Mạch máu tiếng Anh là gì
Xuất hiện nốt xuất huyết ở chân, tay sau sinh là do đâu?
Em mới sinh được hơn 1 tháng, tự nhiên chân em xuất hiện những nốt xuất huyết. Ban đầu là ở trên đùi sau đó lan xuống cẳng chân, bàn chân rồi lên cánh tay. Vậy bác sĩ cho em ... Show
(Xem thêm Xơ cứng động mạch không do xơ vữa Xơ cứng động mạch không do xơ vữa (Xem thêm Xơ vữa động mạch.) Xơ cứng động mạch không do xơ vữa là xơ hóa liên quan đến tuổi ở động mạch chủ và các nhánh chính của nó. Xơ cứng động mạch là một thuật ngữ chung cho một số rối... đọc thêm Xơ vữa động mạch được đặc trưng bởi các mảng bám nội mạc (mảng xơ vữa) xâm lấn vào lòng các động mạch cỡ trung bình và lớn; các mảng bám này bao gồm lipid, tế bào viêm, tế bào cơ trơn và mô liên kết. Các yếu tố nguy cơ bao gồm béo phì, đái tháo đường, hút thuốc lá, tiền sử gia đình, lối sống tĩnh tại, béo phì và cao huyết áp. Triệu chứng xuất hiện khi các mảng xơ vữa phát triển hoặc vỡ ra gây tắc nghẽn hoặc cản trở dòng máu; triệu chứng cụ thể phụ thuộc vào động mạch bị ảnh hưởng. Chẩn đoán dựa trên lâm sàng và khẳng định qua chụp mạch, siêu âm và các phương tiện chẩn đoán hình ảnh khác. Điều trị bệnh gồm kiểm soát yếu tố nguy cơ, thay đổi lối sống, chế độ ăn, luyện tập, dùng thuốc kháng tiểu cầu và thuốc chống xơ vữa. Xơ vữa động mạch là dạng phổ biến nhất của xơ cứng động mạch, vốn là thuật ngữ chung cho một số rối loạn gây dày và mất đàn hồi thành động mạch. Xơ vữa động mạch cũng là dạng nghiêm trọng nhất và có ý nghĩa lâm sàng nhất của xơ cứng động mạch vì nó gây ra bệnh động mạch vành Tổng quan bệnh động mạch vành Bệnh động mạch vành (CAD) bao gồm sự suy giảm lưu lượng máu qua các động mạch vành, thông thường là do các mảng xơ vữa Biểu hiện lâm sàng bao gồm thiếu máu cơ tim thầm lặng, đau thắt ngực, hội... đọc thêm Xơ vữa động mạch có thể ảnh hưởng đến tất cả các động mạch lớn và trung bình, bao gồm động mạch vành, động mạch cảnh và động mạch não; động mạch chủ và các nhánh cũng như các động mạch chi lớn. Đây là nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh tật và tử vong ở Mỹ và hầu hết các nước phát triển. Trong những năm gần đây tỷ lệ tử vong do tuổi tác liên quan đến chứng xơ vữa động mạch đã giảm, nhưng vào năm 2015, bệnh tim mạch (CVD), chủ yếu là xơ vữa động mạch vành và động mạch não vẫn gây ra gần 15 triệu ca tử vong trên toàn thế giới (> 25% tổng số ca tử vong[1 Tài liệu tham khảo (Xem thêm Xơ cứng động mạch không do xơ vữa.) Xơ vữa động mạch được đặc trưng bởi các mảng bám nội mạc (mảng xơ vữa) xâm lấn vào lòng các động mạch cỡ trung bình và lớn; các mảng bám này bao... đọc thêm Tài liệu tham khảo
Sinh lý bệnhTổn thương xơ vữa động mạch sớm nhất có thể nhìn thấy là vệt mỡ, là sự tích tụ các tế bào bọt có chứa lipid trong lớp nội mạc của động mạch. Các mảng xơ vữa là dấu hiệu đặc trưng của xơ vữa động mạch; chúng phát triển từ vệt mỡ và có 3 thành phần chính:
Sự hình thành mảng xơ vữa động mạchTất cả các giai đoạn của xơ vữa động mạch - từ lúc bắt đầu đến khi có biến chứng - được coi là phản ứng viêm đối với thương tổn được điều hòa bởi một số cytokine cụ thể. Tổn thương nội mạc được coi là tổn thương cơ bản, có vai trò khởi phát. Xơ vữa động mạch chủ yếu ảnh hưởng đến một số vùng của cây động mạch. Dòng máu chảy không thành lớp hay chảy xoáy (ví dụ, tại các điểm chi nhánh động mạch) dẫn đến rối loạn chức năng nội mạc và ức chế sản sinh oxit nitric, một chất làm giãn mạch mạnh và có khả năng chống viêm. Dòng máu này cũng kích thích các tế bào nội mạc tạo ra các phân tử bám dính làm triệu tập và gắn các tế bào viêm. Các yếu tố nguy cơ của xơ vữa động mạch (ví dụ:, rối loạn lipid máu Rối loạn lipid máu Rối loạn lipid máu là tăng cholesterol, triglyceride (TGs) huyết tương, hoặc cả hai, hoặc lipoprotein tỉ trọng thấp góp phần vào sự phát triển của xơ vữa động mạch. Nguyên nhân có thể là tiên... đọc thêm Các đại thực bào giải phóng các cytokine tiền viêm