Doanh nghiệp độc quyền có thị trường liên quan không

Độc quyền cùng với cạnh tranh là hai phạm trù đối lập nhau trong nền kinh tế. Độc quyền có thể gây ra một số ảnh hưởng xấu đến thị trường và người tiêu dùng như sản phẩm giá cao, hạn chế sản xuất, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ…Vậy độc quyền là gì? Quyền độc quyền quy định thế nào?

1. Khái niệm về độc quyền

Theo từ điển Tiếng Việt, độc quyền được giải thích là “đặc quyền chiếm giữ một mình”. Khi một cá nhân, tổ chức nắm giữ, cung cấp một sản phẩm, dịch vụ nào đó mà chỉ duy nhất họ mới có, mới được cung cấp thì có thể gọi những cá nhân, tổ chức này đang độc quyền nắm giữ sản phẩm hoặc độc quyền cung cấp dịch vụ. Ví dụ như trong việc phát hành tiền tệ ở Việt Nam, ngân hàng nhà nước là tổ chức được độc quyền phát hành tiền tệ.

Độc quyền được sử dụng chủ yếu trong trong lĩnh vực kinh doanh trên thị trường. Dưới góc độ kinh tế học, cấu trúc thị trường được chia thành 04 loại chính: Cạnh tranh hoàn hảo [perfect competition]; Cạnh tranh có tính độc quyền [monopolistic compettion]; độc quyền nhóm [oligopoli]; và độc quyền [monopoly]. Trong đó, Độc quyền và cạnh tranh hoàn hảo là hai hiện tượng đối lập và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cạnh tranh hoàn hảo là một hình thái thị trường trong đó có nhiều người mua và người bán cùng tham gia thị trường, các sản phẩm trên thị trường nhìn chung là đồng nhất, việc gia nhập hoặc rút khỏi thị trường được diễn ra tự do, thông tin thị trường mang tính minh bạch. Độc quyền là hình thái thị trường trong đó chỉ có một người bán duy nhất. Doanh nghiệp này không phải cạnh tranh đối với bất kì đối thủ nào trong việc bán sản phẩm của mình trên thị trường. Với mong muốn tối đa lợi luận, doanh nghiệp độc quyền sẽ ấn định giá độc quyền sản phẩm ở mức mà mình sẽ thu được lợi nhuận nhiều nhất. Kết quả của việc này là người tiêu dùng và xã hội sẽ phải gánh chịu mức giá cao của sản phẩm.

Như vậy, dưới góc độ kinh tế học, độc quyền được hiểu là hình thái thị trường trong đó có một doanh nghiệp duy nhất bán một sản phẩm mà không có một sản phẩm thay thế gần giống với nó. Việc thâm nhập vào ngành sản xuất này rất khó khăn hoặc không thể được.

2. Các dạng biểu hiện của độc quyền trong nền kinh tế Việt Nam

Độc quyền trong nền kinh tế nước ta được biểu hiện thành nhiều hình thức đa dạng, có thể kể đến một số hình thức sau:

Thứ nhất, hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Đây là dạng hành vi mà theo đó, các đối thủ cạnh tranh sẽ không cho doanh nghiệp khác tham gia kinh doanh, mở rộng hoạt động, ứng dụng công nghệ mới, ấn định sản lượng, tẩy chay không cung ứng sản phẩm hoặc dịch vụ. Mặt khác, thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh để phân chia địa bàn hoạt động, thị trường người cung cấp, người tiêu dung tương đối phổ biến. Tình trạng các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty phải mua hoặc bán sản phẩm với tổng công ty hoặc các công trình xây dựng của địa phương phải sử dụng các sản phẩm [như xi măng, gạch…] trên địa bàn của tỉnh đó là tương đối phổ biến. Thực trạng này làm cho cạnh tranh nhiều khi không tồn tại hoặc bị bóp méo đi rất nhiều.

Thứ hai, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Hành vi này được thực hiện chủ yếu bởi các doanh nghiệp Nhà nước [tổng công ty độc quyền hoặc có khả năng thống lĩnh thị trường] sử dụng để duy trì vị trí chi phối của mình trên thị trường. Các hành vi đó có thể là ấn định giá, phân biệt đối xử về giá, từ chối giao dịch, áp đặt các điều kiện ràng buộc bất hợp lý, hạn chế thị trường tiêu thị…

3. Nguyên nhân xuất hiện độc quyền trên thị trường

Sự xuất hiện của độc quyền được xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có thể kể đến một số nguyên nhân sau:

Thứ nhất, độc quyền xuất hiện là kết quả của quá trình cạnh tranh. Quá trình cạnh tranh sẽ làm cho những doanh nghiệp nào kém hiệu quả, có những quyết định kinh doanh sai lầm sẽ bị những doanh nghiệp khác làm ăn hiệu quả hơn thôn tính, chiếm lĩnh thị phần và rốt cuộc sẽ bị đào thải ra khỏi cuộc chơi. Trong trường hợp cực đoan nhất, nếu tất cả các doanh nghiệp khác đều bị một doanh nghiệp duy nhất đánh bại thì rốt cuộc, cạnh tranh tự do đã để lại một doanh nghiệp duy nhất trên thương trường và doanh nghiệp đó đương nhiên có được vị thế độc quyền.

