Các phương pháp tinh chế hợp chất hữu cơ

I.HOÁ HỌC HỮU CƠ VÀ HỢP CHẤT HỮU CƠ.

Khái niệm hợp chất hữu cơ và hoá học hữu cơ.

Đặc điểm chung của các hợp chất hữu cơ.

II.Phương pháp tách biệt và tinh chế hợp chất hữu cơ.

Phương pháp chưng cất.

Phương pháp chiết.

Phương pháp kết tinh

Bạn đang xem nội dung Bài giảng Hóa học - Bài 25: Hoá học hữu cơ và hợp chất hữu cơ, để tải tài liệu về máy bạn hãy click vào nút TẢI VỀ

Bài 25. HOÁ HỌC HỮU CƠ VÀ HỢP CHẤT HỮU CƠI.HOÁ HỌC HỮU CƠ VÀ HỢP CHẤT HỮU CƠ.Khái niệm hợp chất hữu cơ và hoá học hữu cơ.Đặc điểm chung của các hợp chất hữu cơ.II.Phương pháp tách biệt và tinh chế hợp chất hữu cơ.Phương pháp chưng cất.Phương pháp chiết.Phương pháp kết tinhI. HỢP CHẤT HỮU CƠ VÀ HOÁ HỌC HỮU CƠ.1. Khái niệm hợp chất hữu cơ và hoá học hữu cơ.- Hợp chất hữu cơ là hợp chất của cacbon C [ trừ CO,CO2,muối cacbonat,cacbua, xianua]- Hoá học hữu cơ là ngành hoá học nghiên cứu các hợp chất hữu cơ.- Trong tự nhiên tồn tại hàng chục triệu các chất hữu cơ2. Đặc điểm chung của các hợp chất hữu cơa.Về thành phần cấu tạo.Có chứa C liên kết với các nguyên tử của nguyên tố khác như H,O, S, N, P, halogenLiên kết hoá học trong phân tử thường là liên kết cộng hoá trị.b.Về tính chất vật lý.Có nhiệt độ nóng chảy,và nhiệt độ sôi thấp.Thường không tan hoặc ít tan trong nước.Tan trong dung môi hữu cơ.c.Tính chất hoá học.Tham gia phản ứng đốt cháy,kém bền nhiệt.Phản ứng xảy ra chậm,không hoàn toàn,không theo một hướng xác định.Khi phản ứng cần cung cấp nhiệt hoặc xúc tác.II.PHƯƠNG PHÁP TÁCH BIỆT VÀ TINH CHẾ HỢP CHẤT HỮU CƠ.1.Phương pháp chưng cất.Dùng để tách hỗn hợp các chất có nhiệt độ sôi khác nhau.Nguyên tắc: khi đun sôi một hỗn hợp lỏng,chất nào có nhiệt độ sôi thấp hơn sẽ chuyển thành dạng hơi sơm và nhiều hơn. KHi gặp lạnh nó sẽ ngưng tụ thành chất lỏng, chủ yếu là chất có nhiệt độ sôi thấp hơn.Mô hình chưng cất.Bộ dụng cụ chưng cất thườnga. đèn cồn b.Bình cầu có nhánhc.Nhiệt kế d. Ống sinh hàne.Nước làm lạnh g.Bình hứng2.Phương pháp chiết.Dùng để chiết hai chất không hoà tan vào nhau,chất lỏng nào có khối lượng riêng nhỏ sẽ tách thành lớp trên,chất nào có khối lượng riêng lớn hơn sẽ nằm ở dưới.Dùng phễu để chiết.a. Lớp chất lỏng nhẹ hơn.b.Lớp chất lỏng nặng hơn.c.Khoá phễu chiết3.Phương pháp kết tinhDùng để tách chất rắn.Dựa vào độ tan khác nhauvà sự thay đổi độ tan theo nhiệt độ để tách biệt và tinh chế chúng.III.Luyện tập1.Trình bày các phương pháp tinh chế các chất sau. - Hỗn hợp etanol có lẫn nước. - Hỗn hợp nước có lẫn dầu. - Muối có lẫn các chất bẩn.2.So sánh sự giống và khác nhau giữa 3 phương pháp tinh chế và tách biệt các hợp chất hữu cơ.

File đính kèm:

  • Hoa_hoc_huu_co_va_cac_hop_chat_huu_co.ppt

Hãy chọn phát biểu đúng nhất về hoá học hữu cơ trong số các phát biểu sau :

Thành phần các nguyên tố trong hợp chất hữu cơ

Cặp hợp chất nào sau đây là hợp chất hữu cơ ?

Nhận xét nào đúng về các chất hữu cơ so với các chất vô cơ ?

Phản ứng hóa học của các hợp chất hữu cơ có đặc điểm là :

Thuộc tính nào sau đây không phải là của các hợp chất hữu cơ ?

Hợp chất hữu cơ được phân loại như sau :

Nhóm chất nào dưới đây đều là dẫn xuất của hiđrocacbon ?

Hợp chất CH2=CH2 có tên thay thế là

Hợp chất CH3CH2Cl có tên gốc – chức là

Bộ dụng cụ như hình vẽ bên mô tả cho phương pháp tách chất nào :

Phương pháp tách biệt và tinh chế nào sau đây không đúng với cách làm là:

Trong các chất sau chất nào được gọi là hiđrocacbon?

Hợp chất hữu cơ là hợp chất của nguyên tố

Công thức cấu tạo nào sau đây là sai?