làm huy động tế bào cơ trơn từ lớp giữa và tiếp tục huy động lẫn kích hoạt các đại thực bào khác. NHiều yếu tố khác nhau tham gia kích thích tế bào cơ trơn phân chia và sản sinh lớp chất nền ngoại bào đặc. Hậu quả là một mảng xơ dưới nội mạc với một lớp ảo xơ phủ trên, các tế bào cơ trơn bao bọc mô iên kết và lipid nội/ngoại bào. Một quá trình tương tự như sự hình thành xương gây ra vôi hóa bên trong mảng xơ vữa. Một mối liên hệ giữa nhiễm khuẩn và chứng xơ vữa động mạch đã được quan sát, đặc biệt là mối liên hệ giữa các bằng chứng huyết thanh học của một số bệnh nhiễm khuẩn (ví dụ:, Chlamydia pneumoniae, cytomegalovirus) và bệnh mạch vành (CAD). Các giả thiết đặt ra bao gồm tác động của viêm mạn tính lên dòng máu, kháng thể phản ứng chéo, tác động viêm của các tác nhân nhiễm trùng lên thành động mạch. Sự ổn định và vỡ của mảng xơ vữaCác mảng xơ vữa động mạch có thể ổn định hoặc không ổn định. Các mảng xơ vữa ổn định thoái lui, tĩnh tại, hoặc phát triển chậm trong nhiều thập kỷ cho đến khi chúng có thể gây hẹp hoặc tắc mạch. Mảng xơ vữa không ổn định dễ bị bào mòn, nứt, vỡ gây huyết khối, tắc mạch và nhồi máu cấp tính kể cả thời gian dài trước khi gây hẹp mạch đáng kể. Đa phần các biến cố trên lâm sàng là do các mảng xơ vữa không ổn định, không gây hẹp mạch nặng trên chụp mạch, do vậy ổn định mảng xơ vữa là một cách đẻ giảm biến cố và tử vong. Độ bền vững của lớp mũ xơ và khả năng kháng lại nứt vỡ của mảng xơ vữa phụ thuộc vào sự cân bằng giữa quá trình tích lũy và thoái hóa collagen. Nứt vỡ liên quan đến việc các đại thực bào được hoạt hóa trong mảng xơ vữa tiết ra các metalloproteinase, cathepsin và collagenase. Các enzyme này tiêu hóa lớp mũ xơ phủ trên mảng xơ vữa, đặc biệt ở vùng rìa là lớp mũ mỏng dần và vỡ. Các tế bào T trong mảng xơ vữa góp phần vào quá trình này qua bài tiết các cytokine. Cytokine ức chế tế bào cơ trơn tổng hợp và tích tụ collagen, là các cơ chế làm bền vững mảng xơ vữa. Thành phần mảng xơ vữa tiếp xúc với dòng máu khi nứt vỡ sẽ gây ra nứt vỡ, yếu tố mô do đại thực bào tiết ra cũng thúc đẩy hình thành huyết khối. Một trong 5 kết quả sau có thể xảy ra:
Sự ổn định của mảng xơ vữa phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm thành phần mảng xơ vữa (tỷ lệ tương đối của lipid, tế bào viêm, tế bào cơ, mô liên kết và huyết khối), sức căng của mũ xơ, kích thước và vị trí phần nhân, sự liên quan giữa dòng máu và kết cấu mảng xơ vữa. Xuất huyết trong mảng xơ vữa là yếu tố quan trọng làm mảng xơ vữa ổn định trở thành không ổn định, do góp phần làm mảng xơ vữa phình ra nhanh và lắng đọng lipid. Nhìn chung, các mảng xơ vữa không ổn định trong mạch vành có thành phần giàu đại thực bào, lõi lipid dày và mũ xơ mỏng. Chúng thường gây hẹp < 50% lòng mạch và vỡ một cách bất ngờ. Mảng xơ vữa mạch cảnh không ổn định có thành phần tương tự, tuy nhiên thường gây biến chứng do làm hẹp mạch nặng và tắc nghẽn hoặc lắng đọng huyết khối do tiểu cầu, vốn thường gây tắc mạch ở xa hơn là vỡ. Các mảng xơ vữa nguy cơ thấp có mũ xơ dày và chứa ít lipid hơn, chúng thường gây hẹp trên > 50% lòng mạch và gây ra các cơn đau thắt ngực khi gắng sức. Hậu quả của nứt vỡ mảng xơ vữa mạch vành không chỉ phụ thuộc vào giải phãu mảng xơ vữa mà còn tùy thuộc cân bằng tương đối giữa các hoạt động chống đông/tăng đông trong máu cũng như nguy cơ rối loạn nhịp của cơ tim. Yếu tố nguy cơCó rất nhiều yếu tố nguy cơ của xơ vữa động mạch (1 Tài liệu tham khảo về các yếu tố nguy cơ (Xem thêm Xơ cứng động mạch không do xơ vữa.) Xơ vữa động mạch được đặc trưng bởi các mảng bám nội mạc (mảng xơ vữa) xâm lấn vào lòng các động mạch cỡ trung bình và lớn; các mảng bám này bao... đọc thêm Rối loạn lipid máu Rối loạn lipid máu Rối loạn lipid máu là tăng cholesterol, triglyceride (TGs) huyết tương, hoặc cả hai, hoặc lipoprotein tỉ trọng thấp góp phần vào sự phát triển của xơ vữa động mạch. Nguyên nhân có thể là tiên... đọc thêm Trong rối