàng chục ngàn người bị hành quyết".[45] Một số lượng lớn các giáo sĩ Chính thống giáo cũng bị giết.

Các chính sách bài trừ người Cossack (decossackization) là nỗ lực của lãnh đạo Xô viết để "loại bỏ, tiêu diệt, và trục xuất toàn bộ các dân tộc chống đối khỏi lãnh thổ", theo Nicolas Werth.[46] Trong những tháng đầu năm 1919, khoảng 10.000 đến 12.000 người Cossack đã bị hành quyết[47][48] và con số lớn hơn bị trục xuất sau khi làng mạc của họ bị phá hủy.[49]

Đại thanh trừng (Yezhovshchina)

 

Những ngôi mộ tập thể có niên đại từ năm 1937-1938 đã được khai quật với hàng trăm thi thể được các thành viên trong gia đình nhận dạng.[50]

Các nỗ lực củng cố địa vị của Stalin dưới vai trò lãnh đạo của Liên Xô đã dẫn đến sự leo thang trong việc bắt giữ và hành quyết nhiều người, đỉnh điểm là năm 1937-1938 (khoảng thời gian đôi khi được gọi là "Yezhovshchina", hay thời kỳ Yezhov), và tiếp tục cho đến khi Stalin chết năm 1953.[51] Khoảng 700.000 trong số này đã bị tuyên án tử hình, những người khác thiệt mạng từ đánh đập và tra tấn trong khi bị "tạm giữ điều tra"[52] và trong các Gulag (trại cải tạo) vì đói, phơi nhiễm, bệnh tật và làm việc quá sức.[53]

Các vụ bắt giữ thường được viện dẫn các luật về phản cách mạng, trong đó bao gồm việc không báo cáo các hành động mưu phản và, trong một sửa đổi luật năm 1937, không hoàn thành nhiệm vụ được giao. Trong các vụ điều tra của Cục An ninh Nhà nước của NKVD (GUGB NKVD) vào tháng 10 năm 1936 tới tháng 11 năm 1938, ít nhất là 1.710.000 người đã bị bắt và 724.000 người bị hành quyết.[54].

Về đàn áp giáo sĩ, Michael Ellman đã nói rằng: "...khủng bố chống lại giáo sĩ của Giáo hội Chính thống Nga và của các tôn giáo khác (Binner & Junge 2004) năm 1937 - 38 cũng có thể hội đủ điều kiện như là nạn diệt chủng"[38] Trích dẫn các tài liệu nhà thờ, Alexander Nikolaevich Yakovlev đã ước tính rằng hơn 100.000 linh mục, tu sĩ và nữ tu đã được bị hành quyết trong thời gian này.[55] Phần lớn các nạn nhân là các cựu "kulaks" và gia đình của họ, với 669.929 người bị bắt và 376.202 bị hành quyết.[56]

Năm 1949 Đảng Cộng sản Trung Quốc do Mao Trạch Đông lãnh đạo chính thức nắm quyền tại Trung Hoa đại lục sau cuộc nội chiến đẫm máu giữa Trung Hoa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản. Kể từ đó, Mao nắm quyền tại Trung Quốc từ 1949 đến 1976, các chính sách và chủ trương của Mao đã khiến cho hàng chục triệu người thiệt mạng; nhiều nhà sử học cho rằng dưới thời Mao đã có một cuộc diệt chủng và tàn sát quy mô lớn diễn ra ở Trung Quốc.[57][58]

Cải cách ruộng đất và đàn áp những người phản cách mạng

Vụ tàn sát quy mô lớn đầu tiên tại Trung Quốc dưới thời Mao diễn ra trong cuộc cải cách ruộng đất và cuộc đàn áp những người phản cách mạng (thường là những người theo phe Trung Quốc Quốc dân Đảng (Đảng Quốc Dân)). Trong một tài liệu xuất bản năm 1948, Mao Trạch Đông dự định rằng "một phần mười tá điền, địa chủ [ước tính khoảng 50 triệu người] cần phải bị loại bỏ" để cải cách ruộng đất.[58] Trên thực tế, ít nhất một triệu người đã bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất.[59]

Cuộc đàn áp những người bị cho là "phản cách mạng" chủ yếu nhắm vào thành viên của Đảng Quốc Dân, vốn là phe đối lập của Đảng Cộng sản, và những quan chức bị tình nghi là "phản bội" lại Đảng Cộng sản.[60] Ước tính đã có khoảng 712.000 đến 10 triệu người bị xử tử trong cuộc đàn áp đẫm máu.[61] Hơn một triệu người bị đưa vào các trại cải tạo lao động và khoảng 1.200.000 người bị "theo dõi".[62]

Đại nhảy vọt (1958–1961)

 

Một lượng lớn lao động chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất thép công nghiệp trong cuộc Đại nhảy vọt đã làm cho mùa màng thất bát, gây nên nạn đói lớn ở Trung Quốc khiến khoảng 20–46 triệu người chết (5% dân số).

