Giá trị truyền thống của nón lá

Từ xa xưa, nón lá không chỉ là vật che mưa, che nắng cho con người mà còn chứa đựng cả một kho tàng lịch sử của nền văn minh lúa nước người Việt. Nguồn gốc của chiếc nón là câu chuyện kể về một phụ nữ cao lớn, bà luôn đội một chiếc nón làm từ bốn chiếc lá hình tròn. Bất cứ nơi nào người xuất hiện, những đám mây tan biến nhanh và thời tiết trở nên thuận lợi. Sau khi dạy người dân trồng lúa và những loại cây lương thực, vị nữ thần này biến mất. Người Việt biết ơn và đã xây dựng một ngôi đền để tưởng nhớ công ơn của nữ thần.

Người Việt xưa đã cố gắng tạo ra một mô hình chiếc nón tương tự của nữ thần bằng cách xâu những lá cọ lại với nhau và bây giờ nó được gọi là nón lá. Hình ảnh nón lá đã trở nên quá gần gũi và thân thuộc với người nông dân trên những cánh đồng. Bên cạnh đó, còn là hình ảnh được người bà dùng để quạt đưa cháu vào giấc ngủ, được các bà mẹ đội vào đầu và nắm tay dìu con đến trường. Nón cùng với người lính thú xông pha ngoài chiến trận, nón theo tài tử giai nhân đi trẩy hội, nón theo cung phi vào cung cấm, nón theo các nàng công chúa, các bà hoàng đi chùa cầu duyên cầu tự. Nón cũng được các bà mẹ sụt sùi nước mắt đặt nhẹ lên đầu người con gái thương yêu trước khi lên xe hoa về nhà chồng…

Nón lá được làm từ những nguyên liệu đơn giản và sẵn có như lá cọ, lá nón, tre... [ảnh minh họa]

Nón lá được làm từ những nguyên liệu đơn giản và sẵn có như lá cọ, lá nón, tre... Nhưng qua bàn tay khéo léo của những nghệ nhân, chiếc nón lá đã trở thành một một biểu tượng của nhiều làng nghề truyền thống. Chiếc nón thường đi liền với đôi quai được làm bằng dây, mây, vải… vừa để giữ chiếc nón, vừa để điểm tô cho người đội thêm duyên, thêm dáng, thêm sang trọng và qúy phái theo cái nhìn thẩm mỹ bấy giờ.

Nón lá có nhiều biến thể từ phiên bản ban đầu sau khi xuất hiện lần đầu tiên hơn 3.000 năm trước. Nhiều loại nón phổ biến như nón ba tầm hay nón quai thao có hình dạng phẳng và tròn, đường kính khoảng 1 mét, với dây đeo ở cằm. Nón quai thao là một phụ kiện quan trọng của phụ nữ nông thôn vào những dịp lễ hội hay chùa chiền. Ngày xưa, người ta phân loại nón theo mức độ của chủ sở hữu.

Nón quai thao là một trong những phiên bản độc đáo của nón lá Việt Nam [ảnh minh họa]

Có một số loại nón dành riêng cho người cao tuổi; những người giàu có và quan lại. Mỗi loại có hình dạng riêng và kiểu cách đặc biệt; đôi khi nón lá cũng khác nhau theo từng vùng miền.

Theo bước chân Nam tiến, chiếc nón vào xứ đàng Trong với tên gọi như nón Huế, nón bài thơ, nón Bình Ðịnh… Mỗi vùng miền tại Việt Nam có mẫu chiếc nón lá riêng biệt. Nón Huế nhìn soi qua ánh nắng mặt trời, trông như là bức tranh thủy mạc, mãi mãi là cái đặc trưng rất “Huế”. Những chiếc nón lá của người miền Tây có sợi chỉ đỏ rất đặc trưng so với những chiếc nón lá Thanh Hóa. Nón lá Huế mỏng và thanh lịch hơn so với những chiếc nón lá của Bình Định, có thể nói Huế là trung tâm sản xuất nón lá của cả nước.

Nón lá Huế - Ảnh: mytour.vn

Nghề làm nón lá hình thành và phát triển ở Huế từ hàng trăm năm nay, với rất nhiều làng nón nổi tiếng như: Dạ Lê, Phú Cam, Đốc Sơ, Triều Tây, Kim Long, Sịa... Ngày nay, các làng nghề nổi tiếng như Tây Hồ xã Phú Hồ, Mỹ Lam xã Phú Mỹ huyện Phú vang, Phú Cam, Phước Vĩnh, Đốc Sơ, Triều Tây, Hương Sơ, TP Huế cho ra thị trường hàng triệu chiếc nón, không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của người dân, mà còn là món quà lưu niệm đặc sắc cho du khách bốn phương khi đến Huế.