loạn lipid máu, LDL được tăng cường hấp thu và oxy hóa dưới nội mạc, lipid được oxy hóa kích thích sản sinh các phân tử dính và cytokine viêm, ngoài ra chúng còn có tính kháng nguyên và kích thích tế bào T gây phản ứng viêm ở thành động mạch. HDL bảo vệ chống lại chứng xơ vữa động mạch thông qua vận chuyển cholesterol ngược (xem Chuyển hóa lipid từ bên ngoài (thức ăn) Chuyển hóa lipid từ bên ngoài (thức ăn) Lipid là chất béo được hấp thu từ thực phẩm hoặc được tổng hợp bởi gan. Triglycerides (TGs) và cholesterol góp phần nhiều nhất đối với bệnh tật, mặc dù tất cả lipid đều quan trọng về mặt sinh... đọc thêm ); đồng thời HDL cũng vận chuyển các enzyme chống oxy hóa có khả năng phân giải và trung hòa các lipid bị oxy hóa. Vai trò của tăng triglyceride trong hình thành mảng xơ vữa rất phức tạp, mặc dù nó có thể có tác động nhỏ nhỏ độc lập (2 Tài liệu tham khảo về các yếu tố nguy cơ (Xem thêm Xơ cứng động mạch không do xơ vữa.) Xơ vữa động mạch được đặc trưng bởi các mảng bám nội mạc (mảng xơ vữa) xâm lấn vào lòng các động mạch cỡ trung bình và lớn; các mảng bám này bao... đọc thêm Tăng huyết áp Tổng quan về Tăng huyết áp Tăng huyết áp là tình trạng tăng liên tục của huyết áp tâm thu lúc nghỉ ( 130 mmHg) hoặc huyết áp tâm trương lúc nghỉ ( 80 mm Hg), hoặc cả hai. Tăng huyết áp mà không có nguyên nhân rõ ràng... đọc thêm Đái tháo đường Đái tháo đường (DM) Đái tháo đường (DM) là tình trạng giảm tiết insulin và kháng insulin ngoại vi dẫn đến tăng glucose máu. Triệu chứng sớm liên quan tới tăng glucose máu và bao gồm uống nhiều, khát nhiều, tiểu... đọc thêm làm hình thành các chất glycan hóa, qua đó tăng cường quá trình sản xuất các cytokine tiền viêm từ tế bào nội mạc. Các chất oxy hóa và gốc tự do chứa oxy sinh ra trong bệnh đái tháo đường gây tổn thương trực tiếp nội mạc và thúc đẩy xơ vữa động mạch. Khói thuốc lá chứa nicotin và các hóa chất khác độc hại với nội mô mạch máu. Hút thuốc, kể cả hút thuốc lá thụ động, làm tăng phản ứng tiểu cầu (có thể làm tăng huyết khối do tiểu huyết), nồng độ fibrinogen trong huyết tương và hematocrit (tăng độ nhớt máu). Hút thuốc làm tăng LDL và giảm HDL; nó cũng thúc đẩy sự co thắt mạch máu, đặc biệt nguy hiểm trên động mạch đã bị hẹp do xơ vữa từ trước. HDL tăng khoảng 6 đến 8 mg / dL (0,16 đến 0,21 mmol / L) trong vòng 1 tháng sau khi ngừng hút thuốc. Lipoprotein (a) Lipid là chất béo được hấp thu từ thực phẩm hoặc được tổng hợp bởi gan. Triglycerides (TGs) và cholesterol góp phần nhiều nhất đối với bệnh tật, mặc dù tất cả lipid đều quan trọng về mặt sinh... đọc thêm [Lp (a)] là chất gây xơ vữa và yếu tố nguy cơ độc lập của bệnh tim mạch, bao gồm nhồi máu cơ tim, đột quỵ và hẹp van động mạch chủ (3, 4 Tài liệu tham khảo về các yếu tố nguy cơ (Xem thêm Xơ cứng động mạch không do xơ vữa.) Xơ vữa động mạch được đặc trưng bởi các mảng bám nội mạc (mảng xơ vữa) xâm lấn vào lòng các động mạch cỡ trung bình và lớn; các mảng bám này bao... đọc thêm Apolipoprotein (B) (apoB) có hai đồng phân: apoB-100, được tổng hợp trong gan, và apoB-46, được tổng hợp trong ruột. ApoB-100 có thể gắn với thụ thể của LDL và chịu trách nhiệm vận chuyển cholesterol. Nó cũng chịu trách nhiệm vận chuyển các phospholipid bị oxy hoá và có tính chất tiền viêm. Sự hiện diện của apoB trong thành động mạch được cho là khởi đầu của tổn thương xơ vữa động mạch. Nồng độ cao của LDL nhỏ, đặc .