"Đại nhảy vọt" là tên gọi của một kế hoạch cải tổ kinh tế và xã hội khởi xướng bởi Mao Trạch Đông cùng Đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1958 đến năm 1961. Mục đích ban đầu của chiến dịch là biến Trung Quốc lúc bấy giờ từ một nước nông nghiệp trở thành một nước công nghiệp hóa hiện đại theo Xã hội chủ nghĩa và cải tổ nông nghiệp. Tham vọng của Mao lúc bấy giờ là có thể vượt qua nền kinh tế của Liên hiệp Anh và Hoa Kỳ trong vòng 15 năm.[63]

Rất nhiều kế hoạch đã được đề xuất, bao gồm các thử nghiệm của loại hình kinh tế theo kiểu hợp tác xã, tiến hành công nghiệp hóa và cải tổ tưới tiêu.[64] Tuy vậy, các kế hoạch ban đầu không những không thành công mà còn gây nên một thảm họa kinh tế cho Trung Quốc. Mặc dù những sáng kiến nông nghiệp không mấy sáng sủa nhưng thời tiết năm 1958 rất thuận lợi và mùa thu hoạch rất hứa hẹn được mùa. Chẳng may, nhiều lao động đã được chuyển qua sản xuất thép và các dự án xây dựng công nghiệp, đồng nghĩa với việc mùa vụ bị bỏ bê không thu hoạch tại vài nơi, và sản lượng lương thực sụt giảm.[65] Trong giai đoạn 1958-1960, Trung Quốc vẫn tiếp tục là nước xuất khẩu lúa gạo đáng kể mặc dù việc nạn đói lan rộng chỉ được biết đến ở nông thôn vì Mao muốn giữ thể diện và thuyết phục thế giới bên ngoài về sự thành công của những kế hoạch của ông.

Đại nhảy vọt được đa số mọi người, kể cả trong và ngoài Trung Quốc, coi là một thảm họa kinh tế mà ảnh hưởng của nó vẫn tác động lên Trung Quốc trong nhiều năm sau đó; nhiều người ví von nó với cái tên "Đại nhảy lùi". Những chính sách không đúng đắn, cùng với những điều kiện tự nhiên khắc nghiệt (lũ lụt, hạn hán) là nguyên nhân dẫn đến Nạn đói lớn ở Trung Quốc giai đoạn 1958-61.[66] Theo nhiều nguồn thống kê khác nhau, số người chết do thiếu đói dao động từ 20 triệu đến 46 triệu (khoảng 5% dân số, tổng dân số Trung Quốc bấy giờ là 600 triệu), trở thành nạn đói có quy mô lớn nhất lịch sử nhân loại.[67] Một số nguồn cho rằng khoảng 2,5 triệu người bị bắt giam, tra tấn hoặc xử bắn do phản đối những chính sách của Mao.[68] Lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc trong suốt 6 thế kỷ, dân số giảm đi một cách rõ rệt.[69]

Trong những Đại hội Đảng năm 1960 và 1962 sau đó, Mao Trạch Đông đã bị chỉ trích trước Đại hội do những hậu quả mà Đại nhảy vọt để lại. Điều này đã khiến cho những đảng viên dung hòa như Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình được lợi và giành được nhiều sự ủng hộ, và Mao bị mất đi tiếng nói. Chính điều trên đã khiến cho Mao khởi xướng cuộc cách mạng văn hóa năm 1966, một cuộc thanh lọc chính trị quy mô lớn cùng với giai đoạn hỗn loạn và vô chính phủ trên toàn lãnh thổ Trung Quốc, kéo theo hàng triệu người trở thành nạn nhân của cuộc bài trừ những đổi thủ chính trị, bao gồm cả Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình.[70]

Cách mạng văn hóa (1966–1976)

Sau khi kế hoạch Đại nhảy vọt thất bại, Mao Trạch Đông dần mất đi tiếng nói trong Đảng Cộng sản. Để củng cố lại quyền lực, Mao khởi xướng cuộc cách mạng văn hóa năm 1966 với mục đích loại bỏ những "tư sản tự do" để tiếp tục cuộc cách mạng vô sản, đồng thời cũng loại bỏ những người bất đồng ý kiến với Mao, bao gồm các quan chức khác như Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình.[70] Chính những vụ thanh trừng chính trị đã củng cố lòng trung thành của quân đội với Mao.[71]

 

Cô Lâm Chiêu (林昭, Lin Zhao) là một nạn nhân nổi bật trong cách mạng văn hóa. Cô bị xử tử hình với tội danh "...phê phán Đảng Cộng sản vĩ đại của chúng ta và Chủ tịch Mao Trạch Đông vĩ đại..."[72]

Hàng triệu người Trung Quốc đã bị hành hình trong giai đoạn hỗn loạn và vô chính phủ của cuộc cách mạng văn hóa. Những người bị cho là gián điệp, "phản bội", "tư sản" hay những tầng lớp địa chủ và tá điền là nạn nhân của những vụ tử hình trước công chúng, đánh đập đến chết, tra tấn, kết án tù, hãm hiếp, lợi dụng và phải chịu điều kiện y tế thấp kém. Ước tính hàng trăm ngàn người đã bị tàn sát, bỏ đói và bị bắt lao động khổ sai. Hàng triệu người khác bị lưu đày. Giới trẻ từ thành phố bị buộc phải rời đến vùng nông thôn và bị cải tạo, "giáo dục" theo đường lối ca ngợi Đảng Cộng sản.[73]

Trong cuộc cách mạng văn hóa, một "đội quân" bao gồm các học sinh, sinh viên mang tên Hồng vệ binh được sử dụng để khai trừ những người bị cho là "phản cách mạng".[74] Tháng 8 năm 1966, hơn 100 giáo viên đã bị chính học sinh của mình giết hại tại phía Tây của Bắc Kinh.[75] Một trong những nạn nhân nổi bật trong cuộc cách mạng văn hóa là cô Lâm Chiêu (林昭, Lin Zhao). Sau khi trải qua Nạn đói lớn do những chính sách sai lầm của Mao, cô xuất bản một tờ báo không công khai chỉ trích những chính sách của Đảng Cộng sản. Sau đó, cô bị bắt giam 20 năm tù, bị đánh đập và tra tấn dã man.[76] Năm 1966, thời gian khởi điểm của cuộc cách mạng văn hóa, cô bị kết án tử hình vì bốn tội danh: "1. Tấn công, chửi rủa và phê phán Đảng Cộng sản vĩ đại của chúng ta và Chủ tịch Mao Trạch Đông vĩ đại... 2. Có thái độ phê phán chế độ chuyên chế và xã hội chủ nghĩa... 3. Công khai hô hào những khẩu hiệu phản kháng, chống lại án tù, khích động tù nhân nổi loạn, và có những hành động đe dọa để trả thù cho việc bị kết tội xử hình phản cách mạng... 4. Liên tục giữ thái độ từ chối tội danh, từ chối cải tạo giáo dục và từ chối cải cách..."[72] Năm 1968, cô bị xử tử bằng súng; gia đình cô Chiêu không hề biết đến chuyện này cho tới khi một sĩ quan Đảng Cộng sản tới nhà mẹ của cô để thu năm xu tiền mua viên đạn dùng để bắn cô Chiêu.[77]