Liên kết hóa học chủ yếu trong hợp chất hữu cơ là

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. CHƯƠNG 2: CẤU TRÚC KHÔNG GIAN PHÂN TỬ HỢP CHẤT HỮU CƠ 2.1. Chiết tách và tinh chế hợp chất hữu cơ Các hợp chất hữu cơ khi mới điều chế được hoặc tách từ động thực vật, thường ở dạng hỗn hợp không tinh khiết. Vì vậy muốn nghiên cứu chúng, muốn phân tích định tính hay định lượng chúng thì nhiệm vụ trước tiên là phải tách chúng thành từng chất riêng biệt, ở dạng tương đối nguyên chất. 2.1.1. Tinh chế chất rắn 2.1.1.1. Phương pháp kết tinh a. Khái niệm Kết tinh là một quá trình biến đổi pha của một chất từ rắn sang lỏng khi hoà tan chất rắn trong một dung dịch bão hoà, sau đó làm lạnh dung dịch bão hoà đó thu được chất rắn kết tinh Chú ý: Chất rắn kết tinh khác kết tủa: + Chắt rắn kết tinh: Có sự sắp xếp lại các phân tử và có cấu trúc mạng tinh thể. + Kết tủa: Kết tủa tinh thể và kết tủa vô định hình. b. Cơ sở lý thuyết Phương pháp kết tinh được dùng để tách và tinh chế các chất hữu cơ rắn, dựa trên nguyên tắc là các chất khác nhau có độ hoà tan khác nhau trong cùng một dung môi. Dung môi thích hợp được lựa chọn thường là dung môi trong đó độ hoà tan của chất cần tinh chế tăng khá nhanh theo nhiệt độ, tan kém ở nhiệt độ thường. Dung môi không tan trong tạp chất, dung môi không có lực tương tác về mặt hoá học đối với chất kết tinh. Dung môi sau khi kết tinh lại phải dễ bay hơi. Dung môi lựa chọn phải dễ kiếm, rẻ tiền. Bằng cách tạo dung dịch bão hoà ở nhiệt độ cao [thường là nhiệt độ sôi của dung môi], sau đó để nguội dung dịch thu được, chất cần tinh chế sẽ lắng xuống đáy bình [hay đáy cốc], các tạp chất sẽ ở lại trong dung dịch. Bằng cách kết tinh lại một số lần trong cùng một dung môi, hoặc trong các dung môi khác nhau, người ta có thể thu được tinh thể chất cần tinh chế ở dạng khá tinh khiết. Cũng có khi người ta dùng một dung môi có độ hoà tan với tạp chất nhiều hơn để loại tạp chất khỏi chất rắn cần tinh chế. Dung môi thường dùng là nước, alcol etylic, ancol metylic hay một alcol thích hợp khác, axeton, axit axetic, ete, benzen, cloroform, etyl axetat....hoặc đôi khi hỗn hợp giữa chúng. Khi cần tách hai hay nhiều chất có chứa trong hỗn hợp với những lượng tương đương nhau, người ta dùng phương pháp kết tinh phân đoạn. Chất kết tinh lại có hạt đều và trắng. 9
  2. Khi đã có chất rắn kết tinh, ta cần xác định nhiệt độ nóng chảy của nó bằng ống mao quản gắn với nhiệt kế nhúng trong một dung môi có nhiệ độ sôi cao, hoặc cách không khí, hoặc nhờ một máy chuyên dùng rồi đối chiếu với hằng số vật lý của chất đã cho, để biết được chất đó tinh khiết hoàn toàn chưa. 2.1.1.2. Phương pháp thăng hoa a. Khái niệm Thăng hoa là một quá trình biến đổi pha của một chất từ trạng thái rắn sang trạng thái hơi mà không thông qua trạng thái lỏng. b. Cơ sở lý thuyết Một số chất như iốt, long não, naphtalen, menton, clorua sắt [II],... có khả năng thăng hoa, vì vậy người ta có thể dùng phương pháp thăng hoa ở áp suất thường hoặc áp suất thấp để tinh chế chúng. Phương pháp tiến hành: Gia nhiệt một chất rắn để bay hơi, làm lạnh hơi của chất rắn đó thì ta sẽ thu được chất rắn kết tinh có độ tinh khiết cao, còn tạp chất không thăng hoa thì nằm lại ở đáy bình. * Ưu điểm: Công nghệ đơn giản, thời gian ngắn, độ tinh khiết cao, giá thành rẻ. * Nhược điểm: Trong thực tế không có nhiều chất thăng hoa. 2.1.2. Tinh chế chất lỏng 2.1.2.1. Phương pháp chưng cất a. Khái niệm Chưng cất là quá trình làm bay hơi chất lỏng, sau đó là lạnh và thu chất lỏng có độ tinh khiết cao hơn. b. Các phương pháp chưng cất - Chưng cất đơn giản Trong trường hợp cần tinh chế một chất lỏng, tách nó ra khỏi tạp chất rắn không bay hơi, ta chỉ cần tiến hành chưng cất đơn giản, nghĩa là chuyển nó sang pha hơi trong một bình cất có nhánh rồi ngưng tụ hơi của nó bằng ống sinh hàn vào một bình hứng khác. - Chưng cất phân đoạn Phương pháp chưng cất phân đoạn dùng để tách hai hay nhiều chất lỏng có nhiệt độ sôi khác nhau tan lẫn hoàn toàn trong nhau dựa trên nguyên tắc có sự phân bố khác nhau về thành phần các cấu tử giữa pha lỏng và pha hơi ở trạng thái cân bằng [ở cùng nhiệt độ] Nếu hai chất lỏng không tương tác với nhau, có thể biểu diễn sự phụ thuộc của nhiệt độ sôi của chất lỏng và nhiệt độ ngưng tụ của hơi phụ thuộc vào thành phần hỗn hợp hai chất đó [hình 2.1] 10
  3. T0 T2 T0 T1 TA Thành phần Hình 2.1 B A X2 ’ X1 ’ X1 Qua hình 2.1 nhận thấy rằng, bằng cách lặp đi lặp lại nhiều lần quá trình bay hơi - ngưng tụ, bay hơi - ngưng tụ lại,... ta dần dần có thể thu được cấu tử A có nhiệt độ sôi thấp hơn ở dạng gần như tinh khiết. Vì vậy, người ta dùng phương pháp tinh luyện bằng cách lắp trên bình ngưng một cột cao có nhiều đĩa giúp cho việc tái tạo quá trình bay hơi - ngưng tụ trên. Nhờ vậy, chất lỏng A dễ bay hơi dần dần thoát lên trên ở trạng thái ngày càng tinh khiết, còn chất lỏng B có nhiệt độ sôi cao hơn, ngưng tụ trở lại bình cất. Có thể dùng loại cột lắp đầy các ống thuỷ tinh hay sứ thay cho cột đã nói trên và hiệu quả của cột được tính bằng “số đĩa lý thuyết”. Trong trường hợp có tương tác yếu giữa hai chất lỏng [solvat hoá hay tổ hợp] thì thu được hai dạng đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc nhiệt độ sôi và ngưng tụ vào thành phần hỗn hợp: một dạng với nhiệt độ sôi của hỗn hợp đẳng phí cựctiểu [hình 2.2a] và một dạng với nhiệt độ sôi cực đại [hình 2.2b]. C t tB t tB tA tA C A X0 B A X0 B Thành phần Thành phần Hình 2.2a Hình 2.2b 11