Nón lá Huế, đặc biệt là nón bài thơ, nó không chỉ là chiếc nón đơn thuần mà là một tác phẩm nghệ thuật thực sự. Để có được chiếc nón ưng ý, các nghệ nhân làm nón Huế phải qua nhiều công đoạn tỉ mỉ, đòi hỏi sự cần mẫn, khéo léo của người thợ. Từ chọn khung, uốn vành, lợp lá, cắt hoa văn, đến chằm hoàn thiện chiếc nón và cuối cùng là đánh bóng bảo quản…Có lẽ vì thế mà nón Huế rất được nhiều du khách trong và ngoài nước ưu chuộng và chọn làm món quà lưu niệm trên hành trình của mình.

Khách du lịch sử dụng nón lá Việt Nam [ảnh minh họa] 

Du lịch phát triển mạnh ở Huế, nón lá trở thành mặt hàng lưu niệm mang nét văn hóa đặc sắc của Huế được du khách ưa chuộng. Rất nhiều du khách đã về tận các làng nón để được tận mắt chứng kiến và tham gia vào các công đoạn của nghề làm nón. Không ít người đã thực sự bất ngờ và thích thú khi được người thợ nón lưu ảnh, tên của mình trên chiếc nón bài thơ mang về làm kỷ niệm.

Nón lá là sản phẩm thủ công mỹ nghệ đầu tiên được Cục Sở hữu trí tuệ [Bộ Khoa học và Công nghệ] cấp chứng nhận bảo hộ chỉ dẫn địa lý vào tháng 8/2010. Nón lá còn được xem là một biểu tượng của con người Việt Nam hiền hòa. Hơn nữa, nhiều du khách trân trọng nón lá và xem nó là một món quà lưu niệm khi đến thăm Việt Nam.

Người con gái Việt Nam với chiếc nón lá [ảnh minh họa]

Mặc dù chiếc nón lá không còn là vật dụng hàng ngày của người phụ nữ ở các thành phố lớn nhưng nó vẫn rất phổ biến ở làng quê Việt Nam. Hình ảnh người con gái trong tà áo dài và đội chiếc nón lá là nét đặc trưng cho người con gái Việt Nam. Mặt khác, chiếc nón lá đâu chỉ là vật tiện dụng mà còn là nét đẹp thầm kín của văn hóa Việt, sẽ còn tồn tại mãi dù cuộc sống có đổi thay, hiện đại đến đâu, chiếc nón lá vẫn sẽ mãi là người bạn của người Việt. 

Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.

Nón, nón tơi hoặc nón lá là một vật dụng dùng để che nắng, che mưa, và nón lá là một biểu tượng đặc trưng của người Việt.

Nón lá che nắng che mưa cho người lao động ngoài đồng ruộng.

Đối với các định nghĩa khác, xem Nón.

Nón lá được bày bán như là đồ lưu niệm tại Việt Nam.

Nón lá xuất hiện vào thế kỉ thứ XIII, thời nhà Trần.

Từ xa xưa do chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa nắng và mưa nhiều, tổ tiên ta đã biết sáng chế ra chiếc nón lá. Nó được lấy lá kết vào nhau để làm vật dụng đội lên đầu che nắng che mưa. Dần dần chiếc nón lá đã hiện diện như một vật dụng cần thiết trong đời sống sinh hoạt hằng ngày. Hình ảnh tiền thân của chiếc nón lá đã được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, thạp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2500 – 3000 năm TCN.

Ở Việt Nam hiện nay có một số làng nghề làm nón truyền thống như làng Đồng Di [Phú Vang], Dạ Lê [Hương Thủy], Trường Giang [Nông Cống], đặc biệt là làng nón Phủ Cam [Huế], làng Chuông [Thanh Oai - Hà Nội].

Chiếc nón lá thường được đan bằng các loại lá khác nhau như lá cọ, lá buông, rơm, tre, lá cối, lá hồ, lá dứa, lá du quy diệp dùng để làm nón v.v... nhưng chủ yếu làm bằng lá nón. Nón thường có dây đeo làm bằng vải mềm hoặc nhung, lụa để giữ trên cổ.