Ngoài những vụ thanh trừng đối thủ chính trị, cuộc cách mạng văn hóa còn nhằm vào các dân tộc thiểu số trên Trung Hoa đại lục. Tại tỉnh Nội Mông Cổ, hơn 790.000 người Mông Cổ bị bắt, trong đó 22.900 người bị đánh đập tới chết.[78] Năm 1975, tại tỉnh Vân Nam đã diễn ra một cuộc thảm sát 1.600 người Hồi theo đạo Hồi. Tại các tỉnh Đông Bắc Trung Quốc, các trường học của người Triều Tiên bị phá hủy.[79] Những người dân Tây Tạng cũng lâm vào cảnh tương tự, họ bị bắt giữ, đàn áp và tra tấn; đến cuối năm 1979, gần 600.000 nhà sư và ni cô Phật giáo Tây Tạng bị giết chết hoặc tra tấn đến nỗi cơ thể bị dị dạng.[80]

Giai đoạn hậu Mao Trạch Đông

Sự kiện Thiên An Môn (1989)

Sự kiện Thiên An Môn (hay còn được gọi là Sự kiện ngày 4 tháng 6 六四事件, Thảm sát Quảng trường Thiên An Môn hoặc Phong trào Dân chủ năm 1989 八九民运) là một chuỗi các cuộc biểu tình của sinh viên, trí thức và quần chúng (đứng đầu là các sinh viên) tại Quảng trường Thiên An Môn, Bắc Kinh, Trung Quốc, kéo dài từ ngày 15 tháng 4 đến 4 tháng 6 năm 1989.[81] Quần chúng biểu tình đòi hỏi "một đảng Cộng sản không tham nhũng", yêu cầu tự do ngôn luận, tự do báo chí và một xã hội dân chủ.[82] Tại đỉnh điểm của cuộc biểu tình, có tới một triệu người tụ tập tại Thiên An Môn để phản đối vấn nạn tham nhũng của chính quyền.[83] Không chỉ tại Bắc Kinh mà cuộc biểu tình còn có sức lan tỏa rộng khắp Trung Quốc đại lục, các thành phố lớn khác (Thượng Hải, Hồng Kông...) và cả bên ngoài Trung Quốc.[84][85]

 

Bà Đinh Tử Linh (sinh 1936) (丁子霖 Ding Zilin) có con là sinh viên bị giết tại Quảng trường Thiên An Môn. Sau đó, bà đã liên tục yêu cầu chính quyền thực hiện một chế độ dân chủ hơn. Từ đó, bà liên tục bị Chính quyền Trung Quốc bắt giam và cảnh cáo.[86]

Chính phủ Trung Quốc quyết định giải tán biểu tình bằng vũ lực: hơn 250.000 tiểu đội đã được điều động đến Bắc Kinh bằng đường bộ và đường không.[87] Ban đầu, hàng chục nghìn người biểu tình đã bao vây Bắc Kinh, chặn đứng quân đội và còn thúc giục họ cùng tham gia biểu tình.[88] Chính phủ nhận ra rằng phương pháp này không hiệu quả, do đó đã điều động các toán quân rút ra ngoại thành Bắc Kinh, trong khi các phong trào biểu tình ngày càng mạnh mẽ hơn, đỉnh điểm là các ngày từ 1 đến 3 tháng 6 năm 1989.[89] Cuối cùng, Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định tấn công Thiên An Môn: tối ngày 3 tháng 6, nhiều xe bọc thép cùng quân đội vũ trang được trang bị súng trường tiến vào quảng trường cùng với các xe ủi. Hàng ngàn người đã cố gắng bao vây, phản kháng lại quân đội, song bị bắn chết ngay trên quảng trường.[90] Các nhân chứng, gồm phóng viên Kate Adie của Đài Truyền hình Vương quốc Anh đã xác nhận những hành động "bắn bừa bãi" của quân đội trong Quảng trường Thiên An Môn, các xe ủi cán nát cả xe cộ lẫn những người tháo chạy, nhiều người van xin song cũng bị bắn hoặc đánh đập bằng dùi cui.[91]

Tới 4 giờ sáng ngày 4 tháng 6, sau cuộc thỏa hiệp giữa sinh viên và chính phủ, quân đội quyết định dọn dẹp lại quảng trường.[92] Tuy vậy, phần lớn sinh viên vẫn kiên quyết tiếp tục biểu tình tại Quảng trường.[90] Quân đội lúc này bắt đầu dọn dẹp lại Thiên An Môn, ngoài ra còn đánh đập các sinh viên và thu hồi, phá hủy những đoạn phim quay được và đe dọa "nếu không cút đi hậu quả sẽ rất tệ".[93] Đến tầm 5-6 giờ sáng, các sinh viên bắt đầu rút khỏi Quảng trường, nắm tay nhau và hát vang bài Quốc tế ca trên Đại lộ Trường An. Tuy vậy, quân đội vẫn tiếp tục bắn hạ vài sinh viên cùng với những người khác là phụ huynh của họ trên Đại lộ.[94] Quảng trường Thiên An Môn sau đó đã bị quân đội phong tỏa hai tuần.[95]