  4. Trong trường hợp hỗn hợp đẳng phí có nhiệt độ sôi cực tiểu [thấp hơn hai cấu tử ban đầu], càng lên phía trên của cột cất, hỗn hợp hơi và lỏng càng gần thành phần của hỗn hợp đẳng phí, trong bình cất sẽ còn lại chất A hay B nguyên chất tuỳ theo ta xuất phát từ hỗn hợp có thành phần phía bên trái hay bên phải hình 2.2a. Trong hỗn hợp đẳng phí có nhiệt độ sôi cực đại, càng lên phía trên của cột cất thì càng giàu cấu tử A hoặc B, còn lại trong bình sẽ là hỗn hợp càng gần với thang phần của hỗn hợp đẳng phí [hình 2.2b]. - Chưng cất chân không [hay giảm áp] Khi cần chưng cất một chất lỏng dễ bị phân huỷ ở nhiệt độ cao, người ta phải dùng phương pháp cất chân không, tức là dùng bơm hút để giảm áp suất trên bề mặt chất lỏng. Vì chất lỏng sẽ sôi khi áp suất hơi riêng phần đạt đến áp suất khí quyển, nên bằng phương pháp này, người ta có thể giảm được nhiệt độ sôi của nó một cách đáng kể, tránh hiện tượng phân huỷ hay cháy nổ. Nhờ phương trình Clapayron - clausius, người ta có thể tính được sự phụ thuộc của áp suất hơi một chất vào nhiệt độ. Tuy nhiên, có thể áp dụng qui luật thực nghiệm gần đúng như sau: Khi áp suất khí quyển trên bề mặt một chất lỏng giảm đi một nửa, nhiệt độ sôi của nó bọ hạ thấp đi khoảng 150C. - Cất lôi cuốn hơi nước Ta cũng có thể tinh chế một chất lỏng không hoà tan trong nước, bằng phương pháp cất lôi cuốn theo hơi nước để hạ điểm sôi của nó. Phương pháp này dựa trên nguyên tắc: Khi hai hay nhiều chất lỏng không trộn lẫn với nhau nằm trong một hỗn hợp, áp suất chung p của chúng bằng tổng áp suất riêng phần p1+p2, nghĩa là nó luôn luôn lớn hơn áp suất hơi riêng phần của từng cấu tử bất kỳ nào. Do đó, nhiệt độ sôi của hỗn hợp sẽ thấp hơn nhiệt hơn nhiệt độ sôi của cấu tử sôi thấp nhất. Tỷ lệ hơi cất sang bình ngưng [về số mol] sẽ bằng tỷ lệ áp suất hơi riêng phần của chúng ở nhiệt độ sôi của hỗn hợp. Nhờ vậy ta có thể tính toán được lượng nước cần thiết để lôi cuốn hết chất cần tinh chế. Sau khi đã dùng phương pháp cất lôi cuốn theo hơi nước, thường ta phải chiết tách các chất cần tinh chế ra khỏi nước bằng một dung môi thích hợp, rồi lại tiến hành cất phân đoạn để tách dung môi. Cuối cùng chưng lấy chất tinh khiết bằng bình cất có gắn nhiệt kế dưới áp suất thường hay giảm áp, với sự kiểm tra nhiệt độ của chất cần tinh chế. - Phương pháp chiết Chiết là dùng một dung môi thích hợp có khả năng hoà tan chất đang cần tách và tinh chế để tách chất đó ra khỏi môi trường rắn hoặc lỏng khác. Thường người ta dùng một dung môi sôi thấp và ít tan trong nước như ete, cloroform để chiết tách chất hữu cơ từ môi trường nước [các chất hữu cơ cần tinh chế này thường tan ít trong nước hoặc ở dạng nhũ tương lẫn với nước]. Sau khi lắc dung môi với hỗn hợp chất cần tinh chế và nước, chất đó sẽ chuyển phần lớn lên dung môi và ta có thể dùng phễu chiết để tách riêng dung dịch thu được khỏi nước. Bằng cách lặp lại việc chiết một số lần, ta có thể tách được hoàn toàn chất cần tinh chế vào dung môi đã chọn, sau đó cất loại dung môi và cất lấy chất tinh khiết ở nhiệt độ và áp suất thích hợp. 12
  5. Người ta cũng thường chiết một chất từ hỗn hợp rắn bằng một dung môi hoặc hỗn hợp dung môi với một dụng cụ chuyên dùng đặc biệt gọi là bình chứa Soxhlet. Dung môi được đun nóng, cho bay hơi liên tục chảy vào bình chứa hỗn hợp cần chiết tách [thường được gói bằng giấy lọc], nó sẽ hoà tan chất rắn cần tinh chế và nhờ một ống xiphông, dung dịch chảy xuống bình cầu bên dưới, dung môi nguyên chất lại tiếp tục được cất lên. Quá trình được tiếp tục cho đến khi sự chiết tách được hoàn toàn. Phương pháp này tiết kiệm được dung môi và đạt hiệu quả tương đối cao. 2.1.3. Phương pháp sắc ký 2.1.3.1. Khái niệm Phương pháp sắc ký được Xvét phát minh ra để tách các chất bằng hấp phụ từ đầu thế kỷ này [1903], đến nay đã trở thành một phương pháp tinh chế, định tính, định lượng rất quan trọng trong hoá học hữu cơ, được phát triển rất mạnh và được sử dụng rộng rãi trong hầu hết các phòng thí nghiệm hiện đại. Nguyên tắc chung của phương pháp sắc ký như sau: hỗn hợp chất nghiên cứu ở pha lỏng [dung dịch] hay pha khí được cho đi qua bề mặt chất hấp phụ ở pha rắn hay pha lỏng khó bay hơi. Do khả năng tương tác với pha tính khác nhau nên các chất khác nhau trong hỗn hợp nghiên cứu chuyển động với vận tốc khác nhauvà dần được phân tách ra tưng cấu tử riêng biệt. Người ta phân chia ra thành các loại sắc ký khác nhau. 2.1.3.2. Sắc ký cột [sắc ký hấp phụ] Trong phương pháp sắc ký cột, người ta dùng các cột thuỷ tinh hay đôi khi bằng kim loại, có kích thước thông thưòng là 15x1; 25x2; 40x3 hoặc 60x4 cm; dùng các chất hấp phụ ở dạng bột , thường là nhôm oxyt, silicagel, tinh bột, bari sunfat... hoặc một chất bất kỳ khác không tương tác với chất nghiên cứu và dung môi. Hỗn hợp chất nghiên cứu được hoà tan trong một dung môi trơ thích hợp và cho chảy qua cột. Các chất trong