đặc trưng của bệnh đái tháo đường, có nguy cơ gây xơ vữa mạch rất cao. Cơ chế bao gồm tăng độ nhạy cảm của nội mô với oxy hóa và gắn không đặc hiệu với nội mô. Mức protein phản ứng C cao (CRP) không dự đoán tốt mức độ xơ vữa động mạch nhưng có thể tiên đoán được nguy cơ xảy ra các biến cố thiếu máu. Nếu không có tình trạng viêm kèm theo, CRP cao gợi ý nguy cơ vỡ mảng xơ vữa cao, quá trình loét và hình thành huyết khối đang xảy ra hoặc bạch cầu lympho và đại thực bào đang hoạt động mạnh. Bản thân CRP dường như không có vai trò trực tiếp gây xơ vữa động mạch. Nhiễm khuẩn C. pneumoniae hoặc các bệnh nhiễm trùng khác (ví dụ, virus, Helicobacter pylori) có thể gây rối loạn chức năng nội mạc do tổn thương trực tiếp, phơi nhiễm với nội độc tố, hoặc kích thích viêm toàn thân hoặc dưới vùng nội mạc. Bệnh thận mạn Bệnh thận mạn Bệnh thận mạn (BTM) là sự suy giảm chức năng thận tiến triển, kéo dài. Các triệu chứng tiến triển chậm và trong các giai đoạn tiến triển có các triệu chứng bao gồm chán ăn, buồn nôn, nôn, viêm... đọc thêm thúc đẩy sự phát triển của xơ cơ chế, gồm là nặng hơn tăng huyết áp và kháng insulin; giảmapolipoprotein AI; tăng lipoprotein (a), homocysteine, fibrinogen, và protein phản ứng C. Cấy ghép tim Ghép tim (Xem thêm Tổng quan về ghép tạng.) Ghép tim là một lựa chọn cho những bệnh nhân có bất kỳ điều nào sau đây và những người vẫn có nguy cơ tử vong và có các triệu chứng không thể dung nạp được... đọc thêm thường đi kèm với tăng tốc độ xơ vữa mạch vành, có thể liên quan tới tổn thương nội mô do tự miễn. Tăng xơ vữa mạch vành còn gặp sau xạ trị vùng ngực, nhiều khả năng là hậu quả của tổn thương nội mô do phóng xạ. Trạng thái tăng hình thành huyết khối (xem Tổng quan các rối loạn huyết khối Tổng quan các rối loạn huyết khối Ở người khỏe mạnh, cân bằng cầm máu tồn tại giữa các yếu tố tiền đông (đông máu) và các yếu tố chống đông và tiêu sợi huyết. Nhiều yếu tố di truyền, mắc phải và yếu tố môi trường có thể tạo... đọc thêm ) làm tăng khả năng xảy ra bệnh huyết khối trên nền xơ vữa. Một số biến thể di truyền đã được chỉ ra có liên quan chặt chẽ tới xơ vữa động mạch và biến cố tim mạch. Mặc dù mỗi biến thể chỉ có tác động nhỏ, nhưng tổng điểm nguy cơ của nhiều biến thể đã cho thấy có liên quan chặt chẽ với tình trạng xơ vữa động mạch nặng, cũng nhưng các biến cố tim mạch tiên phát và tái phát. Bệnh nhân có tăng homocysteine máu Tăng homocysteine máu (Xem thêm Tổng quan các rối loạn huyết khối.) Tăng homocystein máu có thể dẫn đến huyết khối động mạch và tĩnh mạch. Tăng homocystein máu có thể dẫn đến huyết khối động mạch và huyết khối tắc... đọc thêm (ví dụ, do thiếu folate hoặc bệnh lý chuyển hóa) có nguy cơ xơ vữa động mạch tăng. Tuy nhiên, các thử nghiệm lâm sàng phân nhóm ngẫu nhiên cũng như ngẫu nhiên hóa Mendel đều cho thấy các biện pháp làm giảm homocysteine máu đều không cải thiện tình trạng xơ vữa động mạch, do vậy bản thân homocysteine máu cao không còn được coi là nguyên nhân gây xơ vữa động mạch. Hiện nay vẫn chưa rõ nguyên nhân gây ra mối liên quan giữa tăng homocyteine máu và xơ vữa động mạch. Bệnh lý tại mạch máuXơ vữa động mạch ở một nhóm động mạch này làm tăng nguy cơ xơ vữa ở một nhóm động mạch khác. Bệnh nhân xơ vữa động mạch ở một mạch không phải mạch vành có nguy cơ gặp biến cố về tim tương đương bệnh nhân bệnh mạch vành, do vậy đó được coi là một yếu cơ bệnh mạch vành và cần được điều trị tích cực. Tài liệu tham khảo về các yếu tố nguy cơ
Triệu chứng cơ năng và thực thểXơ vữa động mạch thường không triệu chứng trong hàng chục năm. Các triệu chứng xuất hiện khi tổn thương làm cản trở dòng máu. Triệu chứng thiếu máu thoáng qua (ví dụ, đau thắt ngực Đau thắt ngực Chứng đau thắt ngực là một hội chứng lâm sàng về cảm giác khó chịu hoặc áp lực trước thời gian do thiếu máu cơ tim thoáng qua mà không phải nhồi máu. Cơn đau thắt ngực thường xuất hiện bởi gắng... đọc thêm ổn định khi gắng sức, thiếu máu não thoáng qua Cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua (TIA) Một cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua là sự thiếu máu cục bộ não gây ra thiếu sót thần kinh đột ngột, thoáng qua và không kèm theo nhồi máu não vĩnh viễn (nghĩa là, kết quả âm tính trên MRI... đọc thêm , đau cách hồi chi dưới) có thể xuất hiện khi mảng xơ vữa ổn định phát triển và gây hẹp > 70% lòng mạch. Co thắt mạch máu có thể khiến một tổn thương không gây hẹp đáng kể trở thành hẹp nặng hoặc tắc hoàn toàn. Triệu