Vụ việc bị phanh phui tới cộng đồng quốc tế ngày 5 tháng 6 năm 1989, một ngày sau khi vụ tấn công đẫm máu xảy ra trên quảng trường.[96] Chính phủ Trung Quốc thừa nhận rằng đã giết 300 người và làm bị thương 2.000 dân thường.[97] Tuy vậy, các nguồn từ quốc tế ước tính số người chết cao hơn các báo cáo chính thức của Trung Quốc: tờ The New York Times ước tính có hơn 400-800 người chết, còn thời báo Time ước tính hơn 2.600 người bị thiệt mạng.[98][99] Sau sự kiện Thiên An Môn, các vụ giam giữ, tra tấn và quấy rối những người có liên quan đến các sinh viên bị giết vẫn diễn ra, bao gồm có các bậc phụ huynh của họ.[100]

Đàn áp Pháp Luân Công (1999-nay)

Pháp Luân Công là một môn khí công được Lý Hồng Chí sáng lập tại Trung Quốc đại lục năm 1992, môn khí công này được người dân Trung Quốc ưa chuộng và ban đầu được chính quyền ủng hộ.[101] Tuy vậy, tới năm 1996, mối quan hệ giữa Pháp Luân Công và chính quyền trở nên căng thẳng khi Lý Hồng Chí phản đối những chính sách chuộc lợi từ Pháp Luân Công của Hội nghiên cứu khoa học khí công Trung Quốc, cũng như phản đối yêu cầu lập Đảng bộ Đảng Cộng sản tại Pháp Luân Công.[102] Sau đó, chính quyền bắt đầu hạn chế việc thực hành Pháp Luân Công, cấm xuất bản những cuốn sách dạy môn khí công này từ tháng 7 năm 1996.[103] Cuối cùng, vào tháng 4 năm 1999, chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc bấy giờ là Giang Trạch Dân chính thức khởi xướng cuộc đàn áp Pháp Luân Công.[104] Những học viên Pháp Luân Công bị tra tấn dã man, nhiều người bị bắt giữ vô cớ, bị bỏ tù và bị đưa vào "Phòng 610" ("Phòng 610" là nơi mà chính quyền Trung Quốc lập nên để tra tấn và giết những học viên Pháp Luân Công).[105] Những phương thức tra tấn bao gồm: giật điện, trói tay chân, bị cùm xích, không cho ngủ, ép ăn hoặc bỏ đói, lạm dụng tình dục, hãm hiếp, khủng bố tinh thần, nhúng xuống hầm nước, và nhiều phương thức khác. Nhiều học viên là trẻ em cũng không phải là ngoại lệ, chúng cũng bị tra tấn như người lớn.[106] Nhiều học viên là phụ nữ đang mang thai bị ép phá thai hết sức tàn bạo.[107]

Ngoài tra tấn, nhiều trường hợp học viên Pháp Luân Công bị mổ nội tạng khi còn sống để cung cấp cho ngành cấy ghép sinh học của Trung Quốc.[108] Theo ước tính, hơn 41.500 ca cấy ghép nội tạng của Trung Quốc từ năm 2000-2005 không có được giải thích kỹ lưỡng và cho rằng rất có thể những bộ phận đó được lấy từ những học viên Pháp Luân Công.[109] Không chỉ đàn áp những học viên trong nước, chính quyền Trung Quốc còn liên tiếp cảnh cáo những học viên Pháp Luân Công hải ngoại và cử gián điệp theo dõi những người Trung Quốc tại Úc, Mỹ...[110] Ít nhất 2.000 học viên Pháp Luân Công đã bị giết chết từ năm 2000-2009 và hàng ngàn người đang bị giam giữ.[111]

Tháng 11 năm 1953, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc Việt Nam tiến hành cải cách ruộng đất.[112] Theo Luật Cải cách ruộng đất thì Cải cách ruộng đất có mục tiêu "thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân, giải phóng sức sản xuất ở nông thôn".[113] Cải cách ruộng đất đi kèm với phong trào chỉnh đốn Đảng lúc đó.

Sau 3 năm tiến hành, cuộc cải cách đã phân chia lại ruộng đất công bằng cho đa số nông dân miền Bắc, xóa bỏ giai cấp địa chủ phong kiến. Trong giai đoạn đầu, cuộc cải cách thu được kết quả tốt, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần của quân dân, khiến họ phấn chấn và tích cực chi viện cho kháng chiến chống Pháp.[114] Tuy nhiên, trong giai đoạn sau (từ giữa 1955), do vội vã nhân rộng cải cách tới nhiều địa phương, trong khi trình độ dân trí lại thấp đã khiến việc thi hành bị mất kiểm soát, gây ra nhiều phương hại và tổn thất, nhất là trong việc nông dân quá khích ở các địa phương đã lạm dụng việc xét xử địa chủ để trả thù cá nhân, thậm chí xảy ra việc dân chúng vu oan và tấn công cả những đảng viên, cán bộ chính quyền.[115]