Thứ hai, do được chính phủ nhượng quyền khai thác thị trường. Nhiều hãng trở thành độc quyền là nhờ được chính phủ nhượng quyền khai thác một thị trường nào đó, ví dụ các địa phương cho phép một công ty duy nhất cung cấp nước sạch trên địa bàn địa phương mình. Ngoài ra, với những ngành được coi là chủ đạo của quốc gia, có thể ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng của đất nước thì chính phủ thường tạo cho nó một cơ chế có thể tồn tại dưới dạng độc quyền nhà nước như cung cấp điện, sản xuất vũ khí…

Thứ ba, do chế độ bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Khi một cá nhân, tổ chức có những tác phẩm, phát minh, sáng chế đáp ứng được một số điều kiện có tính sáng tạo, tính mới thì có thể được pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Đây được coi là một biện pháp để khuyến khích mọi người tham gia hoạt động nghiên cứu nhằm tìm ra những giải pháp mới nâng cao năng suất lao động và đời sống tinh thần cho xã hội.

4. Quyền độc quyền theo quy định của pháp luật

Hiện nay, theo quy định của luật về cạnh tranh không có quy định cụ thể về quyền độc quyền. Theo quy định tại Luật thương mại năm 2005 và Nghị định 94/2017/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định danh mục 20 loại hàng hóa, dịch vụ thuộc sự độc quyền của Nhà nước như sản xuất vàng miếng, phát hành xổ số kiến thiết…

Với mục đích nhằm bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng, đảm bảo cho thị trường có sự cạnh tranh hiệu quả, Luật cạnh tranh năm 2018 đã quy định một số hành vi cấm doanh nghiệp có vị trị độc quyền thực hiện. Doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan. [Điều 25 Luật cạnh tranh năm 2018]

Theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật cạnh tranh năm 2018, Doanh nghiệp có vị trí độc quyền không được thực hiện các hành vi sau đây:

  • Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng;
  • Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng;
  • Áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác;
  • Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác trong ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác;
  • Ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp khác;
  • Áp đặt điều kiện bất lợi cho khách hàng;
  • Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng;
  • Hành vi lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm theo quy định của luật khác.

Như vậy, ngoài các hành vi bị cấm thực hiện như trên thì doanh nghiệp có vị trí độc quyền sẽ được tự do thực hiện các quyền khác của mình theo quy định pháp luật.

Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, chủ sở hữu của các đối tượng sở hữu công nghiệp [sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh] có các quyền tài sản sau:

  • Sử dụng, cho phép người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định pháp luật;
  • Ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định tại Điều 125 của Luật sở hữu trí tuệ.
  • Định đoạt đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định pháp luật.

Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật sở hữu trí tuệ hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó. Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó.

Để tồn tại và có một chỗ đứng vững chắc trong nền kinh tế thị trường đầy rẫy khốc liệt như hiện nay đòi hỏi mỗi doanh nghiệp không ngừng nâng cao sản phẩm, chiến lược kinh doanh của mình nhằm tăng sức mạnh cạnh tranh. Trong cuộc đua này, mỗi một doanh nghiệp đều cố gắng để chiểm giữ vị trí cao nhất và duy nhất hay nói cách khác là đạt được vị trí độc quyền. Có thể thấy rằng điều này vừa mang đến những tác động tích cực trong việc thúc đẩy sự sáng tạo không ngừng nghỉ của các chủ thể kinh doanh nhưng bên cạnh đó cũng ảnh hưởng không nhỏ đối với quyền lợi người tiêu dùng và nghiêm trọng hơn là một khi đạt được vị trí độc quyền nhiều doanh nghiệp không cố gắng cải tiến sản xuất, tìm mọi cách để duy trì vị trí. Do vậy, để duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh tế pháp luật hiện hành đã có nhiều quy định trong việc xử lý các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền.