chứng của đau thắt ngực không ổn định Đau ngực không ổn định Đau ngực không ổn định là do tắc nghẽn động mạch vành mà không có nhồi máu cơ tim. Triệu chứng bao gồm khó chịu ngực có hoặc không khó thở, buồn nôn, và mồ hôi. Chẩn đoán bằng ECG và sự hiện... đọc thêm . nhồi máu cơ tim Nhồi máu cơ tim cấp tính (MI) Nhồi máu cơ tim cấp là hoại tử cơ tim do tắc nghẽn động mạch vành. Triệu chứng bao gồm khó chịu ngực có hoặc không khó thở, buồn nôn, và mồ hôi. Chẩn đoán bằng điện tâm đồ và sự hiện diện hoặc... đọc thêm Tác động của xơ vữa lên thành động mạch có thể gây tách hoặc phình động mạch, gây ra triệu chứng đau, khối đập theo nhịp, mắt mạch hoặc đột tử. Chẩn đoánTiếp cận chẩn đoán phụ thuộc vào có hay không triệu chứng lâm sàng. Bệnh nhân có triệu chứngBệnh nhân có triệu chứng thiếu máu được đánh giá mức độ và vị trí mạch bị hẹp bởi các thăm dò xâm nhập lẫn không xâm nhập, tùy thuộc vào cơ quan bị ảnh hưởng (xem các mục khác ở TheManual). Các bện nhân này cần được đánh giá nguy cơ xơ vữa động mạch qua
Bệnh nhân có bệnh lý xơ vữa tại một vị trí (ví dụ động mạch ngoại vi) cần được đánh giá thêm các vị trí khác (ví dụ mạch vành và mạch cảnh). Không phải tất cả các mảng xơ vữa đều có nguy cơ giống nhau, nhiều công nghệ chẩn đoán hình ảnh đang được nghiên cứu để xác định các mảng xơ vữa dễ nứt vỡ; tuy nhiên, những kỹ thuật này vẫn chưa được ứng dụng trên lâm sàng. Siêu âm mạch máu ba chiều, chụp mạch qua CT MRI là các biện pháp không xâm lấn đánh giá hình thái và tính chất mảng xơ vữa. Các thăm dò xâm lấn qua catheter bao gồm siêu âm trong lòng mạch (sử dụng đầu dò gắn trên catheter để tái tạo hình ảnh lòng và thành động mạch), nội soi mạch máu, chụp ảnh nhiệt mảng xơ vữa (để xác định mảng xơ vữa tăng nhiệt độ do viêm), chụp cắt lớp quang học (sử dụng laser hồng ngoại để chụp hình) và đo độ đàn hồi mảng xơ vữa (để xác định các mảng xơ vữa mềm, giàu lipid). Ghi hình miễn dịch phóng xạ là một thăm dò không xâm nhật sử dụng các chất đánh dấu phóng xạ để xác định các mảng xơ vữa dễ nứt vỡ. Chụp PET mạch máu llà một cách tiếp cận khác để đánh giá các mảng xơ vữa nguy cơ cao. Một số bác sĩ sử dụng các chất chỉ điểm viêm trong huyết thanh. Nồng độ protein phản ứng C > 3 mg/dL (>3000 μg/L) có khả năng dự báo tốt các biến cố tim mạch. Bệnh nhân không có triệu chứng (sàng lọc)Ở bệnh nhân có nguy cơ xơ vữa động mạch nhưng không có triệu chứng thiếu máu thì giá trị của các thăm dò cận lâm sàng ngoài xét nghiệm lipid máu vẫn chưa rõ ràng Mặc dù các thăm dò chẩn đoán hình ảnh nhằm phát hiện mảng xơ vữa (như đo độ dày lớp áo trong và áo giữa động mạch cảnh qua siêu âm) đang được nghiên cứu, chúng chưa thực sử cải thiện khả năng dự đoán biến cố thiếu máu so với các biện pháp công cụ dự đoán truyền thống dựa theo yếu tố nguy cơ, do vậy vẫn chưa được khuyến cáo sử dụng. Một ngoại lệ là chụp CT đánh giá vôi hóa mạch vành, là thăm dò có nhiều bằng chứng cho thấy có thể cải thiện phân tầng nguy cơ và hữu ích trong quyết định sử dụng statin ở một số bệnh nhân nhất định (ví dụ bệnh nhân có nguy cơ mức độ trung bình, tiền sử gia đình có bệnh tim mạch sớm). Đa số khuyến cáo đề nghị làm xét nghiệm lipid máu để sàng lọc nguy cơ ở các bệnh nhân có một trong các đặc điểm sao:
Hiện nay, Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ (AHA) khuyến cáo sử dụng các phương trình đánh giá nguy cơ tổng hợp (xem phần Downloadable AHA Risk Calculator) để ước lượng nguy cơ suốt đời và 10 năm về bệnh tim mạch do xơ vữa. Công cụ này đã thay thế các công cụ tính điểm nguy cơ trước kia (ví dụ, điểm Framingham). Bảng điểm nguy cơ mới dựa trên giới tính, tuổi, chủng tộc, cholesterol toàn phần và HDL, huyết áp tâm thu (và có đang điều trị tăng huyết áp hay không), đái tháo đường, tình trạng hút thuốc (1 Tài liệu tham khảo phần chẩn đoán (Xem thêm Xơ cứng động mạch không do xơ vữa.) Xơ vữa động mạch được đặc trưng bởi các mảng bám nội mạc (mảng xơ vữa) xâm lấn vào lòng các động mạch cỡ trung bình và lớn; các mảng bám này bao... đọc thêm Albumin niệu (Albumin trong nước tiểu >30 mg/24 giờ) là chỉ điểm cho rối loạn về thận tiến triển, cũng như yếu tố tiên lượng mạnh của bệnh lý tử vong do tim mạch cũng như không do tim mạch. Tuy nhiên mối quan hệ trực tiếp giữa albumin niệu và xơ vữa động mạch vẫn cưa được xác định. Tài liệu tham khảo phần chẩn đoán