Về phía người dân, trình độ nhận thức thấp của đa số người dân Việt Nam khi đó đã dẫn tới sự quá khích, lạm dụng việc xét xử để trả thù cá nhân, thậm chí xảy ra việc dân chúng vu oan và tấn công cả những đảng viên, cán bộ chính quyền. Sự quá khích này có nguyên nhân từ đời sống khốn khó của đại đa số nông dân thời bấy giờ, họ phải chịu nhiều uất ức do bị giai cấp địa chủ chèn ép. bóc lột trong suốt thời Pháp thuộc khi mà tình trạng tham nhũng và nạn cường hào ác bá hoành hành ở nông thôn khiến người nông dân nghèo không được luật pháp bảo vệ. Khi có cơ hội, sự kìm nén này bung ra, trở thành một phong trào mang tính trả thù, người dân coi mọi địa chủ đều là kẻ xấu cần phải tiêu diệt (dù không phải mọi địa chủ đều phạm tội ác, nhưng quần chúng quá khích sẽ không quan tâm tới điều đó, họ chỉ quan tâm đối tượng có phải là địa chủ hay không). Theo William Duiker thì đây là một vấn đề không tránh khỏi, xảy ra trong mọi cuộc cách mạng, khi nỗi uất hận tích lũy qua nhiều thế hệ có cơ hội được giải tỏa, quần chúng nhân dân sẽ tấn công dữ dội nhằm tiêu diệt toàn bộ giai cấp từng thống trị họ (trong Cách mạng Anh 1644 hoặc Cách mạng Pháp 1789, người dân Anh, Pháp đều tổ chức truy lùng, giết hại hàng loạt các quý tộc, tăng lữ thời kỳ phong kiến).[116]

Stéphane Courtois ước tính có khoảng 50.000 người bị xử bắn trong cuộc Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam.[117][118][119] Vũ Thư Hiên thì cho rằng con số người bị xử bắn là ít hơn rất nhiều:

"Người ta thường nói tới con số khoảng 15.000 người. Tôi nghĩ con số có thổi phồng. Trong tài liệu của Bernard Fall và Wesley Fishel con số còn được đẩy tới 50.000. Nếu tính tổng số xã đã cải cách ruộng đất là khoảng 3.000, mỗi xã có trung bình một hoặc hai người bị bắn, bị bức tử, bị chết trong tù (những xã có số người bị bắn lên tới ba hoặc bốn rất ít gặp, có những xã không có ai bị) thì số người chết oan (kể cả trong Chỉnh đốn Tổ chức, tính cả người bị bức tử) nằm trong khoảng từ 4.000 đến 5.000 người. Nói chung, đó cũng là đoán phỏng. Chẳng bao giờ chúng ta biết được con số chính xác nếu không có một cuộc điều tra khoa học".[120]

Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (mở rộng) Ban Chấp hành Trung ương khóa II họp từ ngày 25-8 đến 5-10-1956 tại Hà Nội đã nhận định nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng, phổ biến và kéo dài trong cải cách ruộng đất, đề ra những biện pháp sửa chữa khuyết điểm trong việc thi hành chính sách.[121]

Sau khi cải cách hoàn thành đã phân chia lại đất canh tác một cách công bằng cho đa số nông dân Bắc Bộ. Từ năm 1953 tới 1957, 810.000 hécta ruộng đất ở đồng bằng và trung du miền Bắc đã được chia cho 2 triệu hộ nông dân (khoảng 10 triệu dân), chiếm khoảng 72,8% số hộ nông dân ở miền Bắc. Trong khi đó, phân bố ruộng đất miền Bắc trước năm 1945, chỉ có 4% dân số đã chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất.[122]

  • Đài Tưởng niệm Nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản
  • Các vụ thảm sát chống Cộng sản
  • Phê phán Chủ nghĩa Xã hội
  • Phê phán chủ nghĩa Marx
  • Chủ nghĩa thực dân
  • Sách đen của Chủ nghĩa Cộng sản
  • Sách đen của Chủ nghĩa Tư bản
  • Nghị quyết 1481 của Hội đồng Nghị viện của Ủy hội châu Âu