hỗn hợp nghiên cứu dần dần tách khỏi nhau và chúng chiếm các vị trí khác nhau trên cột hấp phụ. Vì lúc đầu người ta tiến hành trên cột thí nghiệm với các chất màu, khi chúng ta tách ra tạo thành các khoanh màu khác nhau trên ống hấp phụ nên phương pháp này được gọi là phương pháp sắc ký. Sau đó người ta tách riêng từng chất hoặc bằng cách cắt cột hấp phụ thành tưng đoạn ứng với từng chất, hoặc liên tục đổ thêm dung môi, các chất sẽ lần lượt được rửa trôi và thoát ra bình hứng ở các thời điểm khác nhau. Có thể dùng phương pháp này để tách các chất không có màu, nhưng phải dùng các chất chỉ thị hay thuốc thử thích hợp để nhận biết khi nào chúng bắt đầu thoát ra bình hứng. 2.1.3.3. Sắc ký giấy Sắc ký giấy là một dạng đặc biệt của sắc ký phân bố do Consden, Gordon và Martin phát minh năm 1944. Pha tĩnh ở đây là nước thấm trên giấy lọc đặc biệt [xenlulôza tinh khiết]. Dung dịch chất nghiên cứu được chấm trên một đầu của dải giấy [cách mép giấy chừng 2,5cm] và mỗi giọt cách nhau chừng 2cm. Người ta thường nhỏ đồng thời cả dung dịch mẫu đã biết để so sánh. Sau đó đầu giấy lọc 13
  6. được nhúng trong một dung môi hay hỗn hợp dung môi thích hợp đã bão hoà nước. Do lực mao dẫn, dung môi sẽ thấm dần lên giấy sắc ký, kéo theo chất nghiên cứu chuyển động lên phía trên và tạo vết trên giấy mà người ta có thể nhận biết được bằng mắt thường hoặc bằng chất chỉ thị. Tỷ số Rt giữa độ dịch chuyển của chất nghiên cứu và dung môi được gọi là hằng số sắc ký, hằng số này là đại lượng quan trọng đặc trung cho từng chất. Để thu được kết quả tách tốt hơn, người ta có thể lặp lại thao tác trên với một dung môi khác và theo chiều thẳng góc với chiều chạy lần trước [sắc ký phân bố hai chiều]. Sắc ký giấy thường dùng để định tích các chất, nhưng cũng có thể dùng để định lượng sơ bộ dựa vào độ đậm và tiết diện của vết chất nghiên cứu. 2.1.3.4. Sắc ký lớp mỏng Phương pháp này được Izmailop và Schreiber đề nghị từ năm 1938, được Stan phát triển và hoàn thiện [1955], khiến nó có ứng dụng rất rộng rãi. Người ta tráng một lớp mỏng chất hấp phụ [Al2O3, silicagen] lên một tấm kính kích thước khoảng 10x12 cm hoặc 20x20 cm, chấm một giọt chất nghiên cứu lên một đầu bản [cách mép khoảng 2cm] rồi cho dung môi chạy như sắc ký giấy. Phương pháp sắc ký lớp mỏng thường cho hiệu quả tách cao, thời gian ngắn, lượng chất ít, thường được dùng để định tính và tách các hợp chất thiên nhiên. Nó cũng được các nhà hoá học tổng hợp sử dụng thường xuyên để nhanh chóng phân tách các chất thu được trong phản ứng. 2.1.3.5. Sắc ký khí lỏng Những năm gần đây sắc ký khí lỏng [sắc ký khí] được phát triển mạnh mẽ, mở ra khả năng lớn trong phân tích và tách các hợp chất dễ bay hơi. Phương pháp thông thường là cho vài microlit chất lỏng phân tích vào thiết bị bay hơi rồi dùng dòng khí mang [thường là He] lôi cuốn hơi của chúng qua một ống dài nung nóng nạp đầy một chất rắn xốp [gạch chịu lửa tán nhỏ, nhôm oxyt, silicagel, than hoạt tính...] được tẩm bằng chất lỏng khó bay hơi như dầu silicon, polyetylen glycol, các este sôi cao...Khi đó xảy ra sự phân bố các chất giữa pha lỏng và pha khí, đồng thời chỉ cần có sự khác nhau nhỏ trong sự phân bố này giữa các cấu tử trong hỗn hợp cũng đủ để phân tách hoàn toàn các chất lỏng trong hỗn hợp, vì nó được lặp đi lặp lại nhiều lần trong ống dài. Người ta thường nhận biết từng chất thoát ra ở cuối ống bằng cách đo sự thay đổi độ dẫn nhiệt của khí thoát ra. Tuy nhiên việc phát hiện một pic trong sơ đồ sắc ký khí mới là điều kiện cần, nhưng chưa đủ về độ tinh khiết của một chất, phương pháp sắc ký khí vẫn rất hữu ích khi phân tích một lượng nhỏ hỗn hợp cũng như để tách và tinh chế các chất. Cần nhấn mạnh rằng, trong phương pháp sắc ký, nói chung cấu trúc phân tử của các hợp chất có ảnh hưởng lớn đến cân bằng hấp phụ, cũng như hệ số phân bố của chúng giữa các pha, do đó liên quan chặt chẽ đến hằng số Rt. Vì vậy kết quả phân tích sắc ký cũng cho ta thấy những thông tin bổ ích về cấu trúc của hợp chất. 14
  7. Sau quá trình tinh chế, ta cần kiểm tra độ tinh khiết của hợp chất thu được bằng cách đo nhiệt độ nóng chảy [đối với chất rắn] hoặc nhiệt độ sôi [đối với chất lỏng] hoặc đo tỷ khối, chỉ số khúc xạ, chụp phổ... Một chất được coi là tinh khiết nếu qua nhiều lần tinh chế, các hằng số vật lý của nó không thay đổi. 2.2. Công thức phân tử hợp chất hữu cơ Để xác định được công thức phân tử các chất hữu cơ, người ta tiến hành xác định các thành phần nguyên tố và khối lượng phân tử của chúng. 2.2.1. Phân tích nguyên tố Các chất hữu cơ ngoài cacbon còn thường có hydro, oxy, nitơ, halogen, lưu huỳnh,... Để xác định sự có mặt và hàm lượng của chúng, người ta sử dụng các phương pháp định tính và định lượng riêng. 