Điều trị
Điêu trị bao gồm thay đổi tích cực các yếu tố nguy cơ để làm chậm tiến triển và kích thích thoái triển các mảng xơ vữa. Giảm LDL xuống dưới một mốc cụ thể không còn được khuyến cáo, thay vào đó là tiếp cận theo hướng "càng thấp càng tốt". Thay đổi lối sống bao gồm thay đổi chế độ ăn, bỏ thuốc lá, hoạt động thể lực đều đặn. Thường phải sử dụng thuốc để điều trị rối loạn lipid máu, tăng huyết áp và đái tháo đường. Các thay đổi lối sống và thuốc trên có thể cải thiện chức năng nội mạc trực tiếp hoặc gián tiếp, giảm viêm và cải thiện kết cục lâm sàng. Statins có thể làm giảm bệnh suất và tử vong do xơ vữa động mạch ngay cả khi cholesterol huyết thanh bình thường hoặc chỉ tăng nhẹ. Thuốc kháng tiểu cầu có ích cho mọi bệnh nhân xơ vữa động mạch. Bệnh nhân có bệnh mạch vành có thể hưởng lợi thêm từ thuốc ức chế men chuyển và chẹn beta. Chế độ ănMột số thay đổi có lợi:
Khuyến cáo giảm mạnh chất béo no, carbohydrate tinh được chế biến và tăng carbohydrate kèm chất xơ (hoa quả, rau xanh). Nhưng thay đổi này là yếu tố tiên quyết để kiểm soát lipid máu, giảm cân và rất cần thiết với mọi bệnh nhân. Lượng calorie nạp vào cơ thể cần được hạn chế để giữ cân nặng trong giới hạn bình thường. Giảm nhẹ tiêu thụ chất béo không cho thấy có khả năng hạn chế hay ổn định xơ vữa động mạch. Thay đổi hiệu quả đòi hỏi giới hạn lượng chất béo tiêu thụ không quá 20g/ngày, bao gồm từ 6 đến 10g chất béo không bão hòa đa với axit béo omega-6 (acid linoleic) và axit béo omega-3 (eicosapentaenoic acid, docosahexaenoic acid) với tỷ lệ tương đương, 2 g chất béo bão hòa, và phần còn lại là chất béo không bão hòa đơn. Cần tránh chất béo chuyển vị (trans-fat) vì nguy cơ gây xơ vữa cao. Tăng carbohydrate để bù đắp cho việc giảm chất béo bão hòa trong chế độ ăn làm tăng triglyceride và làm giảm HDL trong huyết tương. Do vậy thiếu hụt năng lượng nên được bù đắp bằng protein và chất béo không bão hòa hơn là carbohydrate đơn thuần. Cần tránh dùng quá nhiều chất béo và đường tinh, đặc biệt ở bệnh nhân có nguy cơ đái tháo đường cao, mặc dù lượng đường tiêu thụ không liên quan trực tiếp tới nguy cơ bệnh tim mạch. Thay vào đó, tiêu thụ carbohydrate phức tạp (ví dụ rau, ngũ cốc nguyên hạt) được khuyến khích. Trái cây và rau cải (5 phần ăn mỗi ngày) có vẻ làm giảm nguy cơ xơ vữa động mạch vành, nhưng liệu tác động này có phải do các hóa chất thực vật hay giảm lượng chất béo bão hòa và tăng lượng chất xơ và vitamin vẫn chưa rõ ràng. Các hóa chất thực vật có tên là flavonoid (trong nho đỏ và tím, rượu vang đỏ, trà đen và bia đen) có tính bảo vệ; nồng độ các chất này cao trong rượu vang đỏ có thể giải thích cho tỷ lệ xơ vữa động mạch vành thấp ở người Pháp, mặc dù họ tiêu thụ nhiều thuốc lá và chất béo hơn người mỹ. Tuy nhiên không có dữ liệu lâm sàng nào cho thấy ăn nhiều thức ăn chứa flavonoid hoặc dùng thực phẩm chức năng thay thức ăn giúp phòng ngừa xơ vữa động mạch. Tăng lượng chất xơ làm giảm cholesterol toàn phần và có thể có tác dụng có lợi trên glucose và mức độ insulin. Sử dụng 5 đến 10 g chất xơ hòa tan (ví dụ, cám yến mạch, đậu, các sản phẩm đậu nành, mã đề) mỗi ngày có thể làm giảm LDL khoảng 5%. Chất xơ không hòa tan (ví dụ cellulose, lignin) không tác động đến cholesterol nhưng có thể mang lại các lợi ích khác (như giảm nguy cơ ung thư đại tràng, có thể do kích thích nhu động ruột hoặc giảm thời gian tiếp xúc với các chất gây ung thư trong thực phẩm). Tuy nhiên, quá nhiều chất xơ ảnh hưởng tới sự hấp thu của một số khoáng chất và vitamin nhất định. Nhìn