  1. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2019.
  2. ^ The Anatomy of Revolution Revisited: A Comparative Analysis of England, France, and Russia. Bailey Stone. Đại học Cambridge xuất bản ngày 25 tháng 11 năm 2013, trang 335.
  3. ^ Communism: A History (Modern Library Chronicles) của tác giả Richard Pipes, trang 67.
  4. ^ Gráda, Cormac Ó (2011). Great Leap into Famine. UCD Centre For Economic Research Working Paper Series. tr. 9.
  5. ^ Frank Dikötter. Mao's Great Famine: The History of China's Most Devastating Catastrophe (1958-62). Walker & Company, 2010. tr. xii–xiii, 333. ISBN 0-8027-7768-6.
  6. ^ "Resolution on Certain Questions in the History of Our Party Since the Founding of the People's Republic of China" (1949-81). (Bắc Kinh: Foreign Languages Press, 1981). tr. 32.
  7. ^ Valentino, Benjamin A (2005). "Communist Mass Killings: The Soviet Union, China, and Cambodia". Final solutions: mass killing and genocide in the twentieth century. Đại học Cornell: trang 91–151. ISBN 0801472733.
  8. ^ a b Valentino (2005), Final solutions, trang 9.
  9. ^ a b Stephen Wheatcroft. The Scale and Nature of German and Soviet Repression and Mass Killings, 1930–45. Europe-Asia Studies, Bộ 48, Số 8 (Tháng 12 năm 1996), trang 1319–1353.
  10. ^ Harff, Barbara (1988). "Toward Empirical Theory of Genocides and Politicides: Identification and Measurement of Cases since 1945" 32. trang 359–371.
  11. ^ Fein, Helen (1993). "Soviet and Communist genocides and 'Democide'". Genocide: a sociological perspective; Contextual and Comparative Studies I: Ideological Genocides;. Sage Publications. tr. 75. ISBN 978-0-8039-8829-3.
  12. ^ Semelin (2009), Purify and Destroy, tr. 318.
  13. ^ Mann (2005), Dark Side of Democracy, tr. 17.
  14. ^ Benjamin Valentino, Paul Huth, Dylan Bach-Lindsay, (2004), "Draining the Sea: mass killing and guerrilla warfare", Tổ chức Quốc tế 58,2 (375–407): tr. 387.
  15. ^ Rauch, Jonathan (tháng 12 năm 2003). "The Forgotten Millions: Communism is the deadliest fantasy in human history (but does anyone care?)". The Atlantic.
  16. ^ Daniel Goldhagen (2009): Worse than War Eliminationism, and the Ongoing Assault on Humanity (Pubblic Affairs): tr. 54.
  17. ^ Rummel, RJ (15 tháng 12 năm 2004). "The killing machine that is Marxism".
  18. ^ a b Rosefielde (2009) Red Holocaust tr. 225–226.
  19. ^ “Medvedev's condemnation of Stalin cult should be applauded” (bằng tiếng Anh). Prospect Magazine (UK). tháng 10 năm 2009. Truy cập 14 tháng 2 năm 2015.
  20. ^ Stephen G. Wheatcroft, "Victims of Stalinism and the Soviet Secret Police: The Comparability and Reliability of the Archival Data. Not the Last Word", Nguồn: Nghiên cứu Âu-Á, Bộ 51, Số 2 (tháng 3 năm 1999), trang 315–345. Những con số cụ thể được trích trong sách: Từ năm 1921–53, số lượng nạn nhân bao gồm (mục đích chính trị): 4.060.306 vụ kết án; 799.473 tử hình; 2.634.397 bị bỏ tù và cải tạo lao động; 413.512 bị lưu đày; trường hợp khác: 215.942. Ngoài ra từ năm 1937–52 có 14.269.753 vụ kết án không liên quan đến chính trị, trong đó có 34.228 tử hình, 2.066.637 kết án dưới một năm, 4.362.973 kết án 2–5 năm, 1.611.293 kết án 6–10 năm, và 286.795 kết án hơn mười năm.
  21. ^ John Earl Haynes và Harvey Klehr. In Denial: Historians, Communism, and Espionage. Encounter Books, 2003. ISBN 1-893554-72-4: trang 14–27
  22. ^ John Keep. Recent Writing on Stalin's Gulag: An Overview. 1997
  23. ^ Bibliography: Courtois et al. The Black Book of Communism.
  24. ^ Ponton, G. (1994) The Soviet Era.
  25. ^ Tsaplin, V.V. (1989) Statistika zherty naseleniya v 30e gody.
  26. ^ Nove, Alec. Victims of Stalinism: How Many?, in Stalinist Terror: New Perspectives (có chỉnh sửa bởi J. Arch Getty và Roberta T. Manning). Xuất bản bởi Đại học Cambridge, 1993. ISBN 0-521-44670-8.
  27. ^ Davies, Norman. Europe: A History, Harper Perennial, 1998. ISBN 0-06-097468-0.
  28. ^ Simon Sebag Montefiore. Stalin: The Court of the Red Tsar. pp. 649: "Có khoảng 20 triệu người bị giết, 28 triệu người bị chuyển đi, trong đó 18 triệu người là phải vào gulag".
  29. ^ Dmitri Volkogonov. Autopsy for an Empire: The Seven Leaders Who Built the Soviet Regime. trang 139: "Từ 1929 đến 1953 nhà nước thành lập bởi Lenin và điều hành bởi Stalin đã tước đoạt mạng sống của 21,5 triệu người Xô Viết." ("Between 1929 and 1953 the state created by Lenin and set in motion by Stalin deprived 21.5 million Soviet citizens of their lives.").
  30. ^ “A Century of Violence in Soviet Russia”. Google Books. Truy cập 24 tháng 9 năm 2015.
  31. ^ Robert Gellately. Lenin, Stalin, and Hitler: The Age of Social Catastrophe. Knopf, 2007 ISBN 1400040051 trang 584.
  32. ^ Stéphane Courtois. The Black Book of Communism: Crimes, Terror Repression. Harvard University Press, 1999.
  33. ^ Jonathan Brent, Inside the Stalin Archives: Discovering the New Russia. Atlas & Co., 2008 (ISBN 0977743330).
  34. ^ Steven Rosefielde, Red Holocaust. Routledge, 2009. ISBN 0415777577 tr. 17.
  35. ^ Stephen Wheatcroft. The Scale and Nature of German and Soviet Repression and Mass Killings, 1930–45. Nghiên cứu Âu-Á, Bộ 48, Số 8 (tháng 12 năm 1996), tr. 1319–1353.