Nón thường có hình chóp nhọn, tuy nhiên còn có cả một số loại nón rộng bản và làm phẳng đỉnh. Lá nón được xếp trên một cái khung gồm các nan tre nhỏ uốn thành hình vòng cung, được ghim lại bằng sợi chỉ, hoặc các loại sợi tơ tằm, sợi cước. Nan nón được chuốt thành từng thanh tre mảnh, nhỏ và dẻo dai rồi uốn thành vòng tròn có đường kính to nhỏ khác nhau thành những cái vành nón. Tất cả được xếp tiếp nhau trên một cái khuôn hình chóp.

Để làm ra một chiếc nón lá người thợ thủ công lấy từng chiếc lá, làm cho phẳng rồi lấy kéo cắt chéo đầu trên, rồi lấy kim xâu chừng 24-35 chiếc lá lại với nhau cho một lượt sau đó xếp đều trên khuôn nón. Lá nón mỏng và cũng dễ hư khi gặp mưa nhiều nên các thợ thủ công đã tận dụng bẹ tre khô để làm lớp giữa hai lớp lá nón làm cho nón vừa cứng lại vừa bền.

Trong công đoạn tiếp theo, thợ thủ công lấy dây cột chặt lá nón đã trải đều trên khuôn với khung nón rồi họ mới bắt đầu khâu. Người thợ đặt lá lên sườn nón rồi dùng dây cước với kim khâu để chằm nón thành hình chóp. Nón sau khi thành hình được quét một lớp dầu bóng để tăng độ bền và có tính thẩm mĩ [có thể kể thêm trang trí mĩ thuật cho nón dùng trong nghệ thuật]. Ở giữa nan thứ 3 và thứ 4 người thợ dùng chỉ đôi kết đối xứng 2 bên để buộc quai. Quai thường được làm từ nhung, lụa mềm, có nhiều màu sắc.

 

Nữ sinh với áo dài và nón lá.

Nón lá có nhiều loại như nón ngựa hay nón Gò Găng [sản xuất ở Bình Định, làm bằng lá lụi, thường dùng khi đội đầu cưỡi ngựa]; nón cụ [loại nón thường xuất hiện trong các đám cưới miền Nam Việt Nam]; nón ba tầm [loại nón phổ biến ở miền Bắc Việt Nam]; nón bài thơ [ở Huế, là thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hoặc một vài câu thơ]; nón dấu [nón có chóp nhọn của lính thú thời phong kiến]; nón rơm [nón làm bằng cọng rơm ép cứng]; nón cời [loại nón xé te tua ở viền nón]; nón gõ [nón làm bằng rơm, ghép cho lính thời phong kiến]; nón lá sen [còn gọi là nón liên diệp]; nón thúng [nón lá tròn bầu giống cái thúng, thành ngữ "nón thúng quai thao"]; nón khua [nón của người hầu các quan lại thời phong kiến]; nón chảo [nón mo tròn trên đầu như cái chảo úp],... nhưng thông dụng nhất vẫn là nón hình chóp.

 

Đan nón lá thủ công tại Huế.

Nón thường dùng để che nắng, che mưa, làm quạt khi nóng. Đôi khi có thể dùng để múc nước hoặc để đựng. Ngày nay nón lá cũng được xem là quà tặng đặc biệt cho du khách khi đến tham quan Việt Nam.

Muốn nón lá được bền lâu thì nên đội khi trời nắng, tránh đi mưa, tránh dùng mạnh tay làm méo nón. Sau khi dùng nên cất vào chỗ bóng râm, nếu phơi ngoài nắng sẽ làm cong vành, lá nón giòn và ố vàng làm mất tính thẩm mĩ và giảm thời hạn sử dụng của nón.Khi đội nón phải nhẹ nhàng, tránh làm hư quai nón, không sử dụng cần treo lên tránh những nơi ẩm ướt, lau khô khi bị ướt. Không ngồi lên, hay đè, nắn nón.

Trong nghệ thuật sân khấu, nón lá xuất hiện trong những tiết mục múa nón lá của các cô gái.[1]

  • Nón bài thơ
  • Ba tầm

  1. ^ “Nón lá trong nghệ thuật văn hóa”.

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Nón lá.
  • Nón trên Từ điển bách khoa Việt Nam
  • Nón bài thơ trên Từ điển bách khoa Việt Nam
  • Nón quai thao trên Từ điển bách khoa Việt Nam

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Nón_lá&oldid=68681263”

Video liên quan

Chủ Đề