chung, thực phẩm giàu hóa chất thực vật và vitamin thường cùng giàu chất xơ. Rượu làm tăng HDL và có các tính chống huyết khối, chống oxy hóa và chống viêm không rõ ràng. Những tác động này dường như giống nhau với rượu, bia, rượu mạnh và xuất hiện khi tiêu thụ ở mức độ vừa phải, khoảng 30 mL ethanol (1 oz, khoảng 2 phần đồ uống có cồn thông thường) trong 5-6 lần/tuần có thể bảo vệ khỏi xơ vữa động mạch vành. Tuy nhiên, ở liều mức cao hơn, rượu có thể gây ra các vấn đề sức khoẻ đáng kể. Do vậy, mối quan hệ giữa rượu và tỷ lệ tử vong chung có hình chữ J; tỷ lệ tử vong thấp nhất khi uống < 14 lần/tuần với nam và < 9 lần/tuần với nữ. Những người tiêu thụ nhiều rượu nên giảm bớt. Tuy nhiên, các bác sĩ vẫn do dự khi khuyến khích những người không uống rượu sử dụng rượu dù dựa trên các bằng chứng bảo vệ rõ rệt. Có rất ít bằng về vai trò phòng xơ vữa động mạch của thực phẩm chức năng bổ sung vitamin, hóa chất thực vật và khoáng chất vi lượng. Ngoại lệ duy nhất là dầu cá Rối loạn lipid máu là tăng cholesterol, triglyceride (TGs) huyết tương, hoặc cả hai, hoặc lipoprotein tỉ trọng thấp góp phần vào sự phát triển của xơ vữa động mạch. Nguyên nhân có thể là tiên... đọc thêm Hoạt động thể chấtHoạt dộng thể chất đều đặn (ví dụ đi bộ, chạy bộ, bơi hoặc đạp xe 30-35 phút, trong 3-5 lần mỗi tuần) giúp dự phòng một số yếu tố nguy cơ (tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, đái tháo đường) và tử vong liên quan xơ vữa động mạch trên các bệnh nhân có hoặc không các biến cố thiếu máu trước đó. Liên quan giữa hoạt động thể lực là nhân quả hay chỉ đơn thuần những người khỏe mạnh hơn thì thường tập thể dục hơn vẫn chưa rõ ràng. Cường độ, thời gian, tần suất và loại hoạt động tối ưu vẫn chưa được xác định, nhưng đa số bằng chứng cho thấy có mối tương quan tuyến tính ngược giữa hoạt động thể lực nhịp điệu và các yếu tố nguy cơ. Đi bộ thường xuyên làm tăng khoảng cách bệnh nhân mắc bệnh mạch ngoại biên có thể đi bộ mà không đau. Một chương trình tập thể dục Rối loạn lipid máu là tăng cholesterol, triglyceride (TGs) huyết tương, hoặc cả hai, hoặc lipoprotein tỉ trọng thấp góp phần vào sự phát triển của xơ vữa động mạch. Nguyên nhân có thể là tiên... đọc thêm Thuốc kháng tiểu cầuCác thuốc kháng tiểu cầu đường uống có vai trò quan trọng vì đa số biến chứng xảy ra do nứt vỡ mảng xơ vữa dẫn đến hoạt hóa tiểu cầu và hình thành huyết khối. Những thuốc được sử dụng:
Aspirin được sử dụng rộng rãi nhất, tuy nhiên mặc dù lợi ích đã được chứng minh, thuốc vẫn chưa đủ sử dụng đúng mức. Aspirin được chỉ định cho dự phòng thứ phát và được khuyến cáo dùng trong dự phòng tiên phát xơ vữa động mạch vành ở bệnh nhân nguy cơ cao (ví dụ bệnh nhân tiểu đường có hoặc không xơ vữa động mạch, nguy cơ xảy ra biến cố tim mach trong vòng 10 năm 20% và nguy cơ chảy máu không cao, và bệnh nhân có nguy cơ trung bình, nguy cơ biến cố tim mạch trong vòng 10 năm từ 10 đến 20% và nguy cơ chảy máu thấp). Dù liều tối ưu chưa vẫn chưa rõ, thuốc thường được dùng đường uống 81 đến 325 mg/ngày trong suốt đời để dự phòng tiên phát và thứ phát. Tuy nhiên, liều 81 mg thường được ưu tiên do nguy cơ chảy máu thấp, đặc biệt khi dùng kèm các thuốc kháng tiểu cầu khác. Các biến cố thiếu máu vẫn tái phát ở khoảng 10-20% bệnh nhân đang dự phòng thứ phát với aspirin. Lý do có thể là kháng aspirin; các xét nghiệm để phát hiện sự thiếu hụt ức chế thromboxane (biểu hiện bởi tăng 11-dehydrothromboxane B2 niệu) đang được nghiên cứu để sử dụng trên lâm sàng. Một số bằng chứng cho thấy ibuprofen có thể gây trở ngại cho hiệu quả kháng tiểu cầu của aspirin, vì vậy các NSAID khác được khuyến cáo sử dụng trên những bệnh nhân đang dự phòng với aspirin. Tuy nhiên tất cả NSAIDs, bao gồm cả các thuốc ức chế chọn lọc COX-2 đều có thể làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch với các mức độ khác nhau. Clopidogrel (liều 75 mg/ngày đường uống) có thể thay thế aspirin khi