  36. ^ Naimark, Norman M. Stalin's Genocides (Human Rights and Crimes against Humanity). Đại học Princeton, 2010. tr. 133-135. ISBN 0691147841.
  37. ^ Anne Applebaum. The Worst of the Madness The New York Review of Books, ngày 11 tháng 11 năm 2010.
  38. ^ a b Michael Ellman, Stalin and the Soviet Famine of 1932–33 Revisited Europe-Asia Studies, Routledge. Bộ 59, Số 4, tháng 6 năm 2007, 663–693. PDF file.
  39. ^ Adam Jones. Genocide: A Comprehensive Introduction. Routledge; ấn bản thứ 2 (ngày 1 tháng 8 năm 2010). ISBN 041548619 tr. 124.
  40. ^ Sergei Petrovich Melgunov, The Red Terror in Russia, Hyperion Pr (1975), ISBN 0-883-55187-X See also: The Record of the Red Terror.
  41. ^ Lincoln, W. Bruce, Red Victory: A History of the Russian Civil War (1999) Da Capo Press.pp. 383–385 ISBN 0-306-80909-5.
  42. ^ Leggett, George (1987). The Cheka: Lenin's Political Police. Oxford University Press. pp. 197–198. ISBN 0198228627.
  43. ^ Orlando Figes. A People's Tragedy: The Russian Revolution 1891 — 1924. Penguin Books, 1997 ISBN 0198228627 p. 647.
  44. ^ Orlando Figes. A People's Tragedy: The Russian Revolution 1891 — 1924. Penguin Books, 1997 ISBN 0198228627 p. 643.
  45. ^ Donald Rayfield. Stalin and His Hangmen: The Tyrant and Those Who Killed for Him. Random House, 2004. ISBN 0375506322 p. 85.
  46. ^ Nicolas Werth, Karel Bartošek, Jean-Louis Panné, Jean-Louis Margolin, Andrzej Paczkowski, Stéphane Courtois, The Black Book of Communism: Crimes, Terror, Repression, Harvard University Press, 1999, hardcover, 858 pages, ISBN 0-674-07608-7 p. 98.
  47. ^ Peter Holquist. "Conduct merciless mass terror": decossackization on the Don, 1919.
  48. ^ Orlando Figes. A People's Tragedy: The Russian Revolution: 1891–1924. Penguin Books, 1998. ISBN 014024364X p. 660.
  49. ^ Robert Gellately. Lenin, Stalin, and Hitler: The Age of Social Catastrophe Knopf, 2007 ISBN 1400040051 pp. 70–71.
  50. ^ Courtois 1999, tr. 202 (photographic insert).Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFCourtois1999 (trợ giúp)
  51. ^ “Stalin's Terror”. Google Books. Truy cập 24 tháng 9 năm 2015.
  52. ^ Robert Gellately. Lenin, Stalin, and Hitler: The Age of Social Catastrophe. Knopf, 2007. ISBN 1400040051 p. 256.
  53. ^ Ellman, Michael (2002). "Soviet Repression Statistics: Some Comments". Europea-Asia Studies 34 (7): 1151–1172. "The best estimate that can currently be made of the number of repression deaths in 1937–38 is the range 950,000–1.2 million, i.e., about a million. This estimate should be used by historians, teachers, and journalists concerned with twentieth century Russian—and world—history".
  54. ^ N.G. Okhotin, A.B. Roginsky "Great Terror": Brief Chronology Memorial, 2007.
  55. ^ Alexander N. Yakovlev (2002). A Century of Violence in Soviet Russia. Yale University Press. pp. 165. ISBN 9780300103229. http://books.google.com/?id=ChRk43tVxTwC&pg=PA165&lpg=PA165. See also: Richard Pipes (2001). Communism: A History. Modern Library Chronicles. pp. 66.
  56. ^ Orlando Figes. The Whisperers: Private Life in Stalin's Russia. Metropolitan Books, 2007. ISBN 0-08050-7461-9, page 240.
  57. ^ Rummel, R. J. China's Bloody Century: Genocide and Mass Murder Since 1900 Transaction Publishers, 1991. ISBN 0-88738-417-X tr. 205: ước tính hơn 70 triệu người thiệt mạng.
  58. ^ a b Daniel Goldhagen. Worse Than War: Genocide, Eliminationism, and the Ongoing Assault on Humanity. PublicAffairs, 2009. ISBN 1-58648-769-8 tr. 53: ước tính khoảng 50 đến 70 triệu người Hán thiệt mạng, cộng thêm 1,2 triệu người Tây Tạng".
  59. ^ Rummel, Rudolph J. (2007). China's bloody century: genocide and mass murder since 1900. Transaction Publishers. tr. 223. ISBN 978-1-4128-0670-1.
  60. ^ Steven W. Mosher. China Misperceived: American Illusions and Chinese Reality. Basic Books, 1992. ISBN 0-465-09813-4. tr 72, 73.
  61. ^ Short, Philip (2001). Mao: A Life. Owl Books. tr. 437. ISBN 0-8050-6638-1.
  62. ^ Yang Kuisong. Reconsidering the Campaign to Suppress Counterrevolutionaries The China Quarterly, tháng 3 năm 2008, tr. 102-121. PDF.
  63. ^ Nikita Khrushchev 赫鲁晓夫 (1970). Khrushchev's Memoirs [赫鲁晓夫回忆录]. Little Brown & company. tr. 250–257. ISBN 0316831409.
  64. ^ Lardy, R. Nicholas; Fairbank, K. John (1987). "The Chinese economy under stress, 1958–1965". In Roderick MacFarquhar (ed.). The People's Republic, Part 1: The Emergence of Revolutionary China 1949–1965. Đại học Cambridge. trang 367. ISBN 978-0-521-24336-0.
  65. ^ Dikötter, Frank (1991). tr 114-115.
  66. ^ China: A Century of Revolution. Narr. Will Lyman. Ed. Howard Sharp. and Sue Williams Dir. (WinStar Home Entertainment, 1997); Demeny, Paul and Geoffrey McNicoll, Eds. "Famine in China". Encyclopedia of Population. Bộ 1 (New York: Macmillan Reference USA, 2003) trang 388-390.
  67. ^ Ashton, Hill, Piazza, and Zeitz (1984). Famine in China, 1958-61. Population and Development Review, Bộ 10, Số 4 (tháng 12 năm 1984). tr. 614.
  68. ^ Dikötter (2010). tr. 298 & 304.
  69. ^ Banister, Judith (1987). China’s Changing Population. Đại học Stanford. tr.3.