2.2.1.1. Xác định cacbon và hydro Sự có mặt của cacbon và hydro trong một hợp chất thường được xác định bằng cách đốt cháy hợp chất đó trong oxi, với xúc tác là CuO: CxHyOz + [x + y/4 - z/2] O2 x CO2 + y/2 H2O CO2 thoát ra được nhận biết bằng phản ứng làm đục nước vôi trong: Ca[OH]2 + CO2 CaCO3 + H2O H2O được nhận biết bằng cách ngưng tụ trên phần lạnh của ống đốt hay bằng CuSO4 khan. Để định lượng cacbon và hydro, người ta đốt cháy một lượng cân chính xác chất nghiên cứu bằng dòng oxy có mặt CuO trong ống thạch anh, rồi hấp thụ hơi nước thoát ra bằng perclorat magie [MgClO4]; CO2 hấp thụ bằng tẩm sút [NaOH]. Các chất hấp thụ này đựng trong ống chữ U và khối lượng của chúng được cân chính xác trước và sau khi thí nghiệm kết thúc. Hiệu số khối lượng giữa hai lần cân cho ta biết khối lượng H2O và CO2 bị hấp thụ. Nếu trong thành phần chất nghiên cứu có halogen, lưu huỳnh, nitơ, chúng có thể tạo ra các oxit của nitơ, của lưu huỳnh, halogen và các oxit halogen hydric và chúng có thêr ảnh hưởng đến kết quả cân các ống hấp thụ. Để loại trừ chúng, trong ống nung ở phần cuối, người ta dùng các sợi bạc để giữ halogen và oxit lưu huỳnh, dùng P2O5 để phân huỷ oxit nitơ. 2.2.1.2. Xác định nitơ Để xác định sự có mặt của nitơ trong hợp chất nghiên cứu, ta có thể đốt nóng mẫu thử với natri kim loại, nitơ cùng cacbon trong mẫu thử sẽ chuyển thành NaCN, hoà tan sản phẩm tạo thành trong nước cất, lọc lấy dung dịch; thêm lần lượt các ion Fe2+, Fe3+, axit hoá sẽ tạo thành kết tủa màu xanh: 6CN- + Fe2+ [Fe[CN]6 ]4- 4Fe3+ + 3[Fe[CN]6 ]4- Fe4 [Fe[CN]6 ]3 màu xanh Để định lượng nitơ, người ta dùng phương pháp Dumas hoặc Kjeldahl. Nguyên lý của phương pháp Dumus là oxy hoá hợp chất hữu cơ bằng CuO rồi lôi cuốn sản phẩm bằng một dòng CO2 tinh khiết. Nitơ trong chất hữu cơ sẽ chuyển thành N2 tự do. Ta có thể thu N2 thoát ra bằng một buret úp ngược trong 15
  8. chậu chứa dunh dịch KOH đậm đặc. H2O sẽ ngưng tụ trong dunh dịch; CO2 hoàn toàn bị hấp thụ bởi KOH; N2 thoát lên được và ta có thể đo đươch thể tích của nó một cách dễ dàng. Phương pháp Kjeldahl tuy không phổ biến bằng phương pháp Dumus song trong nhiều trường hợp cũng rất thuận tiện, nó cho phép xác định nhanh hàm lượng nitơ trong mẫu thử. Bằng cách vô cơ hoá hợp chất nghiên cứu khi nung nóng trong H2SO4 đậm đặc có xúc tác selen [khi cần có thể thêm chất oxy hoá] ta chuyển nitơ thành muối amon sunfat, sau đó kiềm hoá dung dịch thu được rồi lôi cuốn NH3 theo hơi nước sang một bình khác và chuẩn độ lượng NH3 tạo thành. 2.2.1.3. Xác định halogen Sự có mặt của halogen trong hợp chất hưu cơ được xác định bằng cách tẩm mẫu giấy vào sợi dây đồng rồi đốt, nếu hợp chất có chứa halogen sẽ tạo ra ngọn lửa màu xanh lục. Người ta định lượng halogen bằng cách oxy hoá mẫu chất trong bình chứa oxy nguyên chất, có xúc tác Pt, khi đó sẽ tạo halogen hydric, hấp thụ bằng dung dịch HNO3 và sau đó xác định bằng phản ứng nitrat bạc: AgNO3 + HX AgX + HNO3 Bằng cách so độ đục hoặc chuẩn độ lượng Ag+ dư, người ta tính được hàm lượng halogen trong mẫu chất nghiên cứu. 2.2.1.4. Xác định lưu huỳnh Khi đun chảy hợp chất hưu cơ với kim loại, lưu huỳnh sẽ chuyển thành Na2S, sau đó ta có thể dễ dàng nhận biết được bằng cách phản ứng tạo kết tủa PbS hay Ag2S: Pb[NO3]2+ Na2S PbS + 2NaNO3 Để định lượng lưu huỳnh, người ta oxy hoá mẫu chất hưu cơ bằng HNO3 bốc khói trong ống hàn kín ở 200 ÷ 300oC, sau vài giờ lưu huỳnh trong mẫu chất sẽ chuyển hoá thành H2SO4, ta có thể định bằng phản ứng vớiBaCl2, rồi xác định lượng BaSO4 bằng phương pháp trọng lượng: H2SO4 + BaCl2 = BaSO4 + 2HCl 2.2.1.5. Xác định các nguyên tố khác Ngoài các nguyên tố kể trên, trong một số trường hợp chấy hữu cơ có thể còn chứa P, Si, một số kim loại khác... Ta cũng oxy hoá hợp chất hữu cơ bằng HNO3 bốc khói trong ống hàn kín hoặc nung chảy nó với hỗn hợp NaNO3 và Na2CO3. Các nguyên tố nói trên sẽ chuyển hoá thành các hợp chất vô cơ tương ứng [thường với hoá trị dương cao nhất], sau đó ta định lượng chúng bằng các phương pháp vô cơ thông thường. 2.2.1.6. Xác định oxy Hàm lượng oxy trong các hợp chất thường được xác định một cách gián tiếp, tức là ta lấy khối lượng mẫu đem đốt trừ đi khối lượng tổng các nguyên tố vừa xác định theo các phương pháp trên, hoặc lấy 100% trừ đi hợp phần của các nguyên tố khác. 16
  9. Ta cũng có thể xác định một cách trực tiếp bằng cách chuyển oxy trong hợp chất hữu cơ thành CO rồi oxy hoá bằng I2O5: 5CO +I2O5 5CO2 + I2 Chuẩn độ lượng I2, CO2 được giải phóng ra hoặc chuẩn độ lượng I2O5 dư, ta tính được lượng CO hình thành. Tóm lại, nhờ những phân tích chế tạo cực kỳ chính xác, nhờ những thiết bị phân tích ngày càng hoàn thiện, người ta có thể tiến hành phân tích vi lượng hoặc bán vi lượng, với những chất nhỏ [vài mg] cũng đủ cho ta kết quả đáng tin cậy. Từ những năm 60, người ta đã phát hiện và sử dụng các phướng pháp siêu vi lượng, chỉ cần cân mẫu chất [trên cân điện tử tự động] còn các sản phẩm đốt cháy được xác định bằng những thiết bị tinh vi trên cơ sở đo độ dẫn nhiệt của các chất khí nhờ bộ phát điện Đetectơ. Với phương pháp này, người ta có thể xác định đồng thời C, H, N hoàn toàn tự động trong vòng 10 phút, lượng mẫu chỉ cần khoảng 1 mg. 2.2.2. Thiết lập công thức tổng quát của hợp chất Sau khi xác định thành phần khối lượng [hoặc thành phần trăm khối lượng] của từng nguyên tố trong chất nghiên cứu, bằng cách chia cho nguyên tử lượng của các nguyên tố tương ứng, ta sẽ được tỷ lệ giữa số nguyên tử từng nguyên tố trong phân tử, từ đó thiết lập được công thức tổng quát của các chất đã cho dưới dạng [CxHyOzNt]n Ví dụ: Đốt cháy 1,5 mg một chất A tạo thành 0,9 mg H2O; 1,76 mg CO2 và 0,224 ml N2 [đktc]. Ta tính khối lượng từng nguyên tố trong mẫu chất như sau: 0,9 mg H2O ≈ 0,0009/ 18 ptg ≈ [0,0009/18] x 2 = 0,0001g H = 0,1 mg H 1.76 mg CO2 ≈ 0,00176/44 ptg ≈ [0,00176/44] x 12 = 0,00048 g C = 0,48 mg C 0,224 ml N2 ≈ 0,224/22,4 ptg ≈ [0,224/22,4] x 28 = 0,28 mg N Lượng oxy: mO = 1,5 -[0,48+0,1+0,28] = 0,64 mg Ta có: CxHyOzNt + [x+y/4-z/2] O2 xCO2 +y/2 H2O + t/2 N2 Và x : y : z : t = 0,48/12 : 0,1/1 : 0,64/16 : 0,28/14 = 2 : 5 : 2 : 1 Vậy công thức tổng quát của chất nghiên cứu là [C2H5O2N]n. Để xác định n ta phải xác định khối lượng phân tử chất đã cho hoặc đôi khi không thực hiện được trong điều kiện đó thì phải biện luận. 2.2.3. Xác định khối lượng phân tử của một chất Để tìm được công thức nguyên [công thức phân tử] của một hợp chất, ta phải xác định khối lượng phân tử, hay nói chính xác hơn là xác định phân tử gam của chất nghiên cứu. Có nhiều phương pháp xác định phân tử lượng. a. Nếu mẫu chất nghiên cứu là chất lỏng dễ bay hơi, ta cho bay hơi ở nhiệt độ thích hợp, đo thể tích hơi ở điều kiện đó rồi tính phân tử lượng của nó theo phương trình: pV = nRT = [m/M]RT ptg: M = mRT/pV Trong đó : p - áp suất; 17
  10. V - thể tích hơi chất nghiên cứu; m - khối lượng chất bay hơi; T - nhiệt độ tuyệt đối; R - hằng số khí. b. Nếu đo được tỷ khối hơi của chất đã cho đối với một chất khí nào đó, ta có thể tính được phân tử gam của nó một cách dễ dàng. Ví dụ, hơi chất A nặng gấp 25 lần H2 thì phân tử lượng của nó phải là M = 25 x 2 = 50. c. Dựa vào định luật Raoult Dung dịch một chất khó bay hơi trong một dung môi nào đó có luôn có nhiệt độ sôi cao hơn, nhiệt độ đông đặc thấp hơn so với dung môi nguyên chất và độ tăng điểm sôi hay độ hạ điểm kết tinh luôn tỷ lệ với nồng độ chất tan. t = KC K - hệ số tỷ lệ, đươc gọi là hằng số nghiệm sôi hay nghiệm lạnh, đặc trưng cho từng loai dung môi; C - nồng độ mol/l hay ptg/1000 g dung môi Bằng cách đo mức tăng nhiệt độ sôi [phương pháp nghiệm sôi] hoặc mức hạ điểm kết tinh [phương pháp nghiệm lạnh] của dung dịch chất nghiên cứu trong dung môi chất thích hợp, ta dễ dàng xác định được nồng độ chất tan và do đó xác định được phân tử gam của chúng. Người ta hay dùng campho làm dung môi, vì hằng số nghiệm lạnh của nó khá cao [khi hoà tan một phân tử gam chất tan trong 1000 g campho, điểm đông đặc hạ đi t =37,7oC. d. Các phương pháp khác Bằng cách tương tự, người ta cũng có thể đo áp suất thẩm thấu của dung dịch chất tan, đo độ nhớt của dung dịch hoặc bằng phương pháp khối phổ, từ đó xác định được khối lượng phân tử chất đã cho. Nếu biết rõ số nhóm chức trong một phân tử chất nghiên cứu, bằng cách xác định số nhóm chức cũng cho phép xá định phân tử lượng của chúng. Ví dụ, 0,92 g một alcol đơn chức tác dụng với một lượng dư Na cho 0,224 l H2 [đktc] thì phân tử lượng của alcol phải là: 0,92/ [0,224 x 2]/22,4 = 46 2.2.4. Thiết lập công thức nguyên của một hợp chất Sau khi xác định được công thức tổng quát của chất nghiên cứu khối lượng phân tử của nó, ta dễ dàng tìm ra được trị số của n và do đó thiết lập công thức nguyên của hợp chất. Ví dụ, đã lập được công thức tổng quát của chất A dưới dạng [C2H5O2N]n như ví dụ ở trên, đồng thời bằng một trong các phương pháp vừa nêu ta xác định được phân tử lượng của chất A là 75, ta tính được: [2 x 12+5 x 1+2 x 16+1 x 14]n = 75 75n = 75 n = 1 Vậy công thức nguyên của A phải là C2H5O2N. 18
  11. Tuy vậy, nhiều khi trong điều kiện thực nghiệm không cho phép ta thực hiện tất cả các bước trên, có nghĩa là phải giải bài toán tìm công thức nguyên khi số phương trình toán học lập được it hơn số ẩn số, trong khi trường hợp này ta phải biện luận. Phương pháp biện luận phải dựa vào đặc điểm của hợp chất đã cho để xác định trị số n trong công thức tổng quát, hoặc dựa vào các bất phương trình phản ánh mối tương quan giữa số nguyeen tử của các nguyên tố cơ bản. Ví dụ, một hydrocacbon có tỷ khối đối với hydro là 21. Hãy tìm công thức của nó. Ta có khối lượng phân tử là 21x2 = 42. Nếu gọi công thức của hydrocacbon đó là CxHy, ta có: 12x + y = 42 Suy ra: 12x < 42 Hay : x < 3,5 Mặt khác CxHy là hydrocacbon nên số nguyên tử H trong phân tử không vượt quá 2x + 2, nghĩa là: y ≤ 2x + 2 42-12x ≤ 2x + 2 40 ≤ 14x 2,8 ≤ x Kết hợp với lập luận trên, ta có 2,8 ≤ x
  12. - Đồng phân về vị trí của nhóm chức. Các hợp chất này có cùng nhóm chức nhưng khác nhau về sự phân bố vị trí của nhóm chức: C H 3CHCH 2CH 3 CH 3 CH 2 CH 2CH 2 OH OH 1-Butanol 2-Butanol - Đồng phân về nhóm chức: C H 3 CH 2CH 2CH 2 OH CH 3CH 2 -O-CH 3 ancol ete - Đồng phân về cách chia đoạn mạch của nhóm chức: C H 3 C-O-CH 2CH 2 CH 3 CH 3-O-C-CH 2CH 2CH 3 O O butyrat metyl axetat n - propyl Hai chất đều thuộc este, nhưng xuất phát từ hai cặp axit và ancol khác nhau, axetat n - propyl hình thành từ CH3COOH + CH3CH2CH2OH, còn este butyrat metyl hình thành từ CH3CH2CH2COOH + CH3OH. b. Đồng phân hình học * Khái niệm: Là đồng phân cấu hình do sự sắp xếp khác nhau của các nhóm thế ở 2 bên nối đôi hay mặt phẳng vòng no. Sự sắp xếp các nhóm thế ở hai bên nối đôi thực chất là hai bên mặt phẳng π . Mặt phẳng π và mặt phẳng vòng là những mặt phẳng cố định. Nếu hai nhóm thế giống nhau hay gần giống nhau ở cùng phía của mặt phẳng gọi là đồng phân cis, khác phía là đồng phân trans. Ví dụ: H3C H 3C CH 3 H C C C C H H H CH 3 trans-2-buten cis-2-buten Cl H Cl Cl H H Cl H H H H H trans-diclopropan cis-diclopropan 20