biến cố thiếu máu tái phát trên các bệnh nhân đang dùng aspirin hoặc bệnh nhân không dung nạp aspirin. Clopidogrel kết hợp với aspirin có hiệu quả trong điều trị nhồi máu cơ tim cấp Nhồi máu cơ tim cấp tính (MI) Nhồi máu cơ tim cấp là hoại tử cơ tim do tắc nghẽn động mạch vành. Triệu chứng bao gồm khó chịu ngực có hoặc không khó thở, buồn nôn, và mồ hôi. Chẩn đoán bằng điện tâm đồ và sự hiện diện hoặc... đọc thêm Ticlopidine không còn được sử dụng rộng rãi vì nó gây ra giảm bạch cầu trung tính nặng ở 1% người dùng và có tác dụng phụ nghiêm trọng trên đường tiêu hóa. StatinStatin chủ yếu làm giảm LDL cholesterol. Cấc tác dụng có lợi khác bao gồm cải thiện sản xuất nitric oxide nội mac, ổn định mảng xơ vữa, giảm tích tụ lipid trong thành động mạch và thoái triển mảng xơ vữa. Statin được khuyến cáo để dự phòng ở 4 nhóm bệnh nhân (1 Tài liệu tham khảo mục điều trị (Xem thêm Xơ cứng động mạch không do xơ vữa.) Xơ vữa động mạch được đặc trưng bởi các mảng bám nội mạc (mảng xơ vữa) xâm lấn vào lòng các động mạch cỡ trung bình và lớn; các mảng bám này bao... đọc thêm
Ngoài ra statin cũng được ủng hộ để sử dụng trên những bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ khác, bao gồm tiền sửu gia đình mắc bệnh tim mạch do xơ vữa sớm (tuổi <55 với nam và <65 với nữ có quan hệ huyết thống trực hệ), CRP-hs 2 mg/L, điểm vôi hóa động mạch vành 300 đơn vị Agatson (hoặc bách phân vị thứ 75 so với nhóm đối chứng cùng đặc điểm), chỉ số ABI < 0.9. Điều trị statin được phân loại thành cường độ cao, thấp và trung bình, dựa trên nhóm bệnh nhân và tuổi (xem Bảng: Statins cho phòng ngừa ASCVD Statins cho phòng ngừa ASCVD Rối loạn lipid máu là tăng cholesterol, triglyceride (TGs) huyết tương, hoặc cả hai, hoặc lipoprotein tỉ trọng thấp góp phần vào sự phát triển của xơ vữa động mạch. Nguyên nhân có thể là tiên... đọc thêm Các loại thuốc khácCác thuốc ức chế men chuyển, chẹn thụ thể angiotensin II, ezetimibe, thuốc ức chế PCSK9 và các thiazolidinedione (ví dụ pioglitazone) có tính chất chống viêm giúp giảm nguy cơ xơ vữa động mạch, độc lập với các tác dụng trên huyết áp, lipid và glucose máu. Thuốc ức chế men chuyển ức chế khả năng làm rối loạn chức năng và viêm nội mạc của angiotensin. Ezetimibe cũng làm giảm LDL cholesterol bằng cách ngăn chặn sự hấp thu cholesterol từ ruột non qua ức chế protein giống C1 Niemann-Pick 1. Ezetimibe sử dụngl cùng statin có thể làm giảm biến cố tim mạch ở những bệnh nhân có biến cố trước đó và LDL cholesterol > 1,8 mmol / L. Các chất ức chế PCSK9 là nhóm thuốc hạ lipid máu mới. Các loại thuốc này là các kháng thể đơn dòng ngăn PCSK9 gắn với các thụ thể LDL, dẫn đến tăng luân chuyển các thụ thể này tới màng tế bào và làm tăng vận chuyển LDL cholesterol tới gan. LDL cholesterol có thể được giảm từ 40 đến 70%. Các thử nghiệm lâm sàng kéo dài cho thấy thuốc làm giảm sự xơ vữa động mạch và các biến cố tim mạch. Những loại thuốc này hữu ích nhất ở những bệnh nhân có tăng cholesterol máu gia đình, những bệnh nhân gặp biến cố tim mạch mà chưa đạt được mục tiêu LDL dù đã điều trị nội khoa tối ưu với statin, hoặc những bệnh nhân cần hạ lipid máu nhưng có bằng chứng khách quan là không dung nạp với statin. Thiazolidinedione có thể kiểm soát biểu hiện của các gentiền viêm, mặc dù các nghiên cứu gần đây cho thấy chúng có thể làm tăng nguy cơ xảy ra biến cố mạch vành. Folate (folic acid) đường uống 0,8 mg hai lần một ngày đã được sử dụng trước kia trong tăng homocysteine máu nhưng không có thấy làm giảm biến cố mạch vành cấp tính. Vitamin B6 và B12 cũng làm giảm homocysteine máu, nhưng dữ liệu hiện tại không ủng hộ việc sử dụng chúng đơn độc hoặc kết hợp với folate. Sử dụng macrolide và các kháng sinh khác để điều trị nhiễm khuẩn C. pneumoniae tiềm tàng mãn tính (nằm hạn chế viêm và theo lý thuyết làm thay đổi tiến trình xơ vữa động mạch) chưa cho thấy hiệu quả. Tài liệu tham khảo mục điều trị
Những điểm chính
|