  70. ^ a b Worden, Robert (1987). "A Country Study: China". Library of Congress.
  71. ^ MacFarquhar and Schoenhals. trang 24.
  72. ^ a b Pan, Philip P (2008), Out of Mao's Shadow, Simon & Schuster, ISBN 1-41653705-8.
  73. ^ Harding, Harry. [1987] (1987). China's Second Revolution: Reform after Mao. Học viện Brookings. ISBN 0-8157-3462-X.
  74. ^ MacFarquhar and Schoenhals (2006) Mao's Last Revolution, trang 125.
  75. ^ The Chinese Cultural Revolution: Remembering Mao's Victims (viết bởi Andreas Lorenz tại Bắc Kinh, Der Spiegel Online. 15 tháng 5 năm 2007).
  76. ^ Zhong, Jin (2004), "In Search of the Soul of Lin Zhao[liên kết hỏng]" (PDF), HRI China (3).
  77. ^ "Tiananmen Anniversary: Memory of executed poet resonates". Christian Science Monitor. 25 tháng 6 năm 2014.
  78. ^ MacFarquhar, Roderick và Schoenhals, Michael. Mao's Last Revolution. Đại học Harvard, 2006. trang 258.
  79. ^ Yongming Zhou, Anti-drug crusades in twentieth-century China: nationalism, history, and state building, Lanham [u.a.] Rowman & Littlefield 1999, tr. 162.
  80. ^ Jane Ardley (2003). Tibetan Independence Movement: Political, Religious and Gandhian Perspectives. Routledge. tr. 22. ISBN 9781135790257.
  81. ^ "Tiananmen Killings: Were the Media Right?". BBC News (Châu Á-Thái Bình Dương).
  82. ^ Tiananmen Square, 1989: The Declassified History; Đại học George Washington.
  83. ^ Zhao, D. trang 171.
  84. ^ Kate Wright, "The Political Fortunes of the World Economic Herald", Australian Journal of Chinese Affairs, số 23, tr 121–132 (1990).
  85. ^ "Tankman"
  86. ^ "Mother Courage" Lưu trữ 2013-08-17 tại Wayback Machine. Time.
  87. ^ 六四北京戒严部队的数量和番号
  88. ^ Secret (GWU).
  89. ^ Zhang, Liang (2001). Nathan, Andrew; Link, Perry, eds. The Tiananmen Papers. Public Affairs. ISBN 978-1-58648-122-3.
  90. ^ a b Interview
  91. ^ Wu, Renhua (2009). 六四事件中的戒严部队. 真相出版社. ISBN 978-0-9823203-8-9.
  92. ^ Wu, Renhua. 89天安门事件大事记:6月4日 星期日 (Boxun).
  93. ^ Wu Renhua, (天安门事件的最后一幕/吴仁华)接上页博. (Boxun).
  94. ^ Thomas, Antony (2006). The Tank Man (Video).
  95. ^ Karl Schoenberger, "8 Sentenced to Die in Beijing Fighting: Are Convicted of Beating Soldiers, Burning Vehicles" L.A. Times.
  96. ^ "Front Line: Tank Man Script" (PBS).
  97. ^ Zhang, Liang (2001). Nathan, Andrew; Link, Perry, eds. The Tiananmen Papers. Public Affairs. ISBN 978-1-58648-122-3.
  98. ^ A Reassessment of How Many Died In the Military Crackdown in Beijing. The New York Times (1989).
  99. ^ How Many Really Died?. Time.
  100. ^ "Less Then a Dozen June Forth Protesters Still in Prison"”. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  101. ^ David Ownby, "Falun Gong in a new world", Tạp chí châu Âu nghiên cứu Đông Á, tháng 9 năm 2003, bộ 2 ấn hành 2, tr. 306.
  102. ^ Palmer (2007), tr. 247.
  103. ^ Palmer (2007), tr. 249.
  104. ^ Giang Trạch Dân, “Letter to Party cadres on the evening of ngày 25 tháng 4 năm 1999” tái bản tháng 6 năm 2001.
  105. ^ James Tong, Revenge of the Forbidden City. Đại học Oxford, 2009.
  106. ^ “[www.minghui.org/mh/articles/2013/4/9/哈尔滨戒毒所折磨法轮功学员的种种酷刑(图)-271760.html 哈尔滨戒毒所折磨法轮功学员的种种酷刑(图)]”. Pháp Luân Đại Pháp minhhue.net. Ngày 9 tháng 4 năm 2013.
  107. ^ "Falun Gong Persecution Factsheet". David Kilgour.
  108. ^ Worse Than Any Nightmare–Journalist Escapes China to Expose Concentration Camp Horrors and Bird Flu Coverup Lưu trữ 2015-10-27 tại Wayback Machine. Năm 2006 (Epoch Times).
  109. ^ "Bloody Harvest". (báo cáo của David Kilgour).
  110. ^ Alex Newman, ‘China’s Growing Spy Threat’, The Diplomat, 19 tháng 11 năm 2011.
  111. ^ "China Still Presses Crusade Against Falun Gong". (The New York Times).
  112. ^ Rosefielde, Steven (2009). Red Holocaust. Routledge. pp. 110. ISBN 978-0-415-77757-5.
  113. ^ “Hệ thống thông tin VBQPPL”. Truy cập 13 tháng 8 năm 2016.
  114. ^ "50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ và sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước". Nhà xuất bản Khoa học xã hội 2004, trang 250.
  115. ^ Bùi Tín — Nhìn lại cuộc Cải cách ruộng đất: Những bài học còn nóng hổi
  116. ^ Ho Chi Minh: A Life, William Duiker, trang 152.
  117. ^ Robert Laffont, Stéphane Courtois, Nicolas Werth Jean-Louis Panné, Andrzej Paczkowski, Karel Bartosek, Jean-Louis Margolin. Le Livre noir du communisme (bằng tiếng Pháp). ISBN 2-221-08-204-4. line feed character trong |tác giả= tại ký tự số 49 (trợ giúp)Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  118. ^ Tạp chí Time, ấn bản ngày 1 tháng 7 năm 1957, trang 13.
  119. ^ Rosefielde (2009), Red Holocaust, trang 110.
  120. ^ “Dem”.
  121. ^ “Hội nghị lần thứ mười (mở rộng) Ban chấp hành Trung ương Đảng”. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. 26 tháng 9 năm 2015. Truy cập 13 tháng 8 năm 2016.
  122. ^ Lê Mậu Hãn (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 3, Nhà xuất bản Giáo dục, tháng 3-2007.

  • Bảo tàng thế giới về Chủ nghĩa Cộng sản Lưu trữ 2010-12-13 tại Wayback Machine

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Các_vụ_thảm_sát_dưới_chế_độ_Cộng_sản&oldid=68931190”