  13. Cách qui định vị trí hai nhóm thế giống nhau trên đây chỉ là trường hợp đặc biệt trong cách qui định tổng quát về vị trí của 2 nhóm thế trong mạch chính, ví dụ: H 3C H3 C C2H5 CH3 > H CH 3 C C C C C 2 H 5 > CH 3 H H H C 2H 5 * Điều kiện cần và đủ để xuất hiện đồng phân hình học Điều kiện cần: Phân tử phải có nối đôi hay vòng no nằm trên một mặt phẳng. Điều kiện đủ: 2 nhóm thế ở mỗi cacbon ở nối đôi hay ở vòng no phải khác nhau. c a a≠b C C c≠d b d * Phân loại: có 3 loại - Đồng phân cis - trans - Đồng phân syn - anti - Đồng phân E - Z Trong trường hợp không dùng được danh pháp cis - trans thì dùng danh pháp chung gọi là danh pháp E-Z. Danh pháp E-Z dựa trên tính hơn cấp của nguyên tố đính với cacbon. Nhóm thế có nguyên tố có số thứ tự nguyên tố cao hơn [hay có khối lượng nguyên tử hoặc phân tử lớn hơn] thì có tính hơn cấp cao hơn. Nếu hai nhóm thế có tính hơn cấp ở cùng phía của mặt phẳng gọi là đồng phân Z, khác phía là đồng phân E. Ví dụ: NO 2 Br H Br C C C C H3C H H 3C NO 2 CH 3 NO 2 > H > , Br [Z]-2-Brom-1-nitropropen [E]-2-Brom-1-nitropropen C Y Danh pháp Syn-anti: Dùng cho nối đôi có một cặp điện tử không phân chia. [syn-: cùng phía, anti-: khác phía]. .. 21
  14. Ví dụ: CH3 - CH = N - OH OH H H C N C N H 3C H3 C OH anti- Syn- * Tính chất khác nhau của đồng phân hình học Các đồng phân hình học có nhiều tính chất khác nhau rõ rệt, ví dụ ở 1,2- đicloetilen. cis trans 0 4,7A0 Khoảng cách 2 Cl 3,7A µ 1,89D 0,0D t0nc -80,50C -500C t0s 600C 480C * Ý nghĩa: Giải thích tại sao có 2 nguyên tử cacbon và hidro mà tạo nên vô số các phân tử hợp chất hữu cơ. c. Đồng phân không gian * Đồng phân quang học a, Khái niệm: Những hợp chất có cấu trúc và tính chất vật lý, hoá học giống nhau nhưng khác nhau về khả năng quay mặt phẳng ánh sáng phân cực gọi là đồng phân quang học. Ánh sáng là dao động sóng của trường điện và từ. Khi một electron tương tác với ánh sáng thì có dao động theo tần số của ánh sáng theo hướng của trường điện. Ánh sáng thường có vectơ trường điện của sóng ánh sáng trong tất cả các hướng của mặt phẳng. Ánh sáng phân cực có vectơ của trường điện của tất cả các sóng ánh sáng trong cùng một mặt phẳng, gọi là mặt phẳng phân cực. Ánh sáng thường Ánh sáng phân cực Ánh sáng phân cực thu được khi cho ánh sáng thường đi qua lăng kính phân cực: Phân cực kế 22 Ánh sáng thường Ánh sáng phân cực
  15. Có một số chất hữu cơ [và cả một số chất vô cơ] có khả năng làm quay mặt phẳng phân cực khi cho ánh sáng phân cực đi qua. Khả năng đó gọi là tính quang hoạt, còn những chất có khả năng đó gọi là chất quang hoạt. Trong số những chất quang hoạt có một số không nhiều lắm chỉ thể hiện khả năng làm quay mặt phẳng phân cực khi còn ở trạng thái tinh thể [tinh thể bất đối], ví dụ: tinh thể của các chất NaCl, ZnSO4. Còn một số lớn chất khác lại có tính quang hoạt khi ở thể hơi hay trong dung dịch. Ở loại chất quang hoạt vừa nói, tính quang hoạt không phải do cấu trúc tinh thể mà do cấu trúc của những phân tử riêng rẽ. Để đo khả năng làm quay mặt phẳng phân cực [độ quay cực] của các chất quang hoạt người ta dùng phân cực kế ghi lấy góc quay α . Đối với một chất quang hoạt người ta thường dùng đại lượng độ quay cực riêng [ α ]. Độ quay cực riêng của một chất trong dung dịch được tính theo công thức sau: [α ]tλ = α .V 0 L.a Trong đó: α : Góc quay quan sát được đối với một dung dịch có bề dày để ánh sáng đi qua là d [dm] chứa a [g] chất quang hoạt trong V [ml] dung dịch. Việc đó thực hiện ở t0, với ánh sáng có độ dài sóng λ . Góc quay của một chất quang hoạt không những phụ thuộc vào bản chất hoá học của chất đó, bước sóng của ánh sáng phân cực, bề dày của dung dịch chất quang hoạt, nhiệt độ khi đo, mà còn phụ thuộc vào nồng độ và bản chất dung môi. Cho nên khi viết độ quay cực riêng phải gi cụ thể. Ví dụ: [α ]25 = −180 [C = 15 nước] D Như thế có nghĩa là độ quay cực riêng của chất quay về bên trái 180, ở nồng độ 15g trong 100 ml dung dịch nước, nhiệt độ khi đo là 250, bề dày dung dịch 1dm, ánh sáng được dùng là ánh sáng D của natri với bước sóng 589nm. 23
  16. b, Điều kiện xuất hiện đồng phân quang học - Điều kiện cần: Phải có trung tâm bất đối [Nguyên tử bất đối, phân tử bất đối hay tinh thể bất đối] - Điều kiện đủ: Phải được phân bố theo công thức chiếu Fisơ. Điều kiện cần và đủ để xuất hiện tính quang hoạt là khi phản chiếu mô hình của hợp chất qua một mặt phẳng ta được mô hình khác không đồng nhất vơi nó, nghĩa là không thể chỉ bằng chuyển động tịnh tiến và quay mà có thể đưa được hai mô hình đó lồng khít vào nhau được. Nói cách khác, để xuất hiện được hiện tượng quang hoạt, phân tử phải không lồng khít được với ảnh gương của nó, tương tự như quan hệ giữa hai bàn tay của một người bình thường. Tính chất đó được gọi là tính không trùng vật - ảnh [chirality]. Khi có hiện tượng không trùng vật - ảnh, sẽ xuất hiện hai dạng đồng phân đối xứng nhau, không lồng khít vào nhau được như hình a.1 a a b b d d c c Mặt phẳng gương Hình a.1: Hai dạng đồng phân đối xứng nhau Hai đồng phân này có khả năng làm quay mặt phẳng ánh sáng phân cực những góc có trị số như nhau nhưng theo chiều ngược nhau. Đó là hai chất đối quang. Nguyên tử cacbon bất đối Trong một hình tứ diện đều có một tâm đối xứng, bốn trục đối xứng và sáu mặt phẳng đối xứng. Nếu ta thay thế tất cả bốn nguyên tử hydro trong phân tử CH4 bằng bốn nguyên tử hay nhóm nguyên tử giống hệt nhau thì các yếu tố đối xứng vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng nếu thay thế một hay nhiều nguyên tử hydro trong CH4 bằng những nguyên tử hay nhóm nguyên tử khác nhau thì các yếu tố đối xứng sẽ bị vi phạm. Ví dụ: Thế một nguyên tử H bằng Br thì chỉ còn một trục đối xứng và ba mặt phẳng đối xứng, thế 3 nguyên tử H bằng 3 nguyên tử khác nhau thì sẽ không còn một yếu tố đối xứng nào cả. Khi trong phân tử có nguyên tử C đính với 4 nguyên tử hay nhóm nguyên tử khác nhau Cabcd sẽ xuất hiện hai dạng đồng phân đối xứng nhau qua mặt phẳng như vật với ảnh trong guơng [hình a.1] và có tính quang hoạt. Nguyên tử C gọi là nguyên tử C bất đối, phân tử Cabcd là phân tử bất đối. 24
  17. Ví dụ: H H F a C* C* C* COOH C* SO 3H H3C I d Cl Cl b OH I Br c Trong trường hợp hai nguyên tử đồng vị đính vào một nguyên tử C cùng với hai nhóm nguyên tử khác nữa, nguyên tử C đó cũng là C bất đối, cho nên những hợp chất như trong ví dụ dưới đây cũng có thể là những chất quang hoạt: H H C* C* CD 3 CH 3 H 3C C6H5 OH D Để biểu diễn nguyên tử cacbon tứ diện trong các phân tử kiểu Cabcd ta có thể dùng các công thức khác nhau ở hình a.2. Đó là các công thức tứ diện [1], Fisơ [2] và [3], phối cảnh [4] và phối cảnh kết hợp với Fisơ [5]. Trong các công thức đó, nét liền biểu diễn liên kết nằm trên mặt phẳng giấy, những đường chấm nhỏ hoặc đường gạch ngắn dần dùng để chỉ những liên kết hay đường nối hướng về phía dưới mặt phẳng giấy [đi xa phía người quan sát], còn các đường đậm hình tam giác để chỉ những liên kết hướng từ mặt phẳng giấy về phía người quan sát [đi gần phía người quan sát] : c c c b a b a a b d d d [1] [2] [3] 25
  18. c c b a a b d d [5] [4] Quy tắc chiếu Fisơ Mạch chính biểu diễn ở cạnh nằm dọc. Nguyên tử hoặc nhóm nguyên tử có số oxi hoá cao thì được biểu diễn ở phía trên, ngược lại thì biểu diễn ở phía dưới. Qui ước: Các nhóm nguyên tử ở đường kẻ ngang [a và b] ở phía gần người quan sát, còn các nhóm nguyên tử ở đường dọc [c và d] ở phía xa hơn. Muốn chuyển công thức hình tứ diện sang công thức Fisơ ta dùng phương pháp chiếu các nhóm nguyên tử của tứ diện lên mặt phẳng giấy. Khi ấy cần chú ý là tứ diện phải được phân bố như thế nào đó để một cạnh nằm ngang của tứ diện ở gần người c quan sát: c c b a a b d ≡b a d d -3 +1 * CH3 CHOH Ví d ụ : CHO CHO CHO OH H H OH CH3 CH3 Ta có thể biến đổi công thức Fisơ theo các cách khác nhau, khi ấy tuỳ từng trường hợp mà cấu hình vẫn được bảo toàn hay bị nghịch đảo [quay cấu hình]. Đổi chỗ bất kỳ hai nhóm thế nào ở C cũng làm quay cấu hình và như vậy sẽ sinh ra một dạng khác của phân tử ban đầu. 26
  19. Ví dụ: CHO CHO OH H OH OH H OCH H CH2OH CH2OH CH2OH Dạng D Dạng L Dạng D Nếu dịch chuyển đồng thời ba nhóm thế theo chiều kim đồng hồ hoặc theo chiều ngược lại thì công thức Fisơ vẫn giữ nguyên ý nghĩa, tức là cấu hình được bảo toàn. Ví dụ: CHO CHO CH2OH H OH OH ≡ CH2OH H Dạng D Dạng D Không được đưa công thức Fisơ ra khỏi mặt phẳng giấy, cũng không được quay công thức trên mặt phẳng những góc 900 hay 2700 [vì sẽ quay cấu hình] nhưng có thể quay 1800 [cấu hình không đổi]. Ví dụ: H CHO CHO Quay 900 H OH CHO ≡ HO H HOCH2 CH2OH OH CH2OH Dạng L Dạng D CHO CH2OH Quay 1800 H H OH HO CH2OH CHO Dạng D Dạng D 27
  20. Để biểu diễn hai hay nhiều nguyên tử cacbon tứ diện kế tiếp nhau ta cũng có dùng công thức tứ diện hay công thức Fisơ Ví dụ: Viết đồng phân quang học của : HOOC-CHOH-CHOH-COOH COOH COOH COOH COOH H OH H OH HO H HO H HO HO H H H OH H OH COOH COOH COOH COOH Đồng phân mêzô Hai đồng phân đối quang Hai đồng phân không đối quang c. Phân loại đồng phân quang học Cặp đối quang: Ví dụ: Andehit glixeric HOCH2-CHOH-CH=O CHO CHO H OH OH H CH2OH CH2OH Andehit D [+] glixeric Andehit L [-] glixeric Tính chất của một cặp đối quang Giống nhau: Hai chất đối quang có các tính chất vật lý và hoá học bình thường giống hệt nhau. Khác nhau: Chúng khác nhau ở dấu của năng suất quay cực [ ϕ = +: quay sang phải; ϕ = - : quay sang trái] và ở hoạt tính sinh học [ở tương tác với tác nhân có tính quang hoạt]. Những sự khác nhau này bắt nguồn từ sự khác nhau về cấu hình. 28

Page 2

YOMEDIA

Chiết tách và tinh chế hợp chất hữu cơ Các hợp chất hữu cơ khi mới điều chế được hoặc tách từ động thực vật, thường ở dạng hỗn hợp không tinh khiết. Vì vậy muốn nghiên cứu chúng, muốn phân tích định tính hay định lượng chúng thì nhiệm vụ trước tiên là phải tách chúng thành từng chất riêng biệt, ở dạng tương đối nguyên chất. 2.1.1. Tinh chế chất rắn 2.1.1.1. Phương pháp kết tinh a. Khái niệm Kết tinh là một quá trình biến đổi pha của một chất từ rắn sang lỏng khi hoà tan...

05-03-2011 1416 237

Download

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

Video liên quan

Chủ Đề