Trước tiên để hiểu được vấn đề này cần đi từ khái niệm độc quyền. Theo đó độc quyền kinh tế được hiểu là “hiện tượng chỉ có một số ít người độc chiếm thị trường khiến ở đó không có sự tự do cạnh tranh về phía cung”. Trong kinh tế học, hiện tượng này được gọi là độc quyền tuyệt đối và là biểu hiện của cạnh tranh không hoàn hảo. Đó là hình thức cạnh tranh mà giá cả của hàng hoá trên thị trường bị chi phối bởi một hoặc một số nhà kinh doanh nhất định. Thông thường, một thị trường độc quyền được biểu hiện qua 3 yếu tố như sau: Thứ nhất, toàn bộ thị trường đó được nắm giữ bởi một hoặc một số người bán nhất định. Thứ hai, sản phẩm của nhà sản xuất được bán trên thị trường là duy nhất mà không có sản phẩm thay thế gần tồn tại. Thứ ba, tồn tại những rào cản để ngăn cản việc các doanh nghiệp khác kinh doanh trên thị trường liên quan.[1]

Tại Điều 25 của Luật Cạnh tranh năm 2018 đã có định nghĩa khái quát về doanh nghiệp có vị trí độc quyền như sau:

Điều 25. Doanh nghiệp có vị trí độc quyền

Doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan.”

Ví dụ về doanh nghiệp có vị trí độc quyền tại Việt Nam đó là:

- Tổng công ty điện lực Việt Nam [EVN]. Ở nước ta đã có một số doanh nghiệp sản xuất điện nhưng chỉ EVN được nắm giữ hệ thống truyền tải điện. Trong thị trường điện lực, việc sản xuất điện có liên quan mật thiết đến việc truyền tải điện. Điều này làm cho các doanh nghiệp sản xuất điện phải phụ thuộc vào EVN - một đối thủ cạnh tranh trên cùng thị trường. Chính vì vậy, độc quyền của EVN đối với việc kinh doanh điện là điều không thể tránh khỏi.

Một doanh nghiệp độc quyền được xem là có hành vi lạm dụng vị trí độc quyền khi đã hoặc đang thực hiện các hành vi hạn chế cạnh tranh được quy định hoặc mô tả tại Khoản 2 Điều 27 Luật Cạnh tranh năm 2018. Các hành vi hạn chế cạnh tranh mà các doanh nghiệp thường thưc̣ hiêṇ là các hành vi bóc lột khách hàng, chèn ép đối thủ, ngăn cản sự gia nhập thị trường của các đối thủ tiềm năng nhằm thu được nhiều lợi nhuận, giữ vị trí thống lĩnh trên thị trường,... Những hành vi này gây ra những khó khăn trong việc gia nhập thị trường của các chủ thể khác và về lâu dài có thể triệt tiêu cạnh tranh. Vì thế, pháp luật cạnh tranh đã áp dụng biện pháp xứ phạt hành chính đối với các doanh nghiệp thực hiện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền. Trong đó, Luật cạnh tranh 2004 quy định phạt đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm của doanh nghiệp có vị trí độc quyền. Đến Luật cạnh tranh 2018, quy định mức phạt đã thay đổi từ 1-10% đối với hành vi vi phạm. Bên cạnh hình thức phạt tiền, doanh nghiệp thực hiện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền có thể bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung hoặc các biện pháp hậu quả như: Tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm; buộc loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh liên quan; buộc cơ cấu lại doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trưởng; buộc sử dụng hoặc bán lại các sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp đã nhưng không sử dụng; buộc loại bỏ những biện pháp ngăn cản, kìm hãm doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh; buộc khôi phục các điều kiện phát triển thuật, công nghệ mà doanh nghiệp đã cản trở. [Quy định cụ thể tại Điều 9 Nghị định 75/2019/NĐ-CP].

Xem thêm: Tổng hợp các bài viết về Luật Cạnh tranh năm 2018

Luật Hoàng Anh

[1] Đào Ngọc Báu. Vấn đề độc quyền ở Việt Nam. Đăng trên trang Nghiên cứu lập pháp - Viện nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội [11/2004].

CAM KẾT DỊCH VỤ

  • Đồng hành cùng Thân chủ.
  • Phương án tốt, giải pháp hay.
  • Bảo mật - Uy tín - Tin cậy - Chi phí thấp - Hiệu quả cao.
  • Dịch vụ pháp lý tốt số 2 tại Việt Nam.
  • Cam kết HOÀN TIỀN nếu thực hiện dịch vụ không thành công.

Cảm ơn quý vị và các bạn đã tin tưởng Luật Hoàng Anh, nếu có thắc mắc muốn giải đáp hãy liên hệ ngay cho chúng tôi.

Video liên